1. Theo tác giả, cặp câu thơ là đơn vị cơ bản của một bài thơ Đường luật. Việc xác định “đơn vị cơ bản” trong trường hợp này chủ yếu xét ở góc độ cấu trúc hình thức và bố cục ý của tác phẩm. Quan điểm này có cơ sở thuyết phục.
2. Theo lí giải của tác giả và thực tế lịch sử văn học, mô hình kết cấu 2/2/2/2 của một bài thơ bát cú Đường luật (thường được gọi là “đề - thực - luận - kết”) không phải do các nhà thơ đời Đường đặt ra mà là do người đời sau khái quát về cấu trúc chung của thể thơ này. Đặc biệt là cách gọi tên “đề” “thực” “luận”, “kết” và việc gán cho chúng những chức năng xác định.
3. Các mô hình luật thi nói trên không bao quát hết thực tiễn sáng tác của thơ Đường luật.
Quan điểm của tác giả: Cần phải căn cứ vào từng trường hợp cụ thể để xác định mô hình cấu trúc. Tác giả cho rằng, đó không phải là “một bố cục tất yếu”; vì thế, nếu vận dụng một cách áp đặt để phân tích bất cứ bài luật thi nào thì nhất định sẽ có lúc rơi vào chỗ gượng ép, khiên cưỡng.
4. Theo tác giả, một dòng luật thi đứng tách ra sẽ không cho thấy vẻ đẹp đầy đủ của nó vì: các câu thơ, trong cấu trúc “cơ sở (liên thơ) và “chỉnh thể” (bài thơ) đều có quan hệ với nhau. Về hình thức, “niêm" chính là mô hình cấu trúc theo chiều dọc, giữa các câu và cặp câu đều có chi phối, ước thúc lẫn nhau. Về nội dung, chúng tạo ra một ý nghĩa khái quát theo một kiểu quan hệ nhất định.
5. Theo tác giả, các kiểu mô hình cấu trúc (2/2/2/2; 4/4; 2/4/2) đã được hình thành từ lâu (trong thực tiễn sáng tác của thơ ca đời Đường), tức là đã hình thành một truyền thống. Vì thế, đối với thơ ca sáng tác theo thể Đường luật đời sau, nó “đã có tác dụng hướng đạo sự sáng tác của nhiều thế hệ. [...], đặc biệt là với những bài luật thi được sáng tác từ thời cận đại trở về sau”