Giải chuyên đề 3: Phát triển làng nghề chuyên đề Địa 12 cánh diều. Phần đáp án chuẩn, hướng dẫn giải chi tiết cho từng bài tập có trong chương trình học của sách giáo khoa chuyên đề mới. Hi vọng, các em học sinh hiểu và nắm vững kiến thức bài học.
Câu hỏi: Làng nghề là một trong những đặc trưng của quá trình phát triển kinh tế nông thôn nước ta. Vậy làng nghề được hiểu như thế nào? Quá trình hình thành, phát triển của làng nghề ra sao? Làng nghề có đặc điểm, vai trò và tác động như thế nào đối với kinh tế, xã hội, tài nguyên, môi trường? Định hướng phát triển làng nghề trong thời gian tới là gì?
Bài làm chi tiết:
- Làng nghề là một hoặc nhiều cụm dân cư cấp thôn, ấp, bản, làng, buôn, phum, sóc hoặc các điểm dân cư tương tự tham gia hoạt động ngành nghề nông thôn. (Theo Nghị định số 52/2018/NĐ-CP ngày 12 tháng 04 năm 2018 của Chính phủ).
* Đặc điểm:
+ Gắn bó chặt chẽ với nông nghiệp và nông thôn
+ Cơ cấu ngành nghề đa dạng, sản phẩm phong phú, nhiều sản phẩm có giá trị nghệ thuật cao
+ Quy mô sản xuất nhỏ
+ Kĩ thuật sản xuất chủ yếu là thủ công với nhiều bí quyết truyền thống
* Vai trò:
+ Làng nghề góp phần chuyển dịch cơ cấu lao động và cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hóa
+ Làng nghề tạo ra hàng hoá đa dạng, phong phú phục vụ nhu cầu tiêu dùng và xuất khẩu
+ Làng nghề góp phần giải quyết việc làm, giảm nghèo và hạn chế di cư tự do từ nông thôn ra thành thị
+ Làng nghề truyền thống góp phần bảo tồn các giá trị văn hoá dân tộc
+ Làng nghề góp phần phát triển xã hội và xây dựng nông thôn mới
* Tác động
- Tác động đến kinh tế
- Tác động đến xã hội
- Tác động đến tài nguyên, môi trường
* Định hướng
- Phát triển làng nghề gắn với du lịch và xây dựng nông thôn mới.
- Bảo tồn và phát triển nghề truyền thống, làng nghề truyền thống.
- Phát triển các làng nghề mới đảm bảo các giá trị văn hoá
- Phát huy vai trò của nghệ nhân và thợ giỏi
Câu hỏi: Dựa vào thông tin bài học, hãy trình bày khái niệm làng nghề. Nêu ví dụ cụ thể.
Bài làm chi tiết:
- Trước đây, làng nghề thường được hiểu là một cộng đồng dân cư ở nông thôn cùng sản xuất một nghề thủ công nhất định.
- Đến năm 2006, khái niệm làng nghề được mở rộng. Làng nghề là một hoặc nhiều cụm dân cư cấp thôn, ấp, bản, làng, buôn, phum, sóc hoặc các điểm dân cư tương tự trên địa bàn một xã, thị trấn, có các hoạt động ngành nghề nông thôn, sản xuất ra một hoặc nhiều loại sản phẩm khác nhau. (Theo Thông tư số 116/2006/TT-BNN ngày 18 tháng 12 năm 2006 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn).
- Hiện nay, khái niệm làng nghề đã thay đổi, phù hợp hơn với sự phát triển của đất nước. Làng nghề là một hoặc nhiều cụm dân cư cấp thôn, ấp, bản, làng, buôn, phum, sóc hoặc các điểm dân cư tương tự tham gia hoạt động ngành nghề nông thôn. (Theo Nghị định số 52/2018/NĐ-CP ngày 12 tháng 04 năm 2018 của Chính phủ).
Câu hỏi: Dựa vào thông tin bài học, hãy trình bày đặc điểm của làng nghề. Nêu ví dụ.
Bài làm chi tiết:
- Gắn bó chặt chẽ với nông nghiệp và nông thôn
+ Mối quan hệ giữa làng nghề với nông nghiệp và nông thôn được thể hiện ở nguồn gốc sản phẩm; nguyên, vật liệu; đặc điểm lao động; thị trường tiêu thụ và địa bàn sản xuất của làng nghề.
+ Hầu hết các sản phẩm của làng nghề, lúc đầu đều được sản xuất trên cơ sở tận dụng lao động, nguyên liệu tại chỗ và thời gian rảnh rỗi lúc nông nhàn, để đáp ứng nhu cầu thiết yếu hằng ngày của người nông dân. Vì thế, nông nghiệp, nông thôn vừa là nguồn cung cấp nguyên, vật liệu, lao động vừa là thị trường tiêu thụ sản phẩm chủ yếu của làng nghề.
+ Trước đây, nghề phụ khi đã trở thành nghề chính, đã tách khỏi nông nghiệp nhưng vẫn không rời khỏi nông thôn. Các gia đình trong làng vừa làm ruộng, vừa làm nghề. Họ có thể tự mình trồng trọt, chăn nuôi hoặc thuê mướn người làm nông nghiệp cho gia đình. Đến thời kì công nghiệp hoá, nhiều làng nghề đã thành phố nghề, nhưng phần lớn các làng nghề ở nước ta vẫn tập trung chủ yếu ở các vùng nông thôn.
- Cơ cấu ngành nghề đa dạng, sản phẩm phong phú, nhiều sản phẩm có giá trị nghệ thuật cao
+ Theo ngành nghề sản xuất và loại hình sản phẩm, làng nghề được phân thành nhiều nhóm, tương ứng với các ngành nghề nông thôn khác nhau.
+ Sản phẩm của làng nghề phong phú về chủng loại, đa dạng về mẫu mã và giá cả, từ hàng bình dân đến hàng cao cấp, từ công cụ sản xuất thô sơ đến máy móc, thiết bị hiện đại, tiên tiến.
+ Bên cạnh giá trị sử dụng, sản phẩm của các làng nghề truyền thống còn có giá trị nghệ thuật cao. Mỗi sản phẩm có thể coi là một tác phẩm nghệ thuật chứa đựng trong đó những đặc sắc về văn hoá, tín ngưỡng, tôn giáo của từng làng quê. Nhiều sản phẩm được coi là bảo vật của gia đình, dòng họ.
- Quy mô sản xuất nhỏ
+ Mục đích xuất hiện ban đầu của làng nghề là tận dụng các nguồn lực ở nông thôn nên sản xuất ở đây thường có quy mô nhỏ, thể hiện ở số lao động, mặt bằng sản xuất và doanh thu.
+ Hộ gia đình là hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh chủ yếu ở làng nghề.
+ Với hình thức này, hầu như các thành viên trong gia đình đều được huy động tham gia sản xuất. Trung bình mỗi hộ có khoảng 2 – 3 lao động thường xuyên.
+ Khu vực sản xuất ở làng nghề thường nằm xen lẫn với khu dân cư. Diện tích đất bình quân của mỗi hộ sản xuất dao động từ 250 đến 1200 m² tuỳ theo nhóm ngành nghề.
+ Phần lớn các cơ sở sản xuất ở làng nghề có doanh thu không lớn, tương ứng với quy mô lao động và mặt bằng sản xuất nhỏ.
- Kĩ thuật sản xuất chủ yếu là thủ công với nhiều bí quyết truyền thống
+ Công cụ sản xuất ở làng nghề trước đây thường rất đơn giản, thô sơ (thậm chí người thợ cũng có thể tự tạo ra).
+ Hiện nay, rất nhiều công đoạn sản xuất đã được cơ giới hoá nhưng kĩ thuật sản xuất chính vẫn dựa chủ yếu vào đôi tay khéo léo của người thợ với những bí quyết truyền thống độc đáo.
=> Vì thế, dù cùng sản xuất một loại sản phẩm nhưng quy trình sản xuất ở mỗi làng nghề cũng không giống nhau.
Câu hỏi: Dựa vào thông tin bài học, hãy trình bày quá trình hình thành và phát triển làng nghề.
Bài làm chi tiết:
Quá trình hình thành và phát triển của làng nghề gắn liền với lịch sử phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội ở vùng nông thôn.
– Thời kỳ tiền sử
Nghề thủ công ở nước ta xuất hiện từ rất sớm. Các chứng cứ khảo cổ học cho thấy, ngay từ thời kì đầu Công nguyên đã xuất hiện nhiều nghề thủ công như: chế tác đá, làm đồ gốm bằng bàn xoay, mộc và sơn, dệt vải, đan lát, chế tạo thuỷ tinh, đúc đồng.... Trong đó, nghề đúc đồng phát triển mạnh nhất. Vào thời kì đồ đồng (Đông Sơn), người Việt cổ đã phát minh ra công thức hợp kim đồng thau, đồng thanh, tạo nên trống đồng tinh xảo. Đây chính là cơ sở hình thành ban đầu của nhiều làng nghề ở nước ta.
– Thời kì Bắc thuộc
Trong suốt thời kì Bắc thuộc bị các thế lực phong kiến phương Bắc đô hộ, mặc dù bị kìm hãm nhưng các làng nghề vẫn được duy trì và có những bước phát triển nhất định. Quá trình giao lưu kinh tế - văn hoá với các nước xung quanh (chủ yếu là Trung Quốc) đã thúc đẩy các nghề cũ phát triển theo hướng ngày càng tinh xảo. Nghề thuỷ tỉnh đã sản xuất được những bình, bát nhiều màu sắc. Nghề đóng thuyền, nghề mộc cũng phát triển. Nhiều ngành nghề mới xuất hiện: nghề làm giấy, nghề xây dựng.... Các minh chứng cho thấy, ngay từ thời kì này nhiều làng nghề giấy, dệt phát triển ở xung quanh Long Biên, Đại La (Hà Nội); nhiều làng nghề mộc phát triển dọc sông Hồng...
– Thời kì phong kiến độc lập
Thời kì Lý – Trần (từ thế kỉ XI đến thế kỉ XIV) là thời kì phát triển mạnh mẽ nhất của các làng nghề, trong đó nổi bật nhất là nghề dệt. Nhu cầu phát triển chùa chiền, xây dựng cung điện làm cho các làng nghề nề, mộc, rèn, đúc phát triển ở nhiều nơi. Thời kì này, cả nước có khoảng 64 làng nghề, phân bố hầu khắp lãnh thổ; trong đó, Kinh Bắc là khu vực có nhiều làng nghề nhất, tiếp đến là Thăng Long (Hà Nội).
Thời kì Lê - Nguyễn (thế kỉ XV đến XIX), các nghề dệt, nề, mộc, gốm, rèn, đúc đồng.... vẫn duy trì và phồn vinh hơn trước. Thời kì nhà Nguyễn, các làng nghề phát triển đa dạng, phong phú. Các trung tâm phát triển làng nghề: Thăng Long, Kinh Bắc, Hà Tây (cũ), Nam Định. Ở khu vực miền Trung, các làng nghề phát triển mạnh tại Thừa Thiên Huế, Hội An. Ở Nam Bộ, các làng nghề thủ công phát triển gắn liền với
công cuộc khai hoang, mở đất và sản xuất nông nghiệp như: dệt, gồm, mộc, rèn, đan lát, đóng ghe xuồng.... Những người thợ giỏi di cư từ Bắc vào Nam vừa hành nghề vừa truyền nghề và lập ra nhiều phường thợ nổi tiếng ở Sài Gòn, Chợ Lớn, Lái Thiêu, Thủ Dầu Một. Sản phẩm của làng nghề đã được tiêu thụ ở Nhật Bản, Trung cận đông và nhiều nước phương Tây khác. Giai đoạn này, các làng nghề, phố nghề đã dần phát triển theo hướng tách khỏi sản xuất nông nghiệp.
– Thời kì Pháp thuộc (cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX)
Chính quyền thực dân Pháp xây dựng nhiều cơ sở công nghiệp và đưa vào trong nước hàng hoá ngoại nhập nên sản phẩm của làng nghề bị cạnh tranh gay gắt. Một số nghề không còn phù hợp với nhu cầu thị trường đã biến mất. Một số nghề đã biết tận dụng chính sách của thực dân, thay đổi mẫu mã, tính chất sản phẩm nên tồn tại và phát triển mạnh. Trong thời kì này, chính quyền thực dân đã thực hiện nhiều chính sách khuyến khích các ngành nghề nông thôn phát triển như mở một số trường dạy nghề, phong tặng danh hiệu cho các nghệ nhân và đặc biệt là đưa sản phẩm thủ công tham gia hội chợ, triển lãm tại Hà Nội và tại Pháp.
Nhiều nghề mới cũng được du nhập từ Pháp và các nước khác: đồ đan mây, tráng gương bằng bạc, dệt vải màu, đăng ten, hương thắp, chỉ thêu, mành mành, đồ sừng, chế biến trà tàu hay làm đá trải đường. Ngoài Hà Nội, Bắc Ninh, Nam Định, Thái Bình, xuất hiện nhiều địa phương có làng nghề phát triển khác ở miền Trung là Thanh Hoá, Nghệ An; ở miền Nam là Thủ Dầu Một, Biên Hoà, Gia Định (nay là Thành phố Hồ Chí Minh).
– Thời kì từ 1945 đến nay
Trước năm 1986, cơ sở sản xuất của làng nghề tập trung trong các hợp tác xã. Vì chỉ được coi là nghề phụ nên sản xuất ít chú ý đến chất lượng sản phẩm và hiệu quả kinh tế, không đề cao sức sáng tạo của nghệ nhân. Sản phẩm làm ra chủ yếu xuất sang thị trường Đông Âu và Liên Xô (cũ). Quá trình phát triển của làng nghề gặp nhiều khó khăn, hoạt động sản xuất của các làng nghề giảm sút.
Từ năm 1986 đến nay, dưới tác động của công nghiệp hoá nông nghiệp, nông thôn, làng nghề được chú trọng và phát triển mạnh mẽ. Trong giai đoạn này, lần đầu tiên các tiêu chí công nhận làng nghề được xác định rõ. Danh mục làng nghề cũng được mở rộng.
Việc triển khai chương trình xây dựng nông thôn mới từ năm 2010 đến nay, đã tạo điều kiện phát triển làng nghề với nhiều chính sách hỗ trợ. Làng nghề đẩy mạnh ứng dụng công nghệ, kĩ thuật trong quá trình sản xuất. Các làng nghề bị mai một được bảo tồn, phục hồi. Nhiều làng nghề mới ra đời, đặc biệt là các nghề liên quan đến nông nghiệp, nông thôn như: chế biến nông sản, cơ khí nhỏ. Ngoài sản xuất, làng nghề còn phát triển các mô hình du lịch cộng đồng. Cảnh quan, môi trườnglàng nghề, công tác đào tạo nghề được chú trọng. Làng nghề phát triển mạnh mẽ theo hướng bền vững.
Câu hỏi: Dựa vào thông tin bài học, hãy phân tích các vai trò của làng nghề. Nêu ví dụ cụ thể.
Bài làm chi tiết:
- Làng nghề góp phần chuyển dịch cơ cấu lao động và cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hóa
Sự phát triển của làng nghề góp phần thúc đẩy các ngành nghề nông thôn phát triển thông qua nhu cầu mở rộng quy mô, địa bàn sản xuất và tăng thêm lao động. Làng nghề phát triển còn tạo điều kiện phát triển du lịch, dịch vụ ở các địa phương. Các hoạt động du lịch ở làng nghề không chỉ là cách thức giới thiệu, mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm, mang lại lợi ích kinh tế không nhỏ cho các địa phương có làng nghề mà còn góp phần tôn vinh, bảo tồn và quảng bá rộng rãi các giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc. Nhờ vậy, số lượng lao động và số hộ phi nông nghiệp ở các vùng nông thôn không ngừng tăng lên. Năm 2020, cả nước có trên 8,6 triệu hộ phi nông nghiệp, chiếm 50,9% tổng số hộ nông thôn (tăng hơn 13% so với năm 2011). Tỉ lệ hộ có nguồn thu nhập lớn nhất từ các ngảnh phi nông nghiệp cũng tăng lên 59,2% (2020). Cơ cấu kinh tế khu vực nông thôn do đó đã có những chuyển biến tích cực theo hướng tăng tỉ trọng của các ngành công nghiệp và dịch vụ.
Kinh tế ở các làng nghề không chỉ thay đổi về số lượng mà còn thay đổi về tư duy sản xuất, kinh doanh. Tập quán sản xuất ở những vùng nông thôn đã chuyển dần từ tự cung, tự cấp sang sản xuất hàng hoá, gắn sản xuất với nhu cầu thị trường. Với sự hình thành và phát triển các doanh nghiệp ở làng nghề, mối liên hệ giữa các hộ gia đình làm nghề trong làng với các doanh nghiệp lớn ở thành thị ngày càng gắn bó. Đây chính là yếu tố cơ bản giúp các địa phương có làng nghề chuyển từ nông thôn thuần nông, nhỏ lẻ, phân tán lên công nghiệp lớn, hiện đại và đô thị hoá.
- Làng nghề tạo ra hàng hoá đa dạng, phong phú phục vụ nhu cầu tiêu dùng và xuất khẩu
Làng nghề đã sản xuất ra hàng trăm, nghìn mặt hàng khác nhau. Sản xuất được đầu tư phát triển theo hướng công nghiệp hoá với việc đẩy mạnh ứng dụng máy móc và công nghệ mới nên khối lượng sản phẩm ngày càng lớn. Sản phẩm làm ra không chỉ phục vụ nhu cầu của gia đình, địa phương mà còn là hàng hoá đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong và ngoài nước. Năm 2020, chỉ tính riêng nhóm hàng thủ công mĩ nghệ, kim ngạch xuất khẩu đã đạt trên 2,4 tỉ USD. Nhiều mặt hàng xuất khẩu độc đáo, mang đậm bản sắc văn hoá Việt Nam như: gốm, sứ, mây, tre, cói, thảm, thêu, dệt thủ công....
- Làng nghề góp phần giải quyết việc làm, giảm nghèo và hạn chế di cư tự do từ nông thôn ra thành thị
Làng nghề đã tạo việc làm, thu nhập và sinh kế cho người dân, đặc biệt là các vùng nông thôn ở nước ta. Ngay từ khi xuất hiện, làng nghề đã giải quyết tốt vấn đề lao động lúc nông nhàn. Trong những năm gần đây, vai trò này càng được thể hiện rõ. Bình quân mỗi hộ chuyên làm nghề tạo việc làm cho 2 – 3 lao động thường xuyên (năm 2020). Bên cạnh đó, lao động thời vụ, nông dân bị mất ruộng, người về hưu, người tàn tật.... cũng được huy động vào những công đoạn thích hợp trong các cơ sở sản xuất của làng nghề. Thu nhập bình quân của lao động thường xuyên trong các làng nghề thường cao gấp 2 lần thu nhập của lao động thuần nông trên địa bàn.
Làng nghề không chỉ tạo ra nhiều việc làm cho người lao động của riêng làng đó mà còn giải quyết việc làm cho dân cư của các vùng lân cận. Sự phát triển của làng nghề còn kéo theo sự phát triển của nhiều ngành, nghề dịch vụ khác, qua đó tạo thu nhập và giảm nghèo cho người dân nông thôn.
Mở rộng phạm vi, phát triển các làng nghề, thông qua giải quyết việc làm, tạo thu nhập và giảm nghèo còn góp phần giải quyết tình trạng di dân tự do từ nông thôn vào các thành phố lớn.
- Làng nghề truyền thống góp phần bảo tồn các giá trị văn hoá dân tộc
Giá trị văn hoá của các làng nghề truyền thống được thể hiện trong các sản phẩm đặc trưng, không gian kiến trúc, lịch sử hình thành, phong tục, tập quán, luật lệ, lễ hội đặc sắc của làng.
Sản phẩm của làng nghề độc đáo và mang tính nghệ thuật cao vì chúng phản ánh rõ nét cuộc sống hằng ngày ở làng quê, phản ánh quan điểm nhân sinh và sự tài hoa của mỗi người thợ. Vì thế nhiều sản phẩm làng nghề có thể trở thành bảo vật, được coi là biểu tượng của truyền thống văn hoá dân tộc. Thông qua các sản phẩm đặc sắc của làng nghề, văn hoá các dân tộc Việt Nam đã được lưu giữ một cách cụ thể, bến vững và được quảng bá rộng rãi đến nhiều nước trên thế giới.
Mỗi làng nghề truyền thống đều thờ cúng một tổ nghề hoặc một thành hoành làng với lịch sử hình thành và phát triển riêng. Ngày hội làng trở thành dịp sinh hoạt văn hoá cộng đồng đặc sắc của địa phương, có sức hấp dẫn lớn với du khách trong và ngoài nước.
Do đó, làng nghề không chỉ đơn thuần là môi trường kinh tế, xã hội mà còn là môi trường văn hoá độc đáo. Bảo tồn và phát triển các làng nghề góp phần quan trọng trong việc giữ gìn các giá trị văn hoá của dân tộc trong quá trình công nghiệp hoá và hội nhập quốc tế.
- Làng nghề góp phần phát triển xã hội và xây dựng nông thôn mới
Mỗi làng nghề là một cộng đồng gắn kết mật thiết qua nhiều đời bởi những mối liên hệ khăng khít, nhiều mặt về lãnh thổ, dòng họ, phường, hội nghề nghiệp và nhiều yếu tố tâm linh khác. Sự liên kết cộng đồng bền chặt giúp nâng cao ý thức tự quản và giữ gìn an ninh trật tự xã hội ở các vùng nông thôn.
Việc phát triển các ngành nghề nông thôn trong các làng nghề còn góp phần nâng cao thu nhập và tích lũy cho người dân, thông qua đó thực hiện thành công nhiều tiêu chí nông thôn mới, góp phần xây dựng không gian nông thôn văn minh, giàu bản sắc.
Câu hỏi: Dựa vào thông tin bài học, hãy phân tích tình hình phát triển chung của làng nghề hiện nay.
Bài làm chi tiết:
- Số lượng làng nghề
+ Tính đến năm 2020, cả nước có 2 655 làng nghề, trong đó có 731 làng nghề truyền thống. So với năm 2011, số lượng làng nghề tăng cao do sự phát triển của các làng nghề mới và danh mục làng nghề thay đổi sau Nghị định số 52/2019/NĐ-CP (thêm nhóm làng nghề muối). Số lượng làng nghề truyền thống giảm do bị sa sút, tan rã.
+ Số lượng làng nghề của mỗi nhóm ngành sản xuất không giống nhau, trong đó nhóm có số lượng làng nghề nhiều là: sản xuất đồ gỗ, mây tre đan, gốm sứ, thuỷ tinh, dệt may, sợi, thêu ren, đan lát, cơ khí nhỏ và chế biến, bảo quản nông, lâm, thuỷ sản.
- Lao động
+ Năm 2020, cả nước có 672,1 nghìn lao động làm việc tại các làng nghề, tăng 13,5% so với năm 2011. Trong đó, lao động thường xuyên chiếm tỉ lệ cao (66,8%). lao động thời vụ chiếm khoảng 33,2% (gồm những người tranh thủ thời gian nhàn rỗi ở nông thôn, người nghỉ hưu, người tàn tật,...). Lao động chủ yếu làm việc trong các nhóm làng nghề sản xuất đồ gỗ, mây tre đan, gốm sứ, thuỷ tinh, dệt may, sợi, thêu ren, đan lát, cơ khí nhỏ, chế biến, bảo quản nông, lâm, thuỷ sản; sản xuất hàng thủ công mĩ nghệ.
+ Lực lượng lao động tinh hoa của làng nghề chính là nghệ nhân và thợ giỏi. Đến năm 2020, cả nước có 1 178 nghệ nhân, trong đó có: 185 Nghệ nhân Nhân dân, Nghệ nhân Ưu tú cấp Nhà nước, 572 nghệ nhân cấp tỉnh, 421 nghệ nhân do các hội, hiệp hội phong tặng. Họ là những người thực hiện các công đoạn sản xuất đòi hỏi sự tinh xảo, tỉ mỉ và sáng tạo cao, nhờ đó tạo nên tính độc đáo và sức cạnh tranh của sản phẩm làng nghề so với các sản phẩm công nghiệp cùng loại.
- Thị trường tiêu thụ
+ Sản phẩm của làng nghề được tiêu thụ chủ yếu trong nước. Để tăng sức cạnh tranh ở thị trường nội địa, các làng nghề tích cực đẩy mạnh xây dựng thương hiệu và phát triển theo chương trình OCOP.
+ Đến năm 2020 đã có 11,8% số làng nghề có sản phẩm đăng ký nhãn hiệu, 130 làng nghề có sản phẩm đạt chuẩn OCOP.
+ Một số sản phẩm làng nghề đã được tiêu thụ ở nước ngoài. Các sản phẩm xuất khẩu chủ yếu thuộc 2 nhóm: sản xuất hàng thủ công mĩ nghệ và sản xuất đồ gỗ, mây tre dan, gốm sứ, thuỷ tinh, dệt may, sợi, thêu ren, đan lát, cơ khí nhỏ (xuất khẩu chiếm từ 15 -23% sản lượng). Trong đó, gốm sứ là nhóm ngành hàng có kim ngạch xuất khẩu lớn nhất, tiếp theo là mây tre, cói và lục bình, gỗ mĩ nghệ, sơn mài.... Sản phẩm làng nghề hiện đã có mặt trên 163 nước. Thị trường tiêu thụ lớn nhất là Hoa Kỳ (chiếm 35% kim ngạch xuất khẩu sản phẩm làng nghề hằng năm). Bên cạnh đó là các thị trường như: Nhật Bản, Đức, Anh, Pháp, Hà Lan, Hàn Quốc, Trung Quốc....
- Địa bàn và hình thức tổ chức sản xuất
+ Tổng số cơ sở sản xuất, kinh doanh của các làng nghề năm 2020 là 211 nghìn cơ sở, tăng 44,9% so với năm 2011.
+ Hoạt động sản xuất của làng nghề chủ yếu diễn ra trong các khu dân cư. Sự xuất hiện của các cụm công nghiệp làng nghề ở một số địa phương đã giúp làng nghề mở rộng được mặt bằng sản xuất, tiếp cận tốt hơn với kỹ thuật, công nghệ hiện đại và giảm thiểu ô nhiễm môi trường....
+ Hộ gia đình chiếm khoảng 98,7% trong tổng số cơ sở sản xuất, kinh doanh của làng nghề. Các hình thức tổ chức sản xuất tiên tiến khác (doanh nghiệp, hợp tác xã) tuy còn chiếm tỉ lệ nhỏ nhưng phát triển khá mạnh. Các phường nghề, hiệp hội nghề nghiệp đang được phục hồi và có vai trò quan trọng trong việc quảng bá, giới thiệu sản phẩm, tư vấn, đào tạo nhân lực và xây dựng, bảo vệ thương hiệu làng nghề. Sự đa dạng của các hình thức này là điều kiện để tổ chức sản xuất ở làng nghề theo hưởng hình thành các chuỗi liên kết giá trị từ vùng nguyên liệu sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm.
- Kết quả sản xuất, kinh doanh
+ Tổng doanh thu của các làng nghề năm 2020 đạt trên 58,2 nghìn tỉ đồng (tăng 81% so với năm 2011), trong đó nhóm sản xuất đồ gỗ, mây tre đan, gốm sứ, thuỷ tinh, dệt may, sợi, thêu ren, đan lát, cơ khí nhỏ có doanh thu lớn nhất, đạt 25,7 nghìn tỉ đồng (chiếm 44,1%); tiếp đến là nhóm chế biến, bảo quản nông, lâm, thuỷ sản đạt 15,2 nghìn tỉ đồng (chiếm 26,1%).
+ Thu nhập bình quân của lao động làng nghề tăng cao, năm 2020 đạt trung bình khoảng 4 triệu đồng/người/tháng. Các nhóm làng nghề có mức thu nhập bình quân cao là: nhóm dịch vụ phục vụ sản xuất, đời sống dân cư nông thôn; nhóm sản xuất đồ gỗ, mây tre đan, gốm sứ, thuỷ tinh, dệt may, sợi, thêu ren, đan lát, cơ khí nhỏ. Nhóm làng nghề sản xuất muối có mức thu nhập bình quân thấp nhất.
- Phân bổ
Làng nghề phát triển rộng khắp trên cả nước. Ở những vùng đông dân, phong tục tập quán phong phú, giao thông thuận lợi, gần nguồn nguyên liệu và thị trường tiêu thụ sản phẩm, làng nghề hình thành sớm và phát triển mạnh. Đồng bằng sông Hồng, Trung du và miền núi Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung là những nơi tập trung nhiều làng nghề của cả nước
Câu hỏi: Dựa vào thông tin bài học, hãy nhận xét đặc điểm phát triển, phân bố của các nhóm làng nghề hiện nay.
Bài làm chi tiết:
– Nhóm làng nghề chế biến, bảo quản nông, lâm, thuỷ sản
Thuộc nhóm này có các làng nghề: làm bánh, kẹo; làm bún, miến, bánh đa, làm nem, giò, chả; chế biến chè, thuốc nam, làm tương, nước mắm,... Số lượng làng nghề nhiều, gắn liền với các đặc sản: cốm Vòng (Hà Nội), bánh tráng phơi sương Trảng Bàng (Tây Ninh), đường thốt nốt Châu Lăng (An Giang), nước mắm Phú Quốc (Kiên Giang),... Các làng nghề chế biến, bảo quản nông, lâm, thuỷ sản phân bố rộng khắp các vùng trên cả nước, trong đó tập trung nhiều nhất ở Trung du và miền núi Bắc Bộ, Đồng bằng sông Hồng.
Ở các làng nghề này, quá trình sản xuất đã áp dụng nhiều loại máy móc hiện đại nhằm nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm. Nguyên liệu chính là các loại nông, lâm, thuỷ sản sẵn có tại địa phương. Sản phẩm phục vụ nhu cầu tiêu dùng trong nước là chủ yếu (chiếm 95%), trong đó có nhiều sản phẩm đạt tiêu chuẩn OCOP.
– Nhóm làng nghề sản xuất hàng thủ công mĩ nghệ
Các làng nghề sản xuất hàng thủ công mĩ nghệ gồm làng nghề chạm khắc, chế tác đá; kim hoàn; sơn mài, làm giấy; tranh dân gian (trên giấy, trên kiếng)....
Số lượng làng nghề thuộc nhóm này còn lại không nhiều, nhưng đều là những làng nghề có truyền thống lâu đời như: chạm bạc Đồng Xâm (Thái Bình), đá mĩ nghệ Non Nước (Đà Nẵng), sơn mài Tương Bình Hiệp (Bình Dương).... Đồng bằng sông Hồng là vùng có nhiều làng nghề sản xuất hàng thủ công mĩ nghệ nhất cả nước, tiếp đến là Trung du và miền núi Bắc Bộ.
Khoảng 15% sản phẩm thủ công mĩ nghệ của làng nghề đã có mặt ở nước ngoài, đặc biệt được ưa chuộng ở Hoa Kỳ, Nhật Bản và EU vì sản phẩm độc đáo, mang đậm bản sắc văn hoá độc đáo của địa phương và dân tộc.
Quá trình sản xuất của làng nghề đã ứng dụng nhiều máy móc, thiết bị nhưng những khâu cơ bản gần như không thay đổi để giữ lại đặc trưng riêng của sản phẩm. Lao động thủ công là chính với những đòi hỏi cao về tay nghề, sự tỉ mỉ, sáng tạo và chuyên môn hoá sâu.
Để đáp ứng nhu cầu phát triển, làng nghề nhóm này cần chú trọng công tác bảo tồn các bí quyết truyền thống, truyền nghề và đào tạo nghề cho người lao động.
– Nhóm làng nghề xử lí, chế biến nguyên vật liệu phục vụ sản xuất ngành nghề nông thôn
Các ngành nghề sản xuất, kinh doanh chính gồm: ươm tơ, chế biến sợi từ bông, vải vụn, xơ dừa, cói, sản xuất vật liệu xây dựng, tái chế nhựa,... Nhóm làng nghề này có số lượng ít. Các làng nghề điển hình là: dát vàng Kiêu Kỵ (Hà Nội), ươm tơ Hà Tràng (Hải Dương), tăm hương Vỹ Dạ (Thừa Thiên Huế),... Phần lớn làng nghề thuộc nhóm này tập trung ở Đồng bằng sông Hồng và Đồng bằng sông Cửu Long.
Sản phẩm của làng nghề chủ yếu được dùng làm nguyên, vật liệu cho các ngành nghề sản xuất khác ở trong nước (93%) và xuất khẩu (7%). Lao động thủ công vẫn là chính. Máy móc thiết bị đã được ứng dụng phổ biến trong quá trình khai thác, sơ chế nguyên liệu và chế biến sản phẩm. Các làng nghề cần chú ý đổi mới công nghệ để tiết kiệm nguyên liệu, nâng cao chất lượng sản phẩm và hạn chế ô nhiễm môi trường.
- Nhóm làng nghề sản xuất đồ gỗ, mây tre đan, gốm, sử, thuỷ tinh, dệt may, sợi, thêu ren, đan lát, cơ khí nhỏ
Đây là nhóm làng nghề có số lượng nhiều nhất với nhiều ngành nghề khác nhau: lụa Vạn Phúc (Hà Nội), gốm Phù Lãng (Bắc Ninh), nón lá Vân Thê (Thừa Thiên Huế), gốm Bàu Trúc (Ninh Thuận), Đồng bằng sông Hồng có nhiều làng nghề thuộc nhóm này nhất cả nước, tiếp đến là Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung.
Sản phẩm của làng nghề nhóm này chủ yếu là các vật dụng tiêu dùng phục vụ đời sống hằng ngày, trong đó 22,5% được tiêu thụ ở thị trường ngoài nước (tỉ lệ hàng xuất khẩu so với tổng sản phẩm sản xuất được của ngành hàng gốm sứ, mây tre là trên 70%, cói lục bình khoảng 50%). Do nhu cầu lớn nên đây cũng là nhóm làng nghề có tỉ lệ nguyên, vật liệu ngoại nhập khá cao (trên 12%), đặc biệt cao ở các làng nghề sản xuất đồ gỗ, dệt, may. Quy mô sản xuất ngày càng mở rộng, hình thức tổ chức sản xuất tiên tiến phát triển với số lượng doanh nghiệp nhiều nhất trong các nhóm làng nghề.
- Nhóm làng nghề sản xuất và kinh doanh sinh vật cảnh
Sản xuất và kinh doanh sinh vật cảnh là nghề truyền thống ở nước ta. Nhiều làng nghề đã phát triển và nổi danh khắp cả nước như: làng hoa đào Nhật Tân (Hà Nội), làng trồng hoa cây cảnh Vị Khê (Nam Định), làng hoa Thái Phiên (Lâm Đồng), làng hoa Sa Đéc (Đồng Tháp).... Đồng bằng sông Hồng và Đồng bằng sông Cửu Long là những vùng có nhiều làng nghề thuộc nhóm này nhất.
Các loại sinh vật tự nhiên được gây trồng phục vụ cho việc trang trí nhà cửa, công sở và các công trình dân sinh khác. Nhiều sản phẩm của làng nghề đòi hỏi sự tỉ mỉ, công phu và sáng tạo cao. Sản phẩm được tiêu thụ trong nước là chủ yếu (chiếm 99%). Đây cũng là nhóm làng nghề duy nhất đáp ứng tốt các tiêu chí về bảo vệ môi trường.
- Nhóm làng nghề sản xuất muối
Làm muối là nghề phát triển từ lâu đời trên cơ sở tận dụng lợi thế khí hậu vùng nông thôn ven biển. Số lượng làng nghề muối trên cả nước hiện nay còn lại không nhiều. Các làng nghề sản xuất muối tập trung chủ yếu ở Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung với nhiều làng nghề lâu đời như Phú Lộc (Quảng Bình), Tuyết Diêm (Phú Yên)....
Phương pháp phơi cát truyền thống độc đáo ở các làng nghề này cho chất lượng muối tốt. Tuy nhiên, để bảo tồn và phát triển các làng nghề muối, cần chú trọng các biện pháp nâng cao năng suất và sức cạnh tranh với muối công nghiệp và muối nhập khẩu.
- Nhóm làng nghề kinh doanh các dịch vụ phục vụ sản xuất, đời sống dân cư nông thôn
Các ngành nghề kinh doanh chính trong nhóm làng nghề này gồm: xây dựng, dịch vụ vận tải, sửa chữa ngư cụ, cung cấp giống cây trồng, vật nuôi.... Phần lớn các làng nghề thuộc nhóm này là các làng nghề mới, tập trung chủ yếu ở Đồng bằng sông Hồng và Trung du và miền núi Bắc Bộ. Một số làng nghề điển hình trong nhóm là làng nghề nhiếp ảnh truyền thống thôn Lai Xá (Hà Nội), vận tải thuỷ Trung Kênh (Bắc Ninh), xuồng du lịch Bản Cám (Bắc Kạn),... Để tăng cường các mối liên kết sản xuất ở khu vực nông thôn, các làng nghề thuộc nhóm này còn có rất nhiều tiềm năng phát triển.
Câu hỏi: Dựa vào thông tin bài học, hãy phân tích tác động của làng nghề đến kinh tế, xã hội, môi trường. Cho ví dụ
Bài làm chi tiết:
- Tác động đến kinh tế
+ Thúc đẩy sản xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản phát triển thông qua việc chế biến, bảo quản nông, lâm, thuỷ sản và cung cấp máy móc, dụng cụ sản xuất.
+ Thúc đẩy sản xuất công nghiệp phát triển thông qua việc gia công nguyên liệu, bán thành phẩm.
+ Thúc đẩy phát triển du lịch dựa trên khai thác tỉnh độc đáo của nghề, sản phẩm làng nghề, cảnh quan sinh thái, không gian kiến trúc và các di sản văn hoá truyền thống của làng nghề.
+ Thúc đẩy sự phát triển các ngành dịch vụ khác (thương mại, giao thông vận tải) thông qua việc đẩy mạnh các hoạt động cung ứng nguyên, vật liệu và tiêu thụ sản phẩm của làng nghề.
- Tác động đến xã hội
+ Nâng cao chất lượng cuộc sống cho người dân thông qua việc tăng thu nhập, giảm tỉ lệ thiếu việc làm, giảm tỉ lệ thất nghiệp, giảm tỉ lệ hộ nghèo, tăng tỉ lệ lao động phi nông nghiệp.
+ Thúc đẩy quá trình đô thị hoá nông thôn.
+ Hạn chế di dân tự do từ nông thôn ra thành thị nhờ giải quyết tốt việc làm và nâng cao mức sống ở khu vực nông thôn.
+ Thay đổi tập quán sản xuất từ phân tán, nhỏ lẻ sang tập trung (trong các cụm công nghiệp làng nghề), tăng cường liên kết sản xuất thông qua các Hiệp hội làng nghề.
+ Nâng cao ý thức tự quản, giữ gìn an ninh trật tự thông qua các mối quan hệ gắn bó trong cộng đồng làng nghề.
+ Góp phần thực hiện thành công các mục tiêu xây dựng nông thôn mới.
- Tác động đến tài nguyên, môi trường
+ Tận dụng, phát huy các thế mạnh về tài nguyên thiên nhiên.
+ Thay đổi cảnh quan môi trường ở làng nghề thông qua việc đầu tư xây dụng các công trình văn hoá của làng nghề, đầu tư xây dựng hệ thống xử lí rác, nước và khí thải, phát triển mạng lưới thu gom phế liệu,...
+ Gây ô nhiễm môi trường cục bộ.
Câu hỏi: Dựa vào thông tin bài học, hãy phân tích định hướng phát triển làng nghề trong thời gian tới.
Bài làm chi tiết:
- Phát triển làng nghề gắn với du lịch và xây dựng nông thôn mới.
+ Phục hồi, tôn tạo các di tích liên quan đến giá trị văn hoá nghề, làng nghề truyền thống (nhà thờ tổ nghề, không gian làm nghề, cảnh quan làng nghề, các lễ hội, hoạt động văn hoá dân gian,...).
+ Tổ chức liên kết chuỗi giá trị, phát triển các làng nghề có tiềm năng gắn kết với phát triển du lịch, dịch vụ.
- Bảo tồn và phát triển nghề truyền thống, làng nghề truyền thống.
+ Thống kê, phân loại và đẩy mạnh hoạt động xét công nhận làng nghề.
+ Xây dựng kế hoạch khôi phục, bảo tồn đối với nghề truyền thống, làng nghề truyền thống đang có nguy cơ mai một.
+ Hỗ trợ các nghề, làng nghề truyền thống đã được công nhận và hoạt động hiệu quả để phát triển và nhận rộng.
- Phát triển các làng nghề mới đảm bảo các giá trị văn hoá
+ Du nhập, gây dựng, phát triển các nghề mới.
+ Lan toả, nhân cấy nghề truyền thống ra các làng nghề mới.
- Phát huy vai trò của nghệ nhân và thợ giỏi
+ Tổ chức phong tặng, tôn vinh nghệ nhân, thợ giỏi.
+ Đẩy mạnh hỗ trợ công tác đào tạo nghề, truyền nghế của các nghệ nhân, thợ giỏi,...
+ Sưu tầm, lưu giữ, trưng bày các sản phẩm làng nghề tiêu biểu, đặc sắc; sáng tạo thêm nhiều sản phẩm mới có giá trị.
Câu hỏi: Tìm hiểu thông tin và giới thiệu khái quát về một làng nghề tiêu biểu ở địa phương theo các nội dung sau:
- Tên làng nghề, địa chỉ, lịch sử hình thành (nếu có).
- Đặc điểm phát triển của làng nghề:
+ Sản phẩm chủ yếu (tên sản phẩm, công dụng).
+ Các nguyên liệu chính.
+ Quy trình sản xuất chủ yếu.
Bài làm chi tiết:
Làng Hương Thủy Xuân - Huế
a. Tên làng nghề, địa chỉ, lịch sử hình thành:
- Tên làng nghề: Làng Hương Thủy Xuân.
- Địa chỉ: Hương Thủy Xuân, thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế, Việt Nam.
- Lịch sử hình thành: Làng Hương Thủy Xuân có lịch sử lâu đời và được biết đến như một trung tâm sản xuất các loại hương thơm truyền thống của vùng Huế. Hoạt động sản xuất hương thơm tại làng đã tồn tại từ thời phong kiến và phát triển mạnh mẽ qua các thời kỳ lịch sử của đất nước.
b. Đặc điểm phát triển của làng nghề:
- Sản phẩm chủ yếu: Hương thơm, nước hoa và các loại tinh dầu tự nhiên.
- Công dụng: Sản phẩm của làng Hương Thủy Xuân thường được sử dụng trong lễ hội, nghi lễ truyền thống, cũng như trong cuộc sống hàng ngày để tạo không gian thơm mát và dễ chịu.
c. Các nguyên liệu chính:
- Lá và hoa: Lá và hoa của các loại cây thảo mộc và hoa quả tự nhiên như hoa cúc, hoa sen, lá bưởi, lá trầm hương...
- Các loại dầu tự nhiên: Dầu hạt cải, dầu dừa, dầu hoa hồng, dầu cam...
d. Quy trình sản xuất chủ yếu:
- Thu thập nguyên liệu: Nguyên liệu được thu thập từ thiên nhiên, bao gồm lá và hoa từ các loại cây thảo mộc và hoa quả tự nhiên.
- Chưng cất và chiết xuất: Nguyên liệu được chưng cất hoặc chiết xuất để lấy tinh dầu tự nhiên.
- Kết hợp và gia công: Tinh dầu được kết hợp với các loại dầu tự nhiên khác và các thành phần thảo mộc khác để tạo ra hương thơm đặc trưng của làng Hương Thủy Xuân.
- Đóng gói và tiêu thụ: Sản phẩm sau khi hoàn thiện được đóng gói và phân phối trên thị trường, được sử dụng rộng rãi trong và ngoài nước.
Câu 1: Hoàn thành bảng tóm tắt đặc điểm phát triển (về lao động, nguyên liệu, thị trường tiêu thụ, kĩ thuật sản xuất,...) của một số nhóm làng nghề theo gợi ý dưới đây vào vở ghi.
STT | Nhóm | Đặc điểm phát triển | Tên làng nghề |
1 | Chế biến, bảo quản nông, lâm nghiệp, thuỷ sản | ? | ? |
2 | Sản xuất hàng thủ công mĩ nghệ | ? | ? |
3 | Sản xuất đồ gỗ, mây tre đan, gốm sứ, thuỷ tinh, dệt may, sợi, thêu ren, đan lát, cơ khí nhỏ | ? | ? |
Bài làm chi tiết:
STT | Nhóm | Đặc điểm phát triển | Tên làng nghề |
1 | Chế biến, bảo quản nông, lâm nghiệp, thuỷ sản | - Thuộc nhóm này có các làng nghề: làm bánh, kẹo; làm bún, miến, bánh đa, làm nem, giò, chả; chế biến chè, thuốc nam, làm tương, nước mắm - Các làng nghề chế biến, bảo quản nông, lâm, thuỷ sản phân bố rộng khắp các vùng trên cả nước, trong đó tập trung nhiều nhất ở Trung du và miền núi Bắc Bộ, Đồng bằng sông Hồng. - Ở các làng nghề này, quá trình sản xuất đã áp dụng nhiều loại máy móc hiện đại nhằm nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm. Nguyên liệu chính là các loại nông, lâm, thuỷ sản sẵn có tại địa phương. Sản phẩm phục vụ nhu cầu tiêu dùng trong nước là chủ yếu (chiếm 95%), trong đó có nhiều sản phẩm đạt tiêu chuẩn OCOP. | ,... Số lượng làng nghề nhiều, gắn liền với các đặc sản: cốm Vòng (Hà Nội), bánh tráng phơi sương Trảng Bàng (Tây Ninh), đường thốt nốt Châu Lăng (An Giang), nước mắm Phú Quốc (Kiên Giang),... |
2 | Sản xuất hàng thủ công mĩ nghệ | - Các làng nghề sản xuất hàng thủ công mĩ nghệ gồm làng nghề chạm khắc, chế tác đá; kim hoàn; sơn mài, làm giấy; tranh dân gian (trên giấy, trên kiếng).... - Đồng bằng sông Hồng là vùng có nhiều làng nghề sản xuất hàng thủ công mĩ nghệ nhất cả nước, tiếp đến là Trung du và miền núi Bắc Bộ. - Khoảng 15% sản phẩm thủ công mĩ nghệ của làng nghề đã có mặt ở nước ngoài, đặc biệt được ưa chuộng ở Hoa Kỳ, Nhật Bản và EU vì sản phẩm độc đáo, mang đậm bản sắc văn hoá độc đáo của địa phương và dân tộc. - Quá trình sản xuất của làng nghề đã ứng dụng nhiều máy móc, thiết bị nhưng những khâu cơ bản gần như không thay đổi để giữ lại đặc trưng riêng của sản phẩm. Lao động thủ công là chính với những đòi hỏi cao về tay nghề, sự tỉ mỉ, sáng tạo và chuyên môn hoá sâu. - Để đáp ứng nhu cầu phát triển, làng nghề nhóm này cần chú trọng công tác bảo tồn các bí quyết truyền thống, truyền nghề và đào tạo nghề cho người lao động. | Số lượng làng nghề thuộc nhóm này còn lại không nhiều, nhưng đều là những làng nghề có truyền thống lâu đời như: chạm bạc Đồng Xâm (Thái Bình), đá mĩ nghệ Non Nước (Đà Nẵng), sơn mài Tương Bình Hiệp (Bình Dương).... |
3 | Sản xuất đồ gỗ, mây tre đan, gốm sứ, thuỷ tinh, dệt may, sợi, thêu ren, đan lát, cơ khí nhỏ | - Đồng bằng sông Hồng có nhiều làng nghề thuộc nhóm này nhất cả nước, tiếp đến là Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung. - Sản phẩm của làng nghề nhóm này chủ yếu là các vật dụng tiêu dùng phục vụ đời sống hằng ngày, trong đó 22,5% được tiêu thụ ở thị trường ngoài nước (tỉ lệ hàng xuất khẩu so với tổng sản phẩm sản xuất được của ngành hàng gốm sứ, mây tre là trên 70%, cói lục bình khoảng 50%). Do nhu cầu lớn nên đây cũng là nhóm làng nghề có tỉ lệ nguyên, vật liệu ngoại nhập khá cao (trên 12%), đặc biệt cao ở các làng nghề sản xuất đồ gỗ, dệt, may. Quy mô sản xuất ngày càng mở rộng, hình thức tổ chức sản xuất tiên tiến phát triển với số lượng doanh nghiệp nhiều nhất trong các nhóm làng nghề. | Đây là nhóm làng nghề có số lượng nhiều nhất với nhiều ngành nghề khác nhau: lụa Vạn Phúc (Hà Nội), gốm Phù Lãng (Bắc Ninh), nón lá Vân Thê (Thừa Thiên Huế), gốm Bàu Trúc (Ninh Thuận), |
Câu 2: Dựa vào hình 3.6, hãy nhận xét sự phân bố làng nghề và làng nghề truyền thống phân theo vùng ở nước ta năm 2020.
Bài làm chi tiết:
- Số lượng làng nghề và phân bố nhiều nhất ở vùng Đồng bằng sông Hồng (877 làng). Lớn thứ 2 là vùng Trung du và miền núi Bắc Bộ (717 làng) và thứ 3 là vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung (609 làng)
- Số lượng làng nghề truyền thống phân bố nhiều nhất ở vùng Trung du và miền núi Bắc Bộ (252 làng), thứ 2 là vùng Đồng bằng sông Hồng (196 làng) và thứ 3 là vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung (160 làng)
- Vùng Đồng bằng sông Cửu Long có 312 làng nghề, trong đó có 87 làng nghề truyền thống.
- Đông Nam Bộ có ít làng nghề và làng nghề truyền thống nhất với 47 làng nghề và 9 làng nghề truyền thống. Tây Nguyên là vùng có số làng nghề và làng nghề truyền thống ít thứ 2 với 93 làng nghề và 27 làng nghề truyền thống.
=> Làng nghề và làng nghề truyền thống phân bố tập trung ở khu vực miền Bắc nước ta, chủ yếu là khu vực Đồng bằng sông Hồng và khu vực Trung du và miền núi Bắc Bộ.
Câu 3: Thu thập tài liệu và giới thiệu về một địa điểm du lịch làng nghề ở nước ta.
Bài làm chi tiết:
Làng Đồng Hồ Hội An
- Địa chỉ: Làng Đồng Hồ, xã Duy Hòa, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam, Việt Nam.
- Lịch sử hình thành: Làng Đồng Hồ Hội An được biết đến với truyền thống sản xuất đồng hồ kéo dài hàng thế kỷ. Nghề làm đồng hồ tại làng đã tồn tại từ thời Pháp thuộc và phát triển mạnh mẽ vào những năm 1970-1980.
* Đặc điểm phát triển của làng nghề:
- Sản phẩm chủ yếu: Đồng hồ chất lượng cao với các loại máy cơ, máy quartz, và đặc biệt là đồng hồ cơ truyền thống.
- Các nguyên liệu chính: Thép không gỉ, đồng, thép, kim loại quý, mạ vàng, da, và các loại vật liệu làm kính.
* Quy trình sản xuất chủ yếu:
- Chế tác: Người thợ chế tác từng chi tiết của đồng hồ, từ vỏ, mặt số, kim loại đến cơ cấu bên trong.
- Lắp ráp: Các chi tiết được lắp ráp thành sản phẩm hoàn chỉnh dưới sự khéo léo của thợ làng.
- Kiểm tra và hoàn thiện: Mỗi sản phẩm được kiểm tra cẩn thận để đảm bảo chất lượng trước khi được hoàn thiện với việc điêu khắc và mạ vàng nếu cần.
* Đặc điểm du lịch:
- Làng Đồng Hồ Hội An là địa điểm du lịch thu hút nhiều du khách đến thăm quan, mua sắm và trải nghiệm công nghệ chế tác truyền thống của làng.
- Du khách có thể tham quan các cửa hàng, nhà xưởng sản xuất đồng hồ và thậm chí được tham gia vào quá trình làm đồng hồ dưới sự hướng dẫn của các thợ làng tại đây.
- Làng cũng có các điểm dừng chân cho du khách để thưởng ngoạn các sản phẩm đồng hồ và mua sắm những món đồ độc đáo.
- Làng Đồng Hồ Hội An không chỉ là nơi sản xuất đồng hồ uy tín mà còn là điểm đến du lịch độc đáo, mang lại trải nghiệm thú vị và cơ hội khám phá văn hóa và nghề truyền thống của Việt Nam.
Giải chuyên đề Địa lí 12 Cánh diều, Giải chuyên đề chuyên đề 3: Phát triển làng nghề SGK chuyên đề Địa lí 12 Cánh diều, Giải chuyên đề Địa lí 12 cánh diều chuyên đề 3: Phát triển làng nghề