Soạn kết nối tri thức SBT ngữ văn 7 tập 1 bài 5: Màu sắc trăm miền (đọc hiểu và thực hành tiếng việt)

Soạn chi tiết, cụ thể bài 5: Màu sắc trăm miền (đọc hiểu và thực hành tiếng việt) sách bài tập ngữ văn 7 tập 1 bộ Kết nối tri thức. Đây là bộ sách mới được phê duyệt trong chương trình đổi mới của Bộ Giáo dục và đào tạo. Hi vọng, với cách hướng dẫn cụ thể và giải chi tiết học sinh sẽ nắm bài học tốt hơn trong chương trình học mới này.

Bài 1: Đọc lại văn bản Tháng Giêng, mơ về trăng non rét ngọt trong SGK (tr. 107 – 109) và trả lời các câu hỏi:

1. Trong hai đoạn văn đầu của văn bản, tác giả muốn khẳng định điều gì? Em có đồng ý với quan điểm của tác giả không?

2. Em cảm nhận được điều gì về không gian mùa xuân miền Bắc qua các chi tiết mưa riêu riêu, gió lành lạnh, tiếng trống chèo, cái rét ngọt ngào, mùi hương man mác? Hãy chia sẻ về không gian mùa xuân ở quê em.

3. Những chi tiết như những vệt xanh tươi hiện ở trên trời, những làn sáng hồng hồng báo hiệu điều gì về sự chuyển đổi của thời gian và không gian? Từ đó, nêu nhận xét của em về khả năng cảm nhận thế giới bên ngoài của nhà văn.

4. Theo em, vì sao tác giả lại viết là mùa xuân thần thánh?

5. Những biến đổi trong tâm hồn khi mùa xuân đến được tác giả diễn tả như thế nào?

6. Bầu trời đêm tháng Giêng hiện lên như thế nào? Theo em, vì sao tác giả gọi trăng tháng Giêng là trăng non?

7. Hãy giải thích nhan đề bài tuỳ bút.

8. Chỉ ra những biện pháp tu từ được sử dụng ở những cụm từ in đậm trong câu văn dưới đây và nêu tác dụng của chúng:

Ai bảo được non đừng thương nước, bướm đừng thương hoa, trăng đừng thương gió; ai cấm được trai thương gái, ai cấm được mẹ yêu con, ai cấm được cô gái còn son nhớ chồng thì mới hết được người mê luyến mùa xuân.

Trả lời: 

1. Trong đoạn văn đầu của văn bản, tác giả muốn khẳng định " ai cũng chuộc mùa xuân" em hoàn toàn đồng ý với quan điểm trên của tác giả.

2. Em cảm nhận được về không gian mùa xuân miền Bắc qua các chi tiết mưa riêu riêu, gió lành lạnh, tiếng trống chèo, cái rét ngọt ngào, mùi hương man mác? Hãy chia sẻ về không gian mùa xuân ở quê em: 

- Em cảm thấy được mùa xuân vô cùng đjep, và thơ mộng

- Mùa xuân trên quê hương em đầy sự thanh bình, vui tươi. Mỗi khi xuân đến, cây cối quanh các đường làng, trên các cánh đồng lại thi nhau đâm chồi nảy lộc tỏa ra sức sống dồi dào làm cho chúng em cũng luôn có cảm giác tươi vui. Có những cây hoa gạo trên con đường vào làng em xếp thẳng hàng nở ra những bông hoa đỏ chói như những bó đuốc trông rất bắt mắt. Chúng em thường nhặt những bông hoa gạo rụng để xâu thành chuỗi, tạo thành những chiếc vòng để chơi trò chơi.

3. Những chi tiết như những vệt xanh tươi hiện ở trên trời, những làn sáng hồng hồng báo hiệu điều gì về sự chuyển đổi của thời gian và không gian: nhà văn la một người có con mắt nhìn tinh tế, và chi tiết, ông yêu thiên nhiên và yêu cả cái đẹp của thiên nhiên ban tặng. 

4.  Vì mùa xuân khiến cho tác giả phải yêu, phải phát điển với vẻ đẹp của nó mang lại. Cảnh vật muôn hoa cũng như thế mà xinh đẹp, tươi mới hơn.

5. Những biến đổi tâm hồn khi mùa xuân đến được tác giả diễn tả: tim người ta dường như cũng trẻ ra, và đập mạnh hơn trong mùa đông tháng giá, cái rét ngọt nào, không còn tê buốt căm căm nữa.

6. Bầu trời đêm tháng Giêng hiện lên: Cuối tháng giêng có những đêm không mưa, trời sáng lung linh như ngọc, chỉ chừng mười giờ tối thì trăng mọc cao lên đỉnh đầu.

- Gọi trắng tháng giêng là trăng non vì:  Đây là thời điểm giao mùa, mùa đó bây giờ mới bắt đầu xuất hiện.

7. Nhan đề tuỳ bút có nghĩa là: Tháng giêng là tháng của mùa xuân, qua mùa xuân rồi đến hạ. Có lễ thời khắc giao màu giữa mùa xuân và mùa hạ vẫn còn làm tác giả nhớ nhung cái rét của mùa xuân nhưng lại mơ về đêm tẳng của mùa hạ.

8. - Biện pháp nghệ thuật: nhân hoá

- Tác dụng: làm câu văn trở lên sống động, hấp dẫn, gợi hình, gợi cảm.

Bài 2: Đọc lại văn bản Tháng Giêng, mơ về trăng non rét ngọt (từ đầu đến nhưng yêu nhất mùa xuân không phải là vì thế) trong SGK (tr. 107) và trả lời các câu hỏi:

1. Tác giả đưa ra những lí lẽ gì để khẳng định ai cũng chuộng mùa xuân?

2. Vì sao tác giả lại đưa ra các đối tượng sóng đôi: non – nước, bướm – hoa, trăng – gió, trai – gái, mẹ – con, cô gái còn son (vợ) – chồng để khẳng định mối quan hệ giữa con người và mùa xuân? Cách nói này tác động như thế nào đến cảm nhận của người đọc?

3. Cách tác giả nói về “lí do” yêu mùa xuân của những đối tượng khác nhau trong đoạn trích có gì đặc biệt? Hãy diễn tả liên tưởng của em về hoàn cảnh riêng trong cuộc sống của từng đối tượng ấy.

4. Những cụm từ nghe thấy rạo rực nhựa sống, đồi núi chuyển mình, sông hồ. động, mùa xanh lên hi vọng cho thấy khả năng cảm nhận thế giới xung quanh của tác giả như thế nào?

5. Chỉ ra biện pháp tu từ được dùng ở cụm từ in đậm trong câu văn sau và nêu tác dụng: Mà người thiếu phụ nọ ở chân trời góc biển yêu mùa xuân có phải là vì đấy là mùa xanh lên hi vọng được trở về nơi bến đợi sông chờ để ngâm lại khúc bạc đầu với người ra đi chưa biết ngày nào trở lại? 

 Trả lời: 

1. Tác giả đưa ra những dẫn chứng để thuyết phục mọi người ai cũng thích mùa xuân: 

- Ai bảo được non đừng thương nước, bướm đừng thương hoa, trăng đừng thương gió, ai cấm được trai thương gái, ai cấm được mẹ yêu con, ai cấm được cô gái còn son nhớ chồng thì mới hết được người mê luyến màu xuân.

- Em yêu mùa xuân có phải vì nghe thấy rạo rực nhựa sống trong cành mai, gốc đào, chồi mận ở ngoài vườn.

- Chàng trai kia yêu mùa xuân, phải chăng là tại lúc đôi mùa giao tiễn nhau, chàng tưởng như nghe thấy đồi núi chuyển mình, sông hồ rung động trong cuộc đổi thay thường xuyên của cuộc đời? Mà người thiếu phụ nọ ở chân trời góc biển yêu mùa xuân có phải là vì đấy là mùa xanh lên hi vọng được trở về nơi bến đợi sông chờ để ngâm lại khúc bạc đầu với người ra đi chưa biết  ngày nào trở lại? 

2.- Tác giả lại đưa ra các đối tượng sóng đôi: non – nước, bướm – hoa, trăng – gió, trai – gái, mẹ – con, cô gái còn son (vợ) – chồng để khẳng định mối quan hệ giữa con người và mùa xuân vì đây là những thứ luôn đồng hành với nhau, bên cạnh đó cũng là quy luật của tự nhiên.

- Cách nói như vậy. làm cho người đọc cảm thấy gần gũi và vô cùng tự nhiên.

3.- Điều đặc biệt đó chính là tác giả đã hiểu được từng nhân vật, và điều đó lại cho thấy được sự tinh tế của tác giả khi nói về từng đối tượng.

-  Tuy từng đối tượng có những nỗi nhớ, cảm xúc khác nhua nhưng họ lại có một đặc điểm chung đó chính là yêu màu xuân, yêu những gì hiện diện gần và quan trọng đối với họ. Cnahr vật cũng dường như được nhân hoá giống con người có thương có nhỡ, có hoài niệm.

4. Những cụm từ nghe thấy rạo rực nhựa sống, đồi núi chuyển mình, sông hồ động, mùa xanh lên hi vọng cho thấy khả năng cảm nhận thế giới xung quanh của tác giả là một người có cái nhìn tinh tế, độc đáo, yêu thiên nhiên. Bên cạnh đó cũng thấy được sự quan sát, và dùng từ đỉnh cao của tác giả.

5. - Biện pháp tu từ: nhân hoá 

- Tác dụng: Làm câu văn trở lên sinh động, gần gũi với con người.

Bài 3: Đọc hai đoạn văn dưới đây trong văn bản Tháng Giêng, mơ về trăng non rét ngọt và trả lời các câu hỏi:

Đoạn 1: Nhang trầm, đèn nến, và nhất là bầu không khí gia đình đoàn tụ êm đềm, trên kính dưới nhường, trước những bàn thờ Phật, bàn thờ Thánh, bàn thờ Tổ tiên làm cho lòng anh ấm lạ ấm lùng, tuy miệng chẳng nói ra nhưng trong lòng thì cảm như có không biết bao nhiêu là hoa mới nở, bướm ra ràng mở hội liên hoan. 

Đoạn 2: Ấy là lúc thịt mỡ dưa hành đã hết, người ta bắt đầu trở về bữa c cơm giản dị có cà om với thịt thăn điểm những lá tía tô thái nhỏ hay bát canh trứng cua vắt chanh ăn mát như quạt vào lòng. Cánh màn điều treo ở trước bàn thờ ông vải đã hạ xuống từ hôm “hoá vàng” và các trò vui ngày Tết cũng tạm thời kết thúc để nhường chỗ cho cuộc sống êm đềm thường nhật. 

1. Hai đoạn văn miêu tả không gian nào?

2. Bước đi của thời gian biểu hiện như thế nào qua cách miêu tả không gian?

3. Nét đẹp của đời sống gia đình được tác giả cảm nhận ra sao?

4. Tháng Giêng, mơ về trăng non rét ngọt là bài đầu tiên trong tập tuỳ bút Thương nhớ Mười Hai của Vũ Bằng. Từ hai đoạn văn trên, em hiểu gì về nỗi niềm của tác giả gắn với tháng Giêng? Dựa vào phần giới thiệu về tác giả, tác phẩm (SGK, tr. 109), hãy giải thích nhan đề của tập tuỳ bút.

5. Hai đoạn văn gợi cho em những liên tưởng gì về gia đình mình?

6. Chỉ ra biện pháp tu từ so sánh trong hai đoạn văn trên và nêu tác dụng.

Trả lời:

1. Hai đoạn văn diễn tả không gian ngày tết.

2. Bước đi của thời gian biểu hiện nhanh chóng nhưng hết sức vô cùng ấm áp. Không gian thời gian như được hoà quyện vào nhau, và không gian trở lên âm ấp và gần gũi.

3. Nét đẹp của đời sống gia đình được tác giả cảm nhận "làm cho lòng anh ấm lạ ấm lùng, tuy miệng chẳng nói ra nhưng trong lòng thì cảm như có không biết bao nhiêu là hoa mới nở, bướm ra ràng mở hội liên hoan" đó là những truyền thống, phong tục lâu đồi và vô cùng đẹp đẽ nên gìn giữ.

4.Tháng Giêng, mơ về trăng non rét ngọt là bài đầu tiên trong tập tuỳ bút Thương nhớ Mười Hai của Vũ Bằng. Từ hai đoạn văn trên, em hiểu về nỗi niềm của tác giả gắn với tháng Giêng: Theo quan sát đọc hai đoạn văn em cảm thấy tác giả là một người yêu không khí gia đình, yêu cảnh xum vầy bên người thân nhất là những lúc linh thiêng nhất.

- Nhan đè của tuỳ bút khá là dài, nhưng lại rất đủ thông tin. Được chia làm hai vế, dường như muốn nói đến sự chuyển mình của. không gian cũng như sự nuối tiếc của tác giả với cảnh vật. Tuy thế tác giả vẫn tự nhiên đón lấy cái mới mẻ mà thiên nhiên mang lại và đi tới dó chính là hình ảnh trăng.

5. Đoạn văn giúp em hình dung lại hình ảnh ngày tết, không khí ấm áp, mà chỉ có gia đình mới có bên cạnh những giờ phút linh thiêng ấm áp ấy.

6. - Đoạn 1: Trong lòng - không biêt là bao nhiêu là hoa nở.

- Tác dụng: Làm câu văn trở lên gợi hình gợi cảm, và hay hơn.

- Đoạn 2: Ăn mát - quạt vào lòng. 

- Tác dụng: Làm câu văn trở lên sinh động, gợi hình, và hay hơn.

Bài 4: Đọc lại văn bản Chuyện cơm hến trong SGK (tr. 111 – 115) và trả lời các câu hỏi:

1. Nêu những chi tiết trong văn bản nói về thói quen ăn đồ ăn có vị cay hoặc đắng của người Huế.

2. Có điều gì thú vị trong việc tác giả liệt kê những cách diễn tả cảm giác cay trong ngôn ngữ của người Huế?

3. Nói về phong cách ẩm thực của người Huế, tác giả cho rằng Người Huế ăn giống như học bài học cuộc đời. Em hiểu thế nào về cách nói đó?

4. Em có nhận xét gì về nguyên liệu và cách chế biến món cơm hến của người Huế? Cách chế biến cơm hến thể hiện điều gì trong cách sống của người dân nơi đây?

5. Nỗi nhớ của người xa quê trong câu ca dao Anh đi anh nhớ quê nhà/Nhớ canh rau muống, nhớ cà dầm tương có gì tương đồng với nỗi nhớ món cơm hến của tác giả?

6. Em hiểu gì về “bản quyền sáng chế” của món cơm hến? Em có đồng tình với tác giả khi ông nêu quan điểm: Tôi nghĩ rằng, trong vấn đề khẩu vị, tính bảo thủ là một yếu tố văn hoá hết sức quan trọng, để bảo toàn di sản? Vì sao?

7. Cho biết công dụng của dấu ngoặc kép ở từng trường hợp trong đoạn văn sau:

Nhưng lạ nhất là thói ăn cay, đến nỗi chính tôi cũng không hiểu sao mình lại ăn cay “tài” đến như vậy. Người Huế có đủ cung bậc ngôn ngữ để diễn tả vị cay, bao gồm hết mọi giác quan, càng nói càng “sướng miệng”: cay phỏng miệng, cay xé lưỡi, cay điếc mũi, cay chảy nước mắt, cay toát mồ hôi, cay điếc tai, cay điếc óc,... [...] Có thể nói rằng người Huế bắt đầu thực đơn hằng ngày bằng một tô bún bò “cay dễ sợ, tiếp theo là một ngày cay “túi mắt túi mũi” để kết thúc với tiếng rao “Ai ăn chè?”, một chén ngọt lịm trước khi ngủ.

Trả lời: 

1. Những chi tiết trong văn bản nói về thói quen ăn đồ ăn có vị cay hoặc đắng của người Huế: 

- Người Huế ăn giống như học bài học cuộc đời, phải nếm đủ vị mặn, lạt, chua, cay, ngọt, bùi, không chê vị nào; lại còn tỏ ra thích thú với hai vị mà thiên hạ đều sợ, là cay và đắng. [...]

- Người Huế thích dùng mướp đắng lúc còn xanh; nấu canh phải duống( nồi nước sôi xuống để thả mướp vào mới đảm bảo là đắng, lại còn bóp mướp sống làm món nộm, đăng một cách tuyệt vời!

2. Điều gì thú vị trong việc tác giả liệt kê những cách diễn tả cảm giác cay trong ngôn ngữ của người Huế: 

- Nhưng lạ nhất là thói ăn cay, đến nỗi chính tôi cũng không hiểu sao mình lại ăn cay “tài” đến như vậy. Người Huế có đủ cung bậc ngôn ngữ để diễn tả vị cay, bao gồm hết mọi giác quan, càng nói càng “sướng miệng”: cay phỏng miệng, cay xé lưỡi, cay điếc mũi, cay chảy nước mắt, cay toát mồ hôi, cay điếc tai, cay điếc óc,..[...] Có thể nói rằng người Huế bắt đầu thực đơn hằng ngày bằng một tô bún bò “cay dễ sợ”.

3. Nói về phong cách ẩm thực của người Huế, tác giả cho rằng Người Huế ăn giống như học bài học cuộc đời: Có nghĩa là trong cuộc sống chúng ta ai cũng phải trải qua nhiều hường vị đắng, cay, ngọt , bùi,.. ẩm thực của họ cũng như những kết quả của bản thân khi làm xong một chuyện gì đó, bên cạnh đó cũng hãy đón nhận như một hương vị thức ăn rồi sẽ tốt.

4. - Nguyên liệu và cách làm cơm hến sức phong phú và khó. 

- Cách làm cơm hến thể hiện sự kĩ càng, tỉ mỉ trong cách sống của người dân Huế.

5. Nỗi nhớ của những người con xa quê đều có một đẵ điểm chung đó chính là đều nhớ về những thứ hết sức gần gũi và cũng chính là hương vị quen thuộc ở vùng miền đó.

6. " bản quyền sáng chế" đó chính là cách chế biến của một món ăn mà được thoe một công thức nhất định và được gìn giữ. 

- Em. không đồng tình với ý kiến của tác giả bởi mỗi người có một cách thưởng thức món ăn là khác nhau, nên mỗi món ăn khi đi qua từng vùng miền lạ được biến tấu khác đi để phù hợp với khẩu vị của người ở vùng đó. 

7. - Công dụng của dấu ngoặc kép đó chính là nêu lên nhưng gì nổi bật của món ăn cơm hến, làm người đọc có thể thấy đươc nét đặc biệt trong món ăn này.

Bài 5: Đọc lại văn bản Chuyện cơm hến (từ Xin tiếp tục chuyện cơm hến đến bán cho những người làm cơm hến) trong SGK (tr. 113) và trả lời các câu hỏi:

1. Nội dung của đoạn văn là gì?

2. Việc người dân gọi tên cái cồn nổi là Cồn Hến cho thấy cách cấu tạo địa danh của cư dân bản địa. Em biết những địa danh nào cũng được cấu tạo theo cách như vậy?

3. Trong các lễ hội, người ta thường tổ chức cúng tế và các trò chơi. Lễ cúng hến được miêu tả trong văn bản có gì khác biệt?

4. Theo em, thông tin về lễ cúng hến có vai trò như thế nào trong văn bản Chuyện cơm hến?

Trả lời: 

1. Nội dung: Đó chính là giớii thiệu đến hến cồn, và cách chúng sinh sống, cách bắt và cách chế biến.

2. Việc người dân gọi tên cái cồn nổi là Cồn Hến cho thấy cách cấu tạo địa danh của cư dân bản địa là ở đây Cồn Hến là một cồn nhỏ được phù sa bồi lấp ở giữa sông Hương, và nơi đây có, nhiều dây cư tập trung đông đúc.

- Địa danh được đặt như vậy: Cồn nổi,...

3. Miêu tả: Dân cồn làm nghề xúc hến mỗi năm đều có lễ cúng hến vào tháng Bảy, trên những con đò cờ xí rộn ràng, tiếng trống vang lừng, người ta luộc hến xong đem ra sông đãi trong những chiếc rổ lớn, tách vỏ, lấy riêng mặt hến(5) đem đong chén bán cho những người làm cơm hến.  

4. Theo em, thông tin về lế cúng hến có vai trò vô cùng quan trọng và cần thiết trong văn bản Chuyện cơm hến.

Bài 6: Đọc lại văn bản Những khuôn cửa dấu yêu trong SGK (tr. 126 – 129) và trả lời các câu hỏi:

1. Tại sao đối với tác giả, những ô cửa sổ lại có sức hút kì lạ?

2. Tìm những câu văn trong văn bản cho thấy cửa sổ không phải là vật vô tri. Hãy ngắm nhìn một ô cửa sổ nào đó và chia sẻ những cảm xúc, suy nghĩ của em về nó.

3. Từ hình ảnh trung tâm là cửa sổ, tác giả đã cho thấy không gian sinh hoạt của người dân bản địa. Hãy chỉ ra một vài chi tiết thể hiện nét đẹp, sự độc đáo trong văn hoá Ý được miêu tả trong không gian đó. Em thích nhất chi tiết nào? Vì sao?

4. Văn bản có nhiều đoạn văn giàu tính tạo hình. Hãy chỉ ra một đoạn văn như A thế. Nếu có thể, em hãy dựa vào các chi tiết trong đoạn văn để vẽ thành một bức tranh và giới thiệu về bức tranh đó.

5. Chỉ ra biện pháp tu từ được dùng trong những câu văn dưới đây và nêu tác dụng:

– Khuôn cửa nhỏ cũ kĩ, nhìn có vẻ mệt mỏi nhưng vững chãi đã ở đó biết bao năm tháng, phía bên dưới đường là một vòi nước đã tồn tại ở đó ít nhất năm thế kỉ.

- Có những cửa sổ đã thành nơi hẹn hò của chim bồ câu.

4. Văn bản có nhiều đoạn văn giàu tính tạo hình. Hãy chỉ ra một đoạn văn như A thế. Nếu có thể, em hãy dựa vào các chi tiết trong đoạn văn để vẽ thành một bức tranh và giới thiệu về bức tranh đó.

5. Chỉ ra biện pháp tu từ được dùng trong những câu văn dưới đây và nêu tác dụng:

– Khuôn cửa nhỏ cũ kĩ, nhìn có vẻ mệt mỏi nhưng vững chãi đã ở đó biết bao năm tháng, phía bên dưới đường là một vòi nước đã tồn tại ở đó ít nhất năm thế kỉ.

- Có những cửa sổ đã thành nơi hẹn hò của chim bồ câu.

Trả lời:

1. Vì:  Những của sổ giống đối mắt của các căn nhà nhìn ra cuộc sống, và các ô của sổ được trnag trí rất đẹp.

2. Kính trên Bộ-rờ-gô Pi-ô (Borgo Pio), một con phố đi bộ nhỏ chỉ cách toà thánh a Giêng, mơ về va-ti-căng (Vatican) vài trăm mét. Nó rất ít khi đóng, kể cả khi chủ căn hộ không có nhà, và phủ quanh năm cạnh ô cửa nhỏ hình chữ nhật luôn là một biển lá thường xuân. Mùa xuân và hè, lá xanh mơn mởn lấp kín bức tường rêu phong, chỉ chừa lại một chút không gian cho những biển thông báo có lẽ đã nằm ở nơi này vài thập kỉ, cạnh đó dựng một chiếc xe đạp của ai đó đã lâu không đi, hoen rỉ và rầu rĩ. Mùa thu, lá cây chuyển màu. Bức tường trở thành một bức tranh màu vàng úa dưới nắng thu. Đầu đông, lá cây chuyển sang đỏ và héo dần. Dưới những cơn mưa và cái lạnh của Rô-ma (Roma), trông như chúng đang chết. Chỉ còn cái cửa sổ và ngọn đèn lắp kế bên như một người tri kỉ qua năm tháng là vẫn thế, không đổi, im lặng.

- Căn phòng của em cũng có một chiéc của sổ, bên ngoài nhìn ra thấy được những cành nhãn đang đơm hoa, cùng vơi đó là những chumd hoa giấy đỏ rực cả bầu trời xanh. Thực sự emmraast thích khung cảnh ấy và cảm giấy nó như mổ người bạn thực sự của mình, cho mình thấy được một vẻ đẹp thu nhỏ.

3. Chi tiết thể hiện nét đẹp, sự độc đáo trong văn hoá Ý: Khuôn cửa nhỏ cũ kĩ, nhìn có vẻ mệt mỏi nhưng vững chãi đã ở đó biết bao năm tháng, phía bên dưới đường là một vòi nước đã tồn tại ở đó ít nhất năm thế kỉ. Biết bao nhiêu người Rô-ma đã đi qua đây, bao nhiêu Giáo hoàng, Hồng y và những thế hệ người khác đã đặt chân lên nơi đây, dừng chân, khum tay hứng nước và uống ở cái vòi chảy suốt ngày đêm, cho thứ nước mát lạnh mà ông bạn già của tôi – chính là người chủ của căn hộ có chiếc cửa sổ chằng chịt cây thường xuân ấy – đã khẳng định rằng đấy là “nước thánh”. 

Em cũng rất thích hci tiết này, bởi nó rất độc đáo. 

4. - Đoạn văn tạo hình:

(Trastevere) với những căn nhà liêu xiêu, tường vàng vọt, lở loét, đây tranh vẽ, hè vương vãi những lá, những tờ rơi quảng cáo, những chiếc xe đạp hay ve-xpa nhợt nhạt vì thời gian dựa bên tường, nhưng lúc nào cũng ngự trị ở đó một cửa sổ ngạo nghễ với thời gian.  

- (vẽ hs tự làm)

5. - Biện pháp tu từ: nhân hoá 

- Tác dụng: Làm câu văn thêm gợi hình, gợi cảm, gần gũi với con người.

Bài 7: Đọc đoạn trích sau và trả lời các câu hỏi:

Ở đó có những căn nhà không bao giờ khép cửa. Những căn nhà không cả vách che đằng trước, vì chẳng ai thèm tham lam của ai cái gì. Không cần giới thiệu gì cả, bản chất của xứ sở chúng tôi là đây, những ngôi nhà nầy”. Mưa Nam hay mưa Chướng, nhà chỉ treo một cái rèm bằng mấy cái bao bố may ghép lại hoặc bằng lá chằm đóp3). Không cái gì cho người ta cái cảm giác thái bình, nó ấm như thế, không có gì cho ta sự gần gũi, thân thuộc như thế. Những ngôi nhà rất rộng lòng, mở trong tầm nhìn của ta một chiếc giường, một cái bàn thờ gia tiên, cái bàn trà, một bức màn vải thêu hình hai con chim loan đậu trên cànhtrúc, thấy nhà nó hợp với con rạch nầy làm sao đâu, vì khi nước ròng rạch cũng cạn lòng, phơi đáy. Nó hợp với tính cách con người của vùng đất nầy làm sao đâu, vì người ở đây cũng sống khoảng khoát (3), cởi mở, rộng rãi, hào sảng.

Người ấp…(4) Mũi ít khi làm buồng để ngủ, buồng chỉ để cho con gái, cho những cặp vợ chồng son, người xứ biển thích ngủ đằng trước nhà, chỉ cần cái mùng), khỏ chiếu, áp cái lưng trần đỏ au xuống với sàn nhà bằng gỗ được bóng như gương đồng vậy là được một giấc ngủ ngon. Mà đúng là ngủ ở ngoài nầy thì thích không chịu được.

Nhà bao nhiêu gian thì bấy nhiêu gian đầy gió. Trong cái mùi biển tanh nồng mặn mòi của những giàn lưới phơi trên giá, trong cái mùi khói ngọt bùng nhùng toả ra từ mẻ un, dường như có nhà ăn cơm chiều trễ, nghe mùi béo ngậy của cá thòi lòi(8) kho với nước cốt dừa. Và đâu đó chắc có vài người chuẩn bị lai rai), rõ ràng là mùi thơm khô mực nướng trên lò than đang tàn.

[...] Gió vẫn như múa, như ca, như chạy, như nấp bên ngoài cái mùng vải thơm mùi nắng. Những chiếc tàu đánh cá ầm ì chạy qua, và tiếng biển, đúng là tiếng biển lướt trên những búp lá đẫm sương trong rừng đước, rì rào rất gần. Chỉ có tiếng biển mới mênh mông một nỗi nhớ bờ như thế.

(Nguyễn Ngọc Tư, Ngủ ở Mũi, in trong Tạp văn Nguyễn Ngọc Tư, NXB Trẻ và Thời báo Kinh tế Sài Gòn, TP. Hồ Chí Minh, 2006, tr. 159 – 161)

1. Những nét sinh hoạt nào của cư dân vùng đất Mũi Cà Mau được nói tới trong đoạn trích?

2. Những ngôi nhà vùng đất Mũi có gì đặc biệt? Tại sao tác giả lại nói bản chất của xứ sở chúng tôi là đây, những ngôi nhà nầy?

3. Ở trong một căn nhà đơn sơ, vì sao con người lại có cảm giác về fono ám? sự thái i bình,

4. Theo em, vì sao người xứ biển thích ngủ đằng trước nhà? Sở thích này thể hiện điều gì ở con người đất Mũi?

5. Cảnh sinh hoạt lúc chiều tối của cư dân đất Mũi gợi cho em những suy nghĩ gì?

6. Nêu những cụm từ thể hiện tính chất khẩu ngữ của đoạn trích.

7. Liệt kê những từ ngữ địa phương trong đoạn trích. Cho biết tác dụng của việc

sử dụng những từ ngữ địa phương đó.

8. Chỉ ra biện pháp tu từ được dùng trong các câu văn sau và nêu tác dụng:

a. Gió vẫn như múa, như ca, như chạy, như nấp bên ngoài cái mùng vải thơm mùi nắng.

b. Chỉ có tiếng biển mới mênh mông một nỗi nhớ bờ như thế.

Trả lời: 

1. Những nét sinh hoạt của dân cư Cà Mau được nói tới trong văn bản đó chính là: 

- Cách xây dựng nhà cửa, cách đối mặt với thiên thiên

- Và tính tình thật thà của người dân nơi đây.

2. Đặc điểm của những căn nhà ở Cà Mau:

- Các các căn nhà được xây dựng một cách thô sơ, và giản dị.,

-Các căn phòng thì dường như khôgn có buồng ngủ, buồng ngủ chỉ dành cho con gái và cặp vợ chồng son.

- Nhà có bấy nhiêu gian, thì gian nào cũng đầy gió. 

=> Vì nó hết sức thô sơ, và giản dị, không được chắc chắn.

3. Bởi vì: Những con người nơi đây đã sống quen thuộc với cảnh vật như thế rồi, cho nên họ cảm thấy thái bình, no ấm. Và phong tục tập quán đã để lại nên họ tiếp nhận.

4. Người xứ biển thích ngủ trước đằng trước nhà vì:  áp cái lưng trần đỏ au xuống với sàn nhà bằng gỗ được bóng như gương đồng vậy là được một giấc ngủ ngon. Mà đúng là ngủ ở ngoài nầy thì thích không chịu được.

=> Có lẽ là ngủ ngoài đây rất mát và thoải mái.

5. Cảnh sinh hoạt của của cư dân đất mũi gợi cho em cảm thấy độc đáo, hoà mình vào với thiên nhiên.

6. Khẩu ngữ: - nầy làm sao đâu

7. - Từ ngữ địa phương: nầy, chằm đóp, con rạch, nước ròng, ấp,...

=> Tác dụng: Làm bài văn trở lên sinh động, gần gũi, và đậm chất địa phương của nơi này.

8. a. Nhân hoá => Làm câu văn trở lên sinh động, gợi hình, gợi cảm 

b. Nhân hoá => Làm câu văn trở lên hấp dẫn. sinh động, gợi hình, đầy cảm xúc.

Bài 8: Đọc đoạn trích sau và trả lời các câu hỏi:

Làng Vân bị vây bọc quanh bởi nhiều con sông; và tôi nghĩ rằng đấy là một thế đất cần thiết cho sự giữ bí quyết, bởi vì cho đến nay, chưa ai bắt chước được rượu làng Vân cả. Một đoàn những cụ già y phục dáng lễ hội đứng chờ chúng tôi, vẽ thành một hàng dài vui mắt ngay trên nền chiếu hoa trải thành hai hàng trên thềm nhà; trên đó bày đủ các thức ăn để nguội chừng đã lâu do chúng tôi đến trễ. Chúng tôi rủ nhau ngồi xuống chiếu trước những chai rượu Vân trong suốt. Một người nhà bưng ra những chiếc mâm đồng vàng ánh như còn mới, trên đó có chạm hoa văn nhỏ bằng đầu kim găm, lấm chấm phủ kín cả mặt đồng. Mỗi mâm có một cụ già bê từng món thức ăn đặt lên mâm đồng và hạ thấp ngọn măng sông2 xuống (bây giờ, tôi mới để ý căn nhà được thắp sáng bằng đèn măng sông). Bóng tối trở nên đậm đặc hơn, và tôi không biết chủ nhà đang bày ra trò vui nào đây. Cụ già quay lại lấy một chai rượu Vân chừng một lít đổ đầy mặt đồng và châm lửa, hoá ra đó là một cách hâm thức ăn. Phực một tiếng, ảnh lửa bốc thành ngọn đồng loạt trên những chiếc mâm đồng; ngọn lửa len lỏi qua những bát thức ăn vẽ thành những lượn sóng màu xanh biếc trên mặt thực khách.Đã lâu rồi nhưng tôi không thể nào quên bữa tiệc hôm ấy ở làng Vân, với những vết sáng xanh biếc đầy bí ẩn nhảy múa trên gương mặt của những thực khách ngồi chìm trong bóng tối; trông nó giống như một cuộc tiệc của một bộ lạc bán khai" nào đó trong ánh lửa rừng đêm thẳm của lịch sử nhân loại. [...] Và trong không gian đó, tôi nghe lan toả một giai điệu quan họ, và “người ở đừng về” đã nói với tôi một điều gì đó, giống như một điều nguồn cội thuộc văn hoá dân tộc.

(Hoàng Phủ Ngọc Tường, Rượu làng Vân, in trong Miền gái đẹp, NXB Thuận Hoá, Thừa Thiên – Huế, 2001, tr. 28 – 30)

1. Nét sinh hoạt nào của cư dân làng Vân được nói tới trong đoạn trích?

2. Nêu những chi tiết miêu tả nét văn hoá độc đáo của làng Vân trong đoạn trích.

3. Khung cảnh bữa tiệc đón khách ở làng Vân được miêu tả như thế nào?

4. Việc các bậc cao niên trong làng tiếp khách thể hiện đặc điểm gì của người dân nơi đây?

5. Đọc đoạn trích, em cảm nhận được gì về thái độ ứng xử với văn hoá vùng miền của tác giả?

6. Rượu làng Vân là loại rượu quê khá nổi tiếng. Có nhiều làng quê trên đất nước Việt Nam là những làng nghề chuyên sản xuất những sản phẩm truyền thống. Kể tên và chia sẻ nét văn hoá độc đáo của những làng nghề mà em biết.

7. Xác định các biện pháp tu từ được dùng trong câu văn dưới đây và nêu tác dụng của những biện pháp tu từ đó:

Đã lâu rồi nhưng tôi không thể nào quên bữa tiệc hôm ấy ở làng Vân, với những vết sáng xanh biếc đầy bí ẩn nhảy múa trên gương mặt của những thực khách ngồi chìm trong bóng tối; trông nó giống như một cuộc tiệc của một bộ lạc bản khai nào đó trong ánh lửa rừng đêm thẳm của lịch sử nhân loại.

Trả lời: 

1. Nét sinh hoạt được nói đến trong bài: đó là những bữa tiệc ở làng Vân khôgn thể thiếu rượu. 

2. Những chi tiết miêu tả nét độc đáo của làng Vân:

- Một đoàn những cụ già y phục dáng lễ hội đứng chờ chúng tôi, vẽ thành một hàng dài vui mắt ngay trên nền chiếu hoa trải thành hai hàng trên thềm nhà; trên đó bày đủ các thức ăn để nguội chừng đã lâu do chúng tôi đến trễ. Chúng tôi rủ nhau ngồi xuống chiếu trước những chai rượu Vân trong suốt. 

- Một người nhà bưng ra những chiếc mâm đồng vàng ánh như còn mới, trên đó có chạm hoa văn nhỏ bằng đầu kim găm, lấm chấm phủ kín cả mặt đồng. Mỗi mâm có một cụ già bê từng món thức ăn đặt lên mâm đồng và hạ thấp ngọn măng sông2 xuống (bây giờ, tôi mới để ý căn nhà được thắp sáng bằng đèn măng sông). 

- Cụ già quay lại lấy một chai rượu Vân chừng một lít đổ đầy mặt đồng và châm lửa, hoá ra đó là một cách hâm thức ăn. 

3. Khung cảnh bữa tiệc đón khách ở làng Vân được miêu tả: 

- Đã lâu rồi nhưng tôi không thể nào quên bữa tiệc hôm ấy ở làng Vân, với những vết sáng xanh biếc đầy bí ẩn nhảy múa trên gương mặt của những thực khách ngồi chìm trong bóng tối; trông nó giống như một cuộc tiệc của một bộ lạc bán khai" nào đó trong ánh lửa rừng đêm thẳm của lịch sử nhân loại. [...] Và trong không gian đó, tôi nghe lan toả một giai điệu quan họ, và “người ở đừng về” đã nói với tôi một điều gì đó, giống như một điều nguồn cội thuộc văn hoá dân tộc.

4. Thể hiện sự tôn trọng, và mến khách

5. Em cảm thấy thái độ ứng xử với ăn hoá vùng miền của tác giả rất độc đáo và lạ.

6.Nói về đặc sản Long An không thể không nhắc đến rượu đế Gò Đen. Đây là loại rượu có hương vị độc đáo được nhiều người ưa chuộng. Sở dĩ loại rượu này được gắn với địa danh Gò Đen (gồm 3 xã Mỹ Yên, Long Hiệp và Phước Lợi của huyện Bến Lức, tỉnh Long An), bởi Gò Đen là vùng đất nổi tiếng với nhiều lò nấu rượu. Trong đó, rượu đế Gò Đen là loại rượu nổi tiếng, đã xuất hiện cách đây gần một trăm năm. Khác với rượu Bàu Đá của miền Trung và Làng Vân của miền Bắc là những làng rượu thì Gò Đen lại là một “vùng” rượu. Rượu đế Gò Đen có từ thời Pháp thuộc. Thời bấy giờ, thực dân Pháp không cho dân ta nấu rượu hòng độc quyền sản xuất rượu công xi (régie). Vì rượu régie nhạt và không hợp khẩu vị nên dân ta đã lén nấu rượu khác, có mùi vị dễ uống hơn. 

7. - Biện pháp tu từ: So sánh

 - Tác dụng: làm câu văn hay, gợi hình, gợi cảm. 

Tìm kiếm google: Giải SBT Ngữ văn 7 tập 1 Kết nối tri thức với cuộc sống, giải vở bài tập Ngữ văn 7 tập 1 KNTT, giải BT Văn 7 Kết nối Giải SBT bài 5: Màu sắc trăm miền (đọc hiểu và thực hành tiếng việt)

Xem thêm các môn học

Giải SBT ngữ văn 7 tập 1 kết nối tri thức


Copyright @2024 - Designed by baivan.net