Viết bài phân tích một tác phẩm (truyện)

Với đề văn mẫu lớp 8 kết nối tri thức: Viết bài phân tích một tác phẩm (truyện) baivan.net tổng hợp nhiều bài viết khác nhau giúp học sinh có thêm nhiều tư liệu tham khảo viết bài. Hi vọng đây sẽ là nguồn tài liệu hữu ích để các em hoàn thiện những bài tập làm văn hay. Kéo xuống để tham khảo

[toc:ul]

Bài văn mẫu 1: Viết bài phân tích một tác phẩm (truyện)

Trong văn học Việt Nam, hiện đại có những cây bút văn xuôi chỉ chuyên về truyện ngắn và kí. Nguyễn Thành Long (1925- 1991) là một trong số đó. Bắt đầu viết văn trong những năm cuối cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp ở liên khu V, Nguyễn Thành Long được khẳng định như một cây bút truyện ngắn và kí đáng chú ý trong những năm 60-70 với cả gần chục tập sách đã in. Ông là một cây bút cần mẫn và nghiêm túc trong lao động nghệ thuật, lại rất chú trọng thâm nhập thực tế đời sống. Nhiều sáng tác của Nguyễn Thành Long là kết quả trực tiếp của những chuyến "thâm nhập thực tế" như thế, nhưng truyện ngắn Lặng lẽ Sa Pa lại là một trường hợp đặc biệt.

Mùa hè năm 1970 theo lời kể tác giả, ông cùng một người bạn văn quyết định đi nghỉ ở Sa Pa. Vì thế mà nhà văn không vào các cơ quan, đơn vị của địa phương để tìm hiểu thực tế hay tìm gặp những "điển hình tiên tiến" như những lần đi thực tế của các văn nghệ sĩ. Nhưng điều may mắn lại chính là do chỗ không lăm le tìm hiểu thực tế theo lối khá công thức lúc bấy giờ của giới văn nghệ sĩ mà Nguyễn Thành Long đã bắt gặp câu chuyện về người thanh niên công tác ở trạm khí tượng trên đỉnh Yên Sơn một mình giữa lặng lẽ của Sa Pa. Bằng sự nhạy cảm nghề nghiệp, nhà văn đã nắm lấy chất liệu thực tế ấy, bồi đắp thêm bằng sức tưởng tượng sáng tạo và truyền vào đấy những suy ngẫm, quan niệm về đời sống, về nghệ thuật của một cây bút từng trải làm nên một truyện ngắn hay.

Thành công của Nguyễn Thành Long trong truyện ngắn này, có lẽ trước hết là đã tạo dựng một chất thơ trong sáng, làm nên không khí và sắc điệu riêng của tác phẩm được toát lên từ sự hài hòa giữa phong cảnh thiên nhiên đẹp lộng lẫy và mơ màng của Sa Pa với vẻ đẹp trong những suy nghĩ, cảm xúc và công việc của các nhân vật cùng mối quan hệ của họ. Lặng lẽ Sa Pa có một cốt truyện đơn giản, xoay quanh tình huống gặp gỡ bất ngờ giữa ông họa sĩ già, cô kĩ sư vừa mới ra trường với anh thanh niên một mình sống và làm việc ở trạm khí tượng trên đỉnh Yên Sơn. Cuộc gặp gỡ chỉ trong chốc lát nhưng đã đủ để nhân vật chính xuất hiện gây được ấn tượng và gợi ra những suy nghĩ, cảm xúc với nhiều âm vang ở những nhân vật khác trong truyện. Sáng tạo được tình huống ấy và lựa chọn được nhiều điểm nhìn trần thuật từ cái nhìn và tâm trạng người họa sĩ già - Một nghệ sĩ nhiều từng trải và chiêm nghiệm về cuộc đời và nghệ thuật, thì có thể nói tác giả đã nắm chắc được sự thành công của đứa con tinh thần của mình.

Truyện có 4 nhân vật: Bác lái xe, ông họa sĩ, cô kĩ sư và anh thanh niên. Họ thuộc hai thế hệ già và trẻ, nghề nghiệp khác nhau nhưng ở họ có rất nhiều điểm rất gần gũi mà trước hết là những nét đẹp trong suy nghĩ, trong thái độ đối với cuộc sống với công việc và với những người khác. Những nhân vật ấy (và ả những nhân vật chỉ được nói đến trong lời kể của người thanh niên) đều không được tác giả đặt tên. Điều này hẳn không phải là không có dụng ý của tác giả: Nhà văn muốn thể hiện họ là những con người bình thường, bình dị trong cuộc gặp gỡ bất ngờ trên hành trình của một chuyến xe khách, như là chúng ta có thể gặp những con người như thế ở nhiều nơi trên đất nước. Những nhân vật trong truyện ít nhiều đều có màu sắc lý tưởng, nhưng họ cũng những hình ảnh những con người mang vẻ đẹp của một thời kì lịch sử.

Nhân vật chính của truyện - anh thanh niên chỉ xuất hiện trong chốc lát nhưng vẫn là điểm sáng chói nổi bật nhất của bức tranh mà tác giả tập trung thể hiện. Để chuẩn bị cho sự xuất hiện của anh, tác giả đã qua lời bác lái xe để giới thiệu về anh: Hai mươi bảy tuổi, người cô độc nhất thế gian, một mình trên trạm khí tượng ở đỉnh cao hai ngàn sáu trăm mét, rất "thèm người" ... Cách giới thiệu ấy đã gây hứng thú và chuẩn bị tâm thế cho nhân vật ông họa sĩ trược cuộc gặp gỡ. Khi xe dừng, người thanh niên xuất hiện với dáng vẻ nhanh nhẹn tự nhiên và vóc dáng hơi nhỏ bé dường như không có gì đặc biệt. Sức thu hút của anh chính là ở thái độ và những suy nghĩ về cuộc sống và công việc của một người một mình lặng lẽ của thiên nhiên. Cái mà tác giả muốn làm nổi bật ở những nhân vật này không phải là những công việc khó khăn đòi hỏi phải có tinh thần trách nhiệm cao, mà là một hoàn cảnh sống và làm việc thật đặc biệt: một mình trên đỉnh núi cao Yên Sơn quanh năm suốt tháng giữa cái lặng lẽ mênh mông của cỏ cây mây núi. Cái khó khăn, thách thức lớn nhất với anh chính là sự cô độc. Cái gì giúp anh vượt qua được hoàn cảnh ấy?

Trước hết đó là ý thức trách nhiệm và tình yêu với công việc. Công việc hằng ngày của anh "đo gió, đo mưa, đo nắng, tính mây, đo chấn động mặt đất, dự vào việc báo trước thời tiết hằng ngày phục vụ sản xuất, phục vụ chiến đấu". Anh hiểu rõ công việc thầm lặng của mình là cần thiết và có ích cho mọi người, nó gắn liền anh với mọi người và cuộc sống chung của đất nước. Anh yêu công việc của mình: "Công việc của cháu gian khổ thế đấy, chứ nếu cháu cất nó đi, cháu buồn đến chết mất".

Nét đẹp ở nhân vật này không chỉ là ở cách sống có lí tưởng mà còn ở những suy nghĩ sâu sắc về công việc và cuộc sống. Chẳng hạn, về sự cô độc, anh đã nghĩ thế nào?

"Hồi chưa vào nghề, những đêm bầu trời đen kịt, nhìn kỹ mới thấy một ngôi sao xa, cháu cũng nghĩ ngay ngôi sao kia lẻ loi một mình. Bây giờ làm nghề này, cháu không nghĩ như vậy nữa. Vả khi ta làm việc, ta với công việc là đôi, sao gọi là một mình được? Huống chi, việc của cháu gắn liền với việc của bao an hem, đồng chí dưới kia". Còn đây là về nỗi "thèm người" - như cách nói của bác lái xe, anh nghĩ "Con người thì ai mà chả "thèm" hả bác? Mình sinh ra là gì, mình đẻ ở đâu, mình vì ai mà làm việc?" Những nỗi "nhớ người" với anh, quyết không thể là nỗi nhớ "phồn hoa đô thị".

Trong cuộc sống lẻ loi của mình, anh còn tìm thấy một nguồn vui, đó là sách, mà anh thấy lúc nào đọc cũng như có người bạn để trò chuyện.

Chính vì tất cả những điều trên mà cuộc sống của người thanh niên ấy giữa núi cao mây mù không buồn tẻ. Anh tổ chức cuộc sống một mình ở trạm khí tượng thật ngăn nắp và chủ động: trồng hoa, trồng rau, nuôi gà, đọc sách ngoài những giờ làm việc có mối giao lưu thân thiết với bác lái xe, những cuộc gặp gỡ với mọi người. Ở người thanh niên ấy còn có mọt nét rất đáng mến nữa là sự cởi mở, chân thành với mọi người, khao khát được gặp gỡ, trò chuyện với người khác. Tình thân của anh với bác lái xe, thái độ ân cần, nhiệt thành, sự săn sóc chu đáo của anh với ông họa sĩ và cô gái mới lần đầu gặp gỡ đã nói lên nét đáng mến ấy ở anh.

Trong truyện, ngoài nhân vật người thanh niên, các nhân vật phụ (bác lái xe, ông họa sĩ già, ô kĩ sư mới ra trường ...) không chỉ tham gia vào câu chuyện, làm rõ nét hơn cho nhân vật chính, mà còn làm phong phú và sâu hơn cho chủ đề truyện. Trong số đó, đáng chú ý nhất là nhân vật ông họa sĩ già. Tác giả đã hầu như "nhập" vào cái nhìn và tâm trạng của nhân vật này để trần thuật, bao gồm cả quan sat, miêu tả và suy ngẫm, bình luận. Qua cái nhìn của ông họa sĩ, chân dung nhân vật chính được hiện ra rõ nét hơn, đẹp hơn và khơi gợi những suy ngẫm về cuộc đời con người và nghệ thuật.

Ngay những phút đầu gặp gỡ với người thanh niên, bằng sự từng trải của một người nghệ sĩ, ông xúc động đến bối rối vì đã "bắt gặp một điều thật ra ông vẫn ao ước được biết, một nét thôi đủ khẳng định một tâm hồn, khơi gợi một ý sáng tác". Và với ông "người con trai ấy đáng yêu thật, nhưng làm cho ông nhọc quá: với những điều làm cho người ta suy nghĩ về anh và những điều anh suy nghĩ. Và đúng như người họa sĩ đã nghĩ: "Những điều suy nghĩ đúng đắn bao giờ cũng có những vang âm, khơi gợi bao điều suy nghĩ khác trong óc người khác". Ví như, từ câu chuyện với người thanh niên, ông họa sĩ đã suy nghĩ về nghệ thuật với cả sức mạnh và sự bất lực của nó so với cuộc đời, về con người và mảnh đất Sa Pa.

Còn với cô kĩ sư trẻ mới ra trường thì cuộc gặp gỡ với anh thanh niên cùng với những điều anh kể đã khiến cô bàng hoàng, "cô hiểu thêm cuộc sống một mình dũng cảm tuyệt đẹp của người thanh niên, về cái thế giới của những con người như anh". Quan trọng hơn nữa, cô hiểu và tin hơn vào con đường mà cô đã lựa chọn.

Như vậy qua cảm xúc và suy nghĩ của các nhân vật khác, hình ảnh người thanh niên như được soi rọi dưới một ánh sáng trong trẻo và rực rỡ khiến nó đẹp hơn, ánh lên nhiều màu sắc hơn. Đó là cái thủ pháp mà người xưa gọi là "vẽ mây để nảy trăng".

Lặng lẽ Sa Pa chưa phải là một truyện ngắn xuất sắc. Có thể ra những chi tiết chưa thật đắt, những chỗ tác giả đã nói thay nhân vật, phát biểu quá lộ liễu về chủ đề của tác phẩm. Nhưng dù sao truyện ngắn này cũng là một thành công đáng ghi nhận của cây bút truyện ngắn Nguyễn Thành Long. Tác phẩm như một bài thơ về vẻ đẹp trong cách sống và suy nghĩ của những con người lao động bình thường mà cao cả, những mẫu người của một giai đoạn lịch sử có nhiều gian khổ, hi sinh nhưng cũng thật trong sáng đẹp đẽ. Từ hình ảnh những con người ấy cũng gợi lên cho ta những suy nghĩ về ý nghĩa cuộc sống, của lao động tự giác, về con người và về nghệ thuật.

Bài văn mẫu 2: Viết bài phân tích một tác phẩm (truyện)

Giá như không có chuyến ô tô khách, có lẽ cũng chẳng mấy ai được đặt chân đến Sa Pa, để cảm nhận được vẻ đẹp thanh tú, cái "lặng lẽ" của một vùng núi non trùng điệp mù sương và mộng mơ cao nhất nước Việt này/ trong bản đồ địa hình, Sa Pa nằm bên hữu ngạn sông Hồng, còn con đường sắt dọc theo sông lại nằm ở phía tả ngạn. Cho nên đã thành thông lệ, ai đến Sa Pa hãy đi đường sắt lên chót Lào Cai rồi từ Lào Cai lại đi ô tô khách leo dốc núi 80km nữa mới đến Sa Pa. Chuyến xe khách Lào Cai - Sa Pa vô tình đã trở thành cầu nối, trở thành người dẫn chuyện. Trên chuyến xe khách có ba nhân vật, ngoài người lái xe già trước cách mạng tháng Tám 1945 còn có ông họa sĩ già vui tính và cô kĩ sư nông nghiệp trẻ lần đầu đi Tây Bắc. Họ quen nhau trên một chuyến xe, dù sao cũng là một chuyện bình thường. Tuy nhiên tác giả Nguyễn Thành Long đã miêu tả họ thành ba nhân vật có tâm hồn trong sáng, dễ mến.

Truyện ngắn này tác giả đã viết vào những năm 60, không khí xã hội bấy giờ còn thấm đẫm hương vị ngọt ngào của cuộc sống mới và những con người mới. Cho nên ta gặp ở đây một người lái xe già không hay cau có mà lại vui tính, "có máu nghệ sĩ", một ông họa sĩ già vẫn ham đi thực tế các vùng xa xôi để sáng tác, một cô kĩ sư nông nghiệp trẻ măng sẵn sàng đi đi lên Tây Bắc nhận công tác. Họ tuy là những người người xa lạ, gặp nhau lần đầu nhưng tâm hồn họ trong sáng, cùng chung mục đích ý tưởng, lại sẵn tình cảm chân thật nên họ đã gặp nhau. Cuộc trò chuyện giữa họ cho ta thấy thế nào là nét đẹp của cuộc sống mới. Tuy nhiên, mặc dù có đến ba, nhưng họ vẫn chưa phải là nhân vật chính.

Phải chờ xe đi đến Sa Pa, nghỉ chân ở đấy ba mươi phút, ta mới có điều kiện tiếp cận với nhân vật chính. Đó là anh thanh niên mới hai mươi bảy tuổi, làm công tác khí tượng kiêm vật lí địa cầu trên đỉnh Yên Sơn cao hai ngàn sáu trăm mét. Tất nhiên khi gặp gỡ với người lái xe già đã từng quen biết, với ông họa sĩ già vui tính và cô kĩ sư trẻ, anh thanh niên này không hề tỏ ra ít nói chút nào, nhưng cái tên truyện lặng lẽ Sa Pa chính là dành cho anh, bởi anh "lặng lẽ" làm việc một mình trên đỉnh núi cao, là "một con người cô độc nhất thế gian" (như lời giới thiệu của người lái xe già), nhưng công việc lại liên quan đến cả nước. Làm một công việc đo gió, đo mây dự báo thời tiết âm thầm, lặng lẽ trên đỉnh núi vao hai ngàn sáu trăm mét, giữa mênh mông đất trời sương tuyết, anh thanh niên vẫn yêu đời, đầy trách nhiệm cần cù, dũng cảm. Anh không để xảy ra sơ suất nào trong nhiệm vụ đã đành, anh còn biết tự tạo cho mình một cuộc sống nền nếp, phong phú và thơ mộng: nuôi gà, trồng hoa, đọc sách. Tuy vậy anh thanh niên vẫn thỉnh thoảng xuống núi tìm gặp người lái xe già cùng khách qua đường để vơi bớt nỗi cô đơn, nỗi "nhớ người"... Đây là một chi tiết rất người mà tác giả đã nắm bắt, phát hiện bởi vì đã là con người thì ai chả sợ nỗi cô đơn. Nhưng cái cách để gặp người của anh thanh niên này cũng khá lạ lẫm. Người lái xe già kể: "Cách đây bốn năm, có hôm tôi cũng đang đi như thế này chợt thấy một khúc thân cây chắn ngang đường, phải hãm lại. Một anh thanh niên ở đâu chạy đén, hè với tôi và khách đi xe đẩy khúc cây ra một bên cho xe đi. Hỏi ở đây mà ai đẩy cây ra giữa đường thế này anh chỉ đỏ mặt". Thì còn ai nữa, chính anh ta chứ ai! "Thì ra anh ta mới lên nhận việc, sống một mình trên đỉnh núi, bốn bề chỉ có cây cỏ và mây mù lạnh lẽo, chưa quen, thèm người quá, anh ta kiếm kế dừng xe lại để gặp chúng tôi, nhìn trông và nói chuyện một lát". Và cái kế của anh thanh niên đó chính là đẩy khúc câu ra giữa đường để xe khách phải dừng lại. Ôi đó cũng là một cái kế sách lạ lẫm hết mức!

Nhưng đó là câu chuyện của 4 năm trước, còn bây giờ, hãy xem, anh ta vẫn "mừng quýnh" khi thấy xe khách lên Rồi khi đưa khách lên chơi nhà, anh ta khẩn trương, tất bật đến từng phút đủ để làm các công việc cắt hoa, mới nước, kể về công việc và nghe chuyện của khách trong khoảng thời gian 30 phút, thời gian mà chiếc xe khách có thể đỗ lại nơi đây. Người đọc thấy anh ta nói hơi nhiều, nói nhanh, "nói xong chạy vụt đi cũng tất tả như khi đến" cũng có thể nói tiếng người với những đồng bào của mình, còn ngày thường thì anh ta hát to chăng nữa cũng chỉ có mây núi có mây núi nghe mà thôi. Nhưng trong tất cả các lần gặp người, lần này có lẽ anh ta gặp may hơn. Ngoài người lái xe già anh dã từng quen biết, anh lại gặp được một họa sĩ già vui tính "xúc động mạnh" vì rất quý trọng công việc và con người anh, và đặc biệt cô kĩ sư trẻ rất xúc động. Cô đã "bất giác đỏ mặt lên" khi nghe người lái xe già kể chuyện về anh, lại xúc động đến lại một cái gì đó" khi "nhìn thấy người con trai tầm vóc bé nhỏ, nét mặt rạng rỡ từ trên sườn núi trước mặt chạy lại chỗ xe đỗ". Đến khi anh thanh niên tặng hoa "... cô kĩ sư chỉ ô lên một tiếng! ... quên mất e lệ, cô chạy đến bên người con trai đang đang cắt hoa. Anh con trai rất tự nhiên như với một người bạn đã quen thân, trao bó hoa đã cắt cho người con gái, và cũng rất tự nhiên, cô đỡ lấy".

Tác giả đã miêu tả rất tỉ mỉ sự diễn biến tâm lí trẻ của một cô gái trẻ dễ xúc động. Vì tâm hồn cô đầy những khát vọng và ước mơ, nên cô gái đã đón nhận câu chuyện và bó hoa của người thanh niên "cô độc nhất thế gian" một cách thật lòng. Ngay cả lúc người thanh niên nói những câu có lẽ hơi đột ngột: "Thôi chấm dứt tiết mục hái hoa - Người con trai bất chợt quyết định - bác lái xe chỉ cho ba mươi phút thôi. Hết năm phút rồi..." thì cô gái vẫn "ôm nguyên bó hoa trong tay, tai lắng nghe". Để đến lúc đọc sách của anh, khi ông họa sĩ già đang thực hành sáng tác, cô gái đã cảm thấy "bàng hoàng" về một cái gì đó chớm nở trong cô giúp cô xóa bỏ cái nhạt nhẽo của một tình cảm đã qua. Rồi vô tình hay hữu ý, cô đã để lại một chiếc khăn tay "kỉ niệm lần đầu gặp gỡ này. Một cái cỏn con gì rồi ra có thể biến thành mọt chút xíu dịu dàng, một chút xíu dũng cảm trong cuộc sống của anh ta". Người đọc có thể cho là sự phát triển tình cảm của cô gái hơi nhanh nhưng ai mà hiểu được trong hoàn cảnh ấy, sự chia tay trong "bạt ngàn" Tây Bắc, rất có thể là không gặp lại, lại không đưa người ta đến những cảm xúc tương tự. Cho nên cái bắt tay cuối cùng của cô đối với anh thanh niên cũng khác: "Có chia tay ra cho anh nắm, cẩn trọng rõ ràng, như người ta cho nhau cai gì chứ không phải là cái bắt tay".

Truyện ngắn của Nguyễn Thành Long có nhiều bất ngờ với những chi tiết vừa thực vừa lạ. Tác giả khéo léo kể lại chuyện gặp gỡ theo mạch từ tồn, chậm rãi mà vẫn vui, hóm hỉnh. Ngôn ngữ đối thoại của truyện rất phù hợp với từng nhân vật: anh thanh niên vui khỏe hồn nhiên, cô kĩ sư e ấp dễ xao xuyến, ông họa sĩ già lịch duyệt rất tâm lí. Rõ ràng cuộc sống là một dòng chảy đáng yêu đáng mến. Những người trong sáng nhiệt tình sớm muộn gì họ sẽ có dịp gặp gỡ và hòa cảm trong cùng một mục đích, ý tưởng chung. Và cuộc sống thật đáng trân trọng biết bao khi ở trên đỉnh Sa a kia, ngoài anh thanh niên kia còn có bao nhiêu người như ông kĩ sư vườn rau sáng tạo giống su hào mới, như đồng chí nghiên cứu khoa học suốt ngày trong tư thế sẵn sàng chờ set để lập bản đồ sét đến mức "trán đồng chí cứ hói dần đi. Nhưng cái bản đồ sét thì sắp xong rồi". Tác giả viết: "Trong cái lặng im của Sa Pa, dưới những dinh thự cũ kĩ của Sa Pa... có những con người làm việc và lo nghĩ như vậy cho đất nước". Phải chăng đó là chủ đề chính của truyện ngắn này mà tác giả muốn gửi đến người đọc.

Bài văn mẫu 3: Viết bài phân tích một tác phẩm (truyện)

Trong lòng mẹ trích từ tập hồi ký Những ngày thơ ấu của nhà văn Nguyên Hồng, kể lại những kỷ niệm cay đắng, tủi khổ thuở ấu thơ của nhà văn và người mẹ bất hạnh. Đong đầy trong đó là tình mẫu tử thiêng liêng sâu sắc, qua giọng văn cảm động, chân thực của tác giả.

Nguyên Hồng (1918-1982), tên khai sinh là Nguyễn Nguyên Hồng, quê Nam Định, ông lớn lên ở thành phố cảng Hải Phòng, trong một xóm lao động nghèo. Ông có một tuổi thơ cơ cực, đầy cay đắng, thiếu thốn tình cảm của cha lẫn mẹ, sống bơ vơ sự ghẻ lạnh của gia đình họ hàng.

Nhưng cũng chính điều này lại là vốn sống tạo nên một nhà văn Nguyên Hồng bản lĩnh, chan chứa tình cảm, luôn luôn muốn thấu hiểu mọi lẽ đời, cái phong cách sống ấy gói gọn trong hai chữ “gia đình”. Nguyên Hồng được mệnh danh là “nhà văn của những người cùng khổ”, “nhà văn của phụ nữa và trẻ em”, rất đa tài, sáng tác được nhiều thể loại nhưng thành công nhất là văn xuôi. Văn của ông luôn chân thực, dạt dào cảm xúc và thấm đượm tình yêu thương.

Những ngày thơ ấu (1938), là tập hồi ký chân thực, có chiều sâu cảm xúc, gồm 9 chương viết về những kỷ niệm đau buồn cay đắng trong suốt thời thơ ấu của tác giả, mà theo như giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh: “Đó là những kỷ niệm đau xót, buồn tủi của một đứa trẻ sinh ra trong một gia đình phá sản, phải sống bơ vơ, đói rách, bị họ hàng giàu có và cái xã hội đồng tiền ấy hắt hủi”. Hồi ký là tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của nhà văn Nguyên Hồng. Đoạn trích Trong lòng mẹ nằm ở nửa đầu chương 4 của tập hồi ký.

Đoạn trích mở ra là cuộc đối thoại của cậu bé Hồng với người cô ruột. Hồng là kết quả của cuộc hôn nhân không tình yêu, người cha nghiện ngập vừa mất chưa đầy năm, người mẹ vì không chịu nổi cái sự o ép bên nhà chồng mà phải đi tha hương cầu thực. Sắp đến ngày giỗ đầu của người cha, cô ruột đã lân la tìm đến nói chuyện, những tưởng sẽ chăm sóc vun vén cho cậu bé, nhưng những lời của người cô lại như dao cắt vào lòng cậu bé Hồng, lời lẽ đầy mỉa mai, giễu cợt, ghét bỏ.

Đọc bài ta có thể tưởng tượng ra cái bộ dáng, đon đả đầy nham hiểm của người cô khi cười hỏi: “Hồng! Mày có muốn vào Thanh Hóa với mẹ mày không?”, nhưng bằng lòng cảnh giác, suy nghĩ già dặn trước tuổi Hồng chỉ lặng lặng cúi đầu đáp lời: “Không! Cháu không muốn vào. Cuối năm thế nào mợ cháu cũng về”.

Thực chất Hồng đã nhìn ra được cái tâm tư của người cô, chẳng phải là muốn gắn kết tình yêu thương giữa Hồng và mẹ, mà đang muốn xoáy sâu vào nỗi đau trong lòng Hồng, cậu bé đã rất tỉnh táo trả lời không, mặc dù “toan” nói có, và tin tưởng chắc chắn rằng mẹ sẽ quay về.

Nhưng không dừng lại ở đó, người cô “giọng vẫn ngọt”, ngọt một cách “kịch” vô cùng: “Sao lại không vào? Mợ mày phát tài lắm, có như dạo trước đâu!”, câu hỏi với cái giọng nhấn nhá cao vút, đậm chất mỉa mai. Hồng “im lặng cúi đầu”, “lòng càng thắt lại”, mắt “cay cay”, im lặng ở đây không phải là sự trầm ngâm suy nghĩ một cách đơn giản mà là Hồng đã cảm nhận thấy sự buồn tủi đang bắt đầu len lỏi vào trong lòng mình, sinh sôi nảy nở, bén rễ như thứ cỏ dại mọc hoang.

Sự giả dối nham hiểm của người cô càng trở nên rõ ràng khi thấy người cháu của mình đang buồn tủi mà vẫn đon đả “vỗ vai”, “cười” nói rằng: “Mày dại quá, cứ vào đi, tao chạy cho tiền tàu. Vào mà bắt mợ mày may vá sắm sửa cho và thăm em bé chứ”. Giọng điệu giễu nhại cười cợt trên nỗi đau của cháu mình và nỗi khổ của mẹ Hồng.

Tâm trạng của Hồng không dừng lại ở sự buồn tủi nữa mà được bộc lộ ra ngoài bằng những chi tiết rất chân thực, nước mắt Hồng “ròng ròng rớt xuống”, “chan hòa đầm đìa”, và cậu “cười dài trong tiếng khóc” hỏi rằng: “Sao cô biết mợ con có con?”, từng câu từng chữ như vặn xoắn tâm can cả Hồng và người đọc, tiếng cười ấy đầy chua chát đau khổ, Hồng chỉ biết đáp lại người cô bằng câu hỏi đầy bẽn lẽn, nghi hoặc.

Chẳng thể tưởng được người cô ruột khi thấy cháu mình đau đớn, mà lại vẫn “tươi cười kể các chuyện”, với giọng điệu giễu cợt, lấy Hồng và mẹ Hồng ra làm thú vui cho cái trò đùa dai quái ác của mình, để chứng kiến cái cảnh Hồng “nghẹn ứ khóc không ra tiếng”, thì mới hả dạ. Rồi lại làm bộ làm tịch đổi giọng, “nghiêm nghị”, căn dặn Hồng hỏi địa chỉ của mẹ từ chỗ người đàn bà họ nội xa, xúi Hồng viết thư gọi mẹ về. Hồng không khóc nữa, chỉ lặng lẽ im lặng, bỏ ngoài tai những lời mà người cô xấu bụng đang gieo rắc bên tai.

Xuyên suốt cả cuộc đối thoại là một cuộc chiến không cân sức, một bên tấn công bằng đòn ác hiểm, một bên tìm cách chống đỡ, tuy quyết liệt nhưng lộ rõ vẻ đáng thương, tội nghiệp khi phải hứng chịu “đòn roi tinh thần” từ người cô. Mặc dù Hồng hoàn toàn lép vế trong cuộc đối thoại, nhưng tình cảm của Hồng chưa bao giờ bị tác động, Hồng chỉ tin và yêu mẹ, ngoài ra không ai có thể thay thế.

Tình yêu ấy lớn đến nỗi Hồng tưởng “Giá những thứ cổ tục đã đày đoạn mẹ tôi là một vật như hòn đá hay cục thủy tinh, đầu mẩu gỗ, tôi quyết vồ ngay lấy mà cắn, mà nhai, mà nghiến cho kì nát vụn mới thôi”. Lời độc thoại nội tâm của cậu đã bộc lộ rõ tình cảm thắm thiết, keo sơn mà cậu dành cho người mẹ số khổ, Hồng chẳng mảy may để ý mẹ có con ngoài giá thú với người khác, Hồng chỉ thương mẹ và “căm tức” sao mẹ lại sợ những thành kiến xã hội mà xa rời anh em Hồng.

Để thấy được rằng dù mới chỉ 13 tuổi, nhưng Hồng đã có những suy nghĩ rất sâu sắc, đặc biệt là tấm lòng rộng mở, chan hòa yêu thương, lòng bao dung cho người mẹ “non một năm ròng” không có một lá thư, một đồng quà. Tình cảm ấy không được phép “bị những những rắp tâm tanh bẩn xâm phạm đến…”, và có lẽ người Hồng đang cực kỳ căm ghét phải là người cô độc ác kia mới đúng.

Vào ngày giỗ đầu cha Hồng, cuối cùng mẹ Hồng cũng xuất hiện, trong mắt Hồng mẹ vừa gần gũi vừa thân quen, vừa mới lạ như thiên thần trong truyện cổ tích, “không còm cõi xơ xác quá” như lời cô, “gương mặt mẹ tươi sáng, với đôi mắt trong và nước da mịn”, “khuôn miệng xinh xắn”, “thơm tho lạ thường”.

Hẳn là vì xa cách quá lâu, nỗi nhớ cùng tình yêu thương trong lòng Hồng khiến cậu cảm thấy mẹ mình xinh đẹp đến lạ thường, thấy được sự ấm áp của tình thân tình mẫu tử, thiêng liêng. Lúc này đây Hồng “không mảy may nghĩ ngợi gì hết”, tình mẫu tử đã chiến thắng tất cả, gạt đi mọi lời nói chua cay, thâm độc của người cô, làm Hồng có thêm tự tin, phấn khích bởi ý niệm được gặp mẹ đã trở thành hiện thực.

Về nghệ thuật, đoạn trích với tình huống truyện độc đáo, cao trào cảm xúc. Ở phần đầu nhân vật Hồng bị đẩy vào nỗi ấm ức, buồn tủi đến nghẹn lòng, thì đến phần thứ hai nhân vật lại vỡ òa trong cảm xúc hạnh phúc vì nỗi ấm ức nay đã được giải tỏa. Tình huống truyện độc đáo này đã góp phần làm nổi bật nên tình yêu thương mẹ sâu sắc của nhân vật.

Một đặc điểm nghệ thuật nữa là nhân vật được thể hiện sinh động qua ngôn ngữ và cử chỉ, người cô thì thâm hiểm, xảo trá, lời nói rất “kịch”, còn cậu bé Hồng thì nhạy cảm, thận trọng mà sâu sắc. Ngôn ngữ kể chuyện giàu cảm xúc chân thực, đặc điểm của thể loại hồi ký, cảm xúc là cả quá trình trải nghiệm mới có được.

Tác phẩm đã mang lại những giá trị nhân văn thấm đượm tình cảm gia đình, đặc biệt là tình mẫu tử thiêng liêng sâu sắc giữa cậu bé Hồng và người mẹ bất hạnh. Đoạn trích Trong lòng mẹ cũng giúp chúng ta một bài học về bản lĩnh sống kiên cường, mạnh mẽ, lòng kiên định, suy nghĩ sâu sắc, phân biệt được phải trái, tốt xấu thông qua nhân vật Hồng trong tác phẩm.

Bài văn mẫu 4: Viết bài phân tích một tác phẩm (truyện)

Nhẹ nhàng mà sâu lắng, văn Nguyên Hồng từ từ rót vào trái tim người đọc như dòng nước sống mát lành. Nguyên Hồng là thế, tự kể về cuộc đời của mình, để từ đó cảm xúc được đẩy lên một cách chân thực nhất. Ta sẽ tìm được dấu ấn ấy trong đoạn trích “Trong lòng mẹ” Tập hồi kí “Những ngày thơ ấu” được viết năm 1938, và xuất bản năm 1940. Đó là câu chuyện về cậu bé Hồng, hay cũng của chính nhà văn.

Hồng là cậu bé phải chịu cảnh éo le, đáng thương: là kết quả của một cuộc hôn nhân tan vỡ, bố mất, mẹ bỏ đi nơi xứ người, Hồng sống trong cảnh lạnh lùng của gia đình bên nội. Em bị tiêm vào đầu những hủ tục, định kiến về chính người mẹ của em, để em đạp đổ đi tình yêu thương của mình. Ở chương IV- “Trong lòng mẹ”, ta có thể thấy sự cay nghiệt ấy qua lời nói của bà cô. Hoàn cảnh ấy làm em vừa đáng thương lại vừa đáng quý, vì em vẫn giữ vẹn nguyên tình thương dành cho mẹ.

Ở đoạn trích “Trong lòng mẹ”, ta nhận ra được nhiều điều: sự cay nghiệt của những định kiến một thời, sự tội nghiệp của những em bé, của những người phụ nữ sống trong thời đó. Trên hết, là một tình yêu thương của tâm hồn trẻ thơ trong trẻo. Một đoạn trích thật giàu giá trị biết chừng nào!Trước hết, ta tìm hiểu về cuộc nói chuyện giữa Hồng và người cô ruột. Không khó để ta nhận ra rằng, bà cô ấy luôn là người giữ thế chủ động, để liên tục tiêm nhiễm vào đầu đứa cháu những định kiến về mẹ nó.

Mở đầu bằng câu nói: – Hồng! Mày có muốn vào Thanh Hóa chơi với mợ mày không? Tưởng như là ý tốt đấy, nhưng trong câu nói lại chứa đầy giọng nham hiểm, và trên khuôn mặt là nụ cười rất kịch. Người cô ấy như muốn đào sâu thêm vào nỗi đau còn đang hở vết của Hồng, để đứa cháu phải đau khổ, phải dằn vặt.

Nguyên Hồng gọi đó là “những rắp tâm tanh bẩn” của xã hội phong kiến một thời. Bà cô ấy luôn cố tình nhắc đến những chứ như “phát tài”, “em bé” để Hồng căm ghét mẹ nó, thấy mẹ nó là kẻ đáng khinh. Miệng lưỡi ấy, thật thâm độc, thật đáng khinh biết nhường nào. Bà cô chính là đại diện cho một xã hội phong kiến cổ hũ, bóp nghẹt lấy thứ hạnh phúc ít ỏi của con người ta mà Nguyên Hồng viết về tuổi thơ của mình, cũng là để lên án một chế độ.

Nhưng trong cuộc nói chuyện ấy, ta vẫn thấy một bé Hồng luôn giữ trọn một tín ngưỡng về người mẹ trong tâm hồn mình. Hồng nhanh chóng nhận ra ý định thâm độc của người cô, nên chỉ cúi đầu không đáp. Em căm ghét cái xã hội, cái hủ túc ấy đến nỗi: “Giá những cổ tục đã đày đọa mẹ tôi là một vật như hòn đá hay cục thủy tinh, đầu mẩu gỗ, tôi quyết vồ lấy ngay mà cắn, mà nhai, mà nghiến cho kỳ nát vụn mới thôi.” Vì yêu thương mẹ, vì tủi hờn mà trong tâm hồn em đã nuôi sẵn sự căm túc, hận thù về xã hội đã thối nát này.

Những giọt nước mắt của Hồng rơi, khiến ta cũng không khỏi rơi lệ trước nỗi đau của em. Nghe những từ “em bé”, “phát tài”, hay về hoàn cảnh thực tại của mẹ, em không hề mảy may ý định trách mẹ. Em thương mẹ vì phải chạy trốn, vì phải xa con, xa quê hương để sống một cuộc đời khác.

Tình yêu ấy thật lớn quá, nó giúp em đứng vững trước những định kiến cay nghiệt của người cô. Ở phần thứ hai của đoạn trích, là cảnh Hồng gặp lại mẹ, ta mới chợt nhận ra tình mẫu tử thiêng liêng đến chừng nào. Thoáng thấy bóng mẹ, em vội vã đuổi theo, như một người bộ hành trên sa mạc gặp được nguồn nước. Hình ảnh so sánh đã cho thấy rằng, người mẹ quan trọng với em đến nhường nào.

Khi đã được sà vào lòng mẹ, những cảm xúc nguyên thuỷ nhất, trong trẻo nhất nổi dậy giữa hai mẹ con. Nước mắt em rơi lã chã, là nước mắt của tủi nhục, của nhớ nhung, và của cả niềm hạnh phúc. Em dịu đầu vào lòng mẹ, để mẹ xoa tóc xoa đầu, âu yếm vuốt ve. Em nhớ về những ngày xưa được áp mặt vào bầu sữa nóng, được mẹ đưa tay gãi rôm,…

Người mẹ khi ấy cũng không khỏi xúc động, sụt sùi nước mắt, lấy vạt áo nâu thấm nước mắt cho em. Người đàn bà dám chạy trốn định kiến để tìm hạnh phúc cho riêng mình, dẫu phải chịu những khó khăn tủi nhục cũng không quay về chốn ấy. Nay gặp lại con, người mẹ vẫn xúc động không nói nên lời. Giữa mẹ và con giờ đây, không còn những lời nói của người cô, những định kiến cay nghiệt, chỉ còn tình mẫu tử trọn vẹn thiêng liêng.Qua đoạn trích ấy, ta hiểu thêm được nỗi lòng của Nguyên Hồng.

Một con người với tuổi thơ đầy bất hạnh khổ đau, đã gửi gắm nỗi đau ấy vào trong trang viết. Bởi vậy mà đoạn trích hiện lên thật chân thực, làm rơi nước mắt của độc giả. Để làm được điều ấy, còn phụ thuộc vào tài năng của nhà văn. Ông phân tích được tâm lí nhân vật một cách sắc sảo, nhân vật hiện lên sống động như con người thực. Chính điều ấy làm cho tác phẩm sống mãi đến ngày hôm nay.

“Trong lòng mẹ” nói riêng và “Những ngày thơ ấu” nói chung, sẽ mãi còn ngân lên với đời những khúc thánh ca về tình yêu thương, tình mẫu tử thiêng liêng bất diệt như vậy!

Tìm kiếm google: Văn mẫu 8 kết nối đề Viết bài phân tích một tác phẩm (truyện), bài văn hay lớp 8 về Viết bài phân tích một tác phẩm (truyện),những bài văn hay Viết bài phân tích một tác phẩm (truyện) văn mẫu 8 kết nối

Xem thêm các môn học

Bài văn mẫu 8 Kết nối tri thức


Đia chỉ: Tòa nhà TH Office, 90 Khuất Duy Tiến, Thanh Xuân, Hà Nội
Điện thoại hỗ trợ: Fidutech - click vào đây
Chúng tôi trên Yotube
Cùng hệ thống: baivan.net - Kenhgiaovien.com - tech12h.com