Giải chi tiết Tiếng việt 5 CTST bài 3: Ngàn lời sử xanh

Hướng dẫn giải bài 3: Ngàn lời sử xanh sách mới Tiếng việt 5 chân trời sáng tạo. Lời giải chi tiết, chuẩn xác, dễ hiểu sẽ giúp các em hoàn thành tốt các bài tập trong chương trình học. Baivan.net giải chi tiết tất cả các bài tập trong sgk. Hi vọng sẽ trở thành người bạn đồng hành cùng các em trong suốt quá trình học tập.

KHỞI ĐỘNG            

Chia sẻ 2 - 3 điều mà em biết về Thủ đô Hà Nội dựa vào gợi ý:

Bài làm chi tiết:

Hà Nội, thủ đô ngàn năm văn hiến của Việt Nam, là nơi lưu giữ những giá trị văn hóa, lịch sử sâu đậm. Nổi bật là:

- Hồ Hoàn Kiếm và Ngọc Sơn: Là trái tim của Hà Nội, Hồ Hoàn Kiếm không chỉ là điểm du lịch nổi tiếng mà còn là biểu tượng của vẻ đẹp trầm lặng, thơ mộng của thủ đô. Trên hồ có Đền Ngọc Sơn, nơi thờ Huyền Thiên Vương và Trần Hưng Đạo, vị anh hùng dân tộc đã có công lớn trong việc chống quân Nguyên Mông. Câu chuyện về Hồ Gươm và Rùa vàng cũng là một phần không thể thiếu trong tâm thức của người dân Hà Nội.

- Văn Miếu - Quốc Tử Giám: Được xây dựng từ năm 1070 dưới thời vua Lý Thánh Tông, Văn Miếu không chỉ là trường đại học đầu tiên của Việt Nam mà còn là nơi thờ Khổng Tử, các bậc hiền tài của nho giáo. Đây là biểu tượng của tri thức, học vấn và là điểm đến thu hút nhiều du khách trong và ngoài nước. Quốc Tử Giám cũng là nơi đào tạo ra nhiều thế hệ quan lại, trí thức xuất sắc cho đất nước.

- Phố cổ Hà Nội: Là khu vực lịch sử của thủ đô, phố cổ Hà Nội với 36 phố phường mang dấu ấn thời gian và là minh chứng cho lịch sử phát triển của thủ đô qua nhiều thế kỷ. Mỗi con phố đều mang một nghề truyền thống riêng biệt, từ Hàng Bạc, Hàng Giấy, đến Hàng Đồng,... 

ĐỌC: NGÀN LỜI SỬ XANH

Câu hỏi, bài tập:

Câu 1: Con phố sau cơn mưa mùa xuân có gì đẹp?

Bài làm chi tiết:

Con phố sau cơn mưa mùa xuân có vẻ đẹp được tả tươi mới, tràn đầy sức sống. Mưa gieo hạt đầy cây, chồi non mở mắt chờ ngày lên xanh, phố phường như một bức tranh với bao nhiêu hương sắc, vẽ nên một mùa xuân đầy màu sắc và hứa hẹn.

Câu 2: “Trang sách yêu thương” nhắc đến những địa danh nào? Mỗi địa danh đó được tả bằng những từ ngữ, hình ảnh nào?

Bài làm chi tiết:

“Trang sách yêu thương” nhắc đến các địa danh Tây Hồ, Tháp Bút, và chùa Trấn Vũ. 

Mỗi địa danh được tả bằng những từ ngữ, hình ảnh:

Tây Hồ được tả bằng hình ảnh "soi lên biếc cả mặt gương", Tháp Bút "đề thơ" nghĩa là nơi gắn liền với văn học, văn hóa, còn chùa Trấn Vũ "chuông chùa...đến giờ còn vang" gợi lên không gian tâm linh, bình yên và vang vọng qua thời gian.

Câu 3: Khổ thơ 4 gợi cho em nhớ đến những sự kiện lịch sử nào?

Bài làm chi tiết:

Khổ thơ 4 gợi cho em nhớ đến sự kiện lịch sử như:

Bác Hồ viết bản Tuyên ngôn Độc lập tại phố Hàng Ngang, công bố nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, một sự kiện trọng đại khẳng định độc lập, tự do của dân tộc. Cũng như là hình ảnh mùa thu Ba Đình, nơi diễn ra sự kiện trọng đại này, gợi nhớ đến ngày Quốc khánh 2/9.

Câu 4: Hình ảnh phố phường được tả trong khổ thơ cuối gợi cho em suy nghĩ, cảm xúc gì?

Bài làm chi tiết:

Hình ảnh phố phường được tả trong khổ thơ cuối khiến em cảm thấy tự hào và trân trọng giá trị lịch sử, văn hóa của dân tộc. Cụ thể, việc nhắc đến Bác Hồ và bản sử vàng nước ta không chỉ thể hiện lòng biết ơn sâu sắc đối với công lao của Bác mà còn nhấn mạnh sự đoàn kết và ý chí tự do, độc lập của nhân dân Việt Nam. Bài thơ mang lại cảm xúc tự hào về quá khứ hào hùng, đồng thời khích lệ thế hệ trẻ tiếp tục gìn giữ và phát huy truyền thống tốt đẹp của ông cha.

ĐỌC MỞ RỘNG: SINH HOẠT CÂU LẠC BỘ ĐỌC SÁCH - CHỦ ĐIỂM ĐẤT NƯỚC NGÀN NĂM

(a) Tìm đọc bài thơ, bài ca dao hoặc lời bài hát:

(b) Ghi chép và trang trí Nhật kí đọc sách.

c. Cùng bạn chia sẻ:

- Bài thơ, bài ca dao hoặc lời bài hát đã đọc.

- Nhật kí đọc sách.

- Hình ảnh so sánh hoặc nhân hoá em thích.

- ?

d. Thi “Nghệ sĩ nhí”: Đọc và chia sẻ suy nghĩ, cảm xúc của em về bài thơ, bài ca dao hoặc lời bài hát.

(e) Ghi chép những điều em tâm đắc về một bài thơ, bài ca dao hoặc lời bài hát được bạn chia sẻ.

Bài làm chi tiết:

Bình Ngô đại cáo (Nguyễn Trãi)

Thay trời hành hoá, hoàng thượng truyền rằng.

 

Từng nghe:

Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,

Quân điếu phạt trước lo trừ bạo;

Như nước Đại Việt ta từ trước,

Vốn xưng nền văn hiến đã lâu,

Núi sông bờ cõi đã chia,

Phong tục Bắc Nam cũng khác;

Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập

Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương;

Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau,

Song hào kiệt thời nào cũng có.

 

Cho nên:

Lưu Cung tham công nên thất bại;

Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong;

Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô

Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã

Việc xưa xem xét, chứng cứ còn ghi.

 

Vừa rồi:

Nhân họ Hồ chính sự phiền hà

Để trong nước lòng dân oán hận

Quân cuồng Minh thừa cơ gây hoạ

Bọn gian tà còn bán nước cầu vinh

Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn

Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ

Dối trời lừa dân đủ muôn ngàn kế

Gây thù kết oán trải mấy mươi năm

Bại nhân nghĩa nát cả đất trời.

Nặng thuế khoá sạch không đầm núi.

Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập thuồng luồng.

Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng sâu nước độc.

Vét sản vật, bắt dò chim trả, chốn chốn lưới chăng.

Nhiễu nhân dân, bắt bẫy hươu đen, nơi nơi cạm đặt.

Tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ,

Nheo nhóc thay kẻ goá bụa khốn cùng.

Thằng há miệng, đứa nhe răng, máu mỡ bấy no nê chưa chán,

Nay xây nhà, mai đắp đất, chân tay nào phục dịch cho vừa?

Nặng nề những nỗi phu phen

Tan tác cả nghề canh cửi.

Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội,

Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi!

Lẽ nào trời đất dung tha? Ai bảo thần dân chịu được?

 

Lịch sử nước ta (Hồ Chí Minh)

Dân ta phải biết sử ta,

Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam.

Kể năm hơn bốn ngàn năm,

Tổ tiên rực rỡ, anh em thuận hoà.

 

Hồng Bàng là tổ nước ta.

Nước ta lúc ấy gọi là Văn Lang.

Thiếu niên ta rất vẻ vang,

Trẻ con Phù Đổng tiếng vang muôn đời.

Tuổi tuy chưa đến chín mười,

Ra tay cứu nước dẹp loài vô lương.

An Dương Vương thế Hùng Vương,

Quốc danh Âu Lạc cầm quyền trị dân.

Triệu Đà là vị hiền quân,

Quốc danh Nam Việt trị dân năm đời.

Nước Tàu cậy thế đông người,

Kéo quân áp bức giống nòi Việt Nam.

Quân Tàu nhiều kẻ tham lam,

Dân ta há dễ chịu làm tôi ngươi?

Hai Bà Trưng có đại tài,

Phất cờ khởi nghĩa giết người tà gian,

Ra tay khôi phục giang san,

Tiếng thơm dài tạc đá vàng nước ta.

Tỉnh Thanh Hoá có một bà,

Tên là Triệu Ẩu tuổi vừa đôi mươi,

Tài năng dũng cảm hơn người,

Khởi binh cứu nước muôn đời lưu phương.

Phụ nữ ta chẳng tầm thường,

Đánh Đông, dẹp Bắc làm gương để đời,

Kể gần sáu trăm năm giời,

Ta không đoàn kết bị người tính thôn.

Anh hùng thay ông Lý Bôn,

Tài kiêm văn võ, sức hơn muôn người,

Đánh Tàu đuổi sạch ra ngoài.

Lập nên Triều Lý sáu mươi năm liền.

Vì Lý Phật Tử ngu hèn,

Để cho Tàu lại xâm quyền nước ta.

Thương dân cực khổ xót xa,

Ông Mai Hắc Đế đứng ra đánh Tàu,

Vì dân đoàn kết chưa sâu,

Cho nên thất bại trước sau mấy lần.

 

 

Ngô Quyền quê ở Đường Lâm,

Cứu dân ra khỏi cát lầm ngàn năm.

Đến hồi Thập nhị sứ quân,

Bốn phương loạn lạc, muôn dân cơ hàn.

Động Hoa Lư có Tiên Hoàng,

Nổi lên gây dựng triều đàng họ Đinh.

Ra tài kiến thiết kinh dinh,

Đến vua Phế Đế chỉ kinh hai đời.

Lê Đại Hành nối lên ngôi.

Đánh tan quân Tống, đuổi lui Xiêm Thành.

Vì con bạo ngược hoành hành,

Ra đời thì đã tan tành nghiệp vương.

Công Uẩn là kẻ phi thường,

Dựng lên nhà Lý cầm quyền nước ta.

Mở mang văn hoá nước nhà,

Đắp đê để giữ ruộng nhà cho dân.

Lý Thường Kiệt là hiền thần,

Đuổi quân nhà Tống, phá quân Xiêm Thành.

Tuổi già phỉ chí công danh,

Mà lòng yêu nước trung thành không phai.

Họ Lý truyền được chín đời,

Hai trăm mười sáu năm giời thì tan.

 

Nhà Trần thống trị giang san,

Trị yên trong nước, đánh tan địch ngoài,

Quân Nguyên binh giỏi tướng tài:

Đánh đâu được đấy, dông dài Á, Âu,

Tung hoành chiếm nửa Âu châu,

Chiếm Cao Ly, lấy nước Tàu bao la,

Lăm le muốn chiếm nước ta,

Năm mươi vạn lính vượt qua biên thuỳ,

Hải quân theo bể kéo đi,

Hai đường vây kín Bắc Kỳ như nen.

Dân ta nào có chịu hèn,

Đồng tâm, hợp lực mấy phen đuổi Tàu.

Ông Trần Hưng Đạo cầm đầu,

Dùng mưu du kích đánh Tàu tan hoang,

Mênh mông một dải Bạch Đằng,

Nghìn thu soi rạng giống dòng quang vinh,

Hai lần đại phá Nguyên binh,

Làm cho Tàu phải thất kinh rụng rời.

Quốc Toản là trẻ có tài,

Mới mười sáu tuổi ra oai trận tiền,

Mấy lần đánh thắng quân Nguyên,

Được phong làm tướng cầm quyền binh nhung.

Thật là một đấng anh hùng,

Trẻ con Nam Việt nên cùng noi theo.

Đời Trần văn giỏi võ nhiều,

Ngoài dân thịnh vượng, trong triều hiền minh.

Mười hai đời được hiển vinh,

Đến Trần Phế Đế nước mình suy vi.

 

Cha con nhà Hồ Quý Ly,

Giết vua tiếm vị một kỳ bảy niên.

Tình hình trong nước không yên,

Tàu qua xâm chiếm giữ quyền mấy lâu,

Bao nhiêu của cải trân châu,

Chúng vơ vét chở về Tàu sạch trơn.

 

Lê Lợi khởi nghĩa Lam Sơn,

Mặc dầu tướng ít binh đơn không nàn.

Mấy phen sông Nhị núi Lam,

Thanh gươm yên ngựa Bắc, Nam ngang tàng.

Kìa Tuý Động nọ Chi Lăng,

Đánh hai mươi vạn quân Minh tan tành.

Mười năm sự nghiệp hoàn thành,

Nước ta thoát khỏi cái vành nguy nan.

Vì dân hăng hái kết đoàn,

Nên khôi phục chóng giang san Lạc Hồng.

Vua hiền có Lê Thánh Tông,

Mở mang bờ cõi đã khôn lại lành.

 

Trăm năm truyền đến cung hoàng,

Mạc Đăng Dung đã hoành hành chiếm ngôi.

Bấy giờ trong nước lôi thôi,

Lê nam, Mạc bắc rạch đôi san hà,

Bảy mươi năm nạn can qua.

Cuối đời mười sáu Mạc đà suy vi.

Từ đời mười sáu trở đi,

Vua Lê, Chúa Trịnh chia vì khá lâu.

Nguyễn Nam, Trịnh Bắc đánh nhau,

Thấy dân cực khổ mà đau đớn lòng. 

 

Dân gian có kẻ anh hùng,

Anh em Nguyễn Nhạc nổi vùng Tây Sơn,

Đóng đô ở đất Quy Nhơn,

Đánh tan Trịnh, Nguyễn, cứu dân đảo huyền.

Nhà Lê cũng bị mất quyền,

Ba trăm sáu chục năm truyền vị vương.

Nguyễn Huệ là kẻ phi thường,

Mấy lần đánh đuổi giặc Xiêm, giặc Tàu,

Ông đà chí cả mưu cao,

Dân ta lại biết cùng nhau một lòng.

Cho nên Tàu dẫu làm hung,

Dân ta vẫn giữ non sông nước nhà.

Tướng Tây Sơn có một bà,

Bùi là nguyên họ, tên là Thị Xuân,

Tay bà thống đốc ba quân,

Đánh hơn mấy trận, địch nhân liệt là.

Gia Long lại dấy can qua,

Bị Tây Sơn đuổi, chạy ra nước ngoài.

Tự mình đã chẳng có tài,

Nhờ Tây qua cứu, tính bài giải vây.

Nay ta mất nước thế này,

Cũng vì vua Nguyễn rước Tây vào nhà,

Khác gì cõng rắn cắn gà,

Rước voi dầy mả, thiệt là ngu si.

Từ năm Tân Hợi trở đi,

Tây đà gây chuyện thị phi với mình.

Vậy mà vua chúa triều đình,

Khư khư cứ tưởng là mình khôn ngoan.

Nay ta nước mất nhà tan

Cũng vì những lũ vua quan ngu hèn.

Năm Tự Đức thập nhất niên,

Nam Kỳ đã lọt dưới quyền giặc Tây.

Hăm lăm năm sau trận này,

Trung Kỳ cũng mất, Bắc Kỳ cũng tan,

Ngàn năm gấm vóc giang san,

Bị vua họ Nguyễn đem hàng cho Tây!

Tội kia càng đắp càng đầy,

Sự tình càng nghĩ càng cay đắng lòng.

 

Nước ta nhiều kẻ tôi trung,

Tấm lòng tiết nghĩa rạng cùng tuyết sương.

Hoàng Diệu với Nguyễn Tri Phương,

Cùng thành còn mất làm gương để đời.

Nước ta bị Pháp cướp rồi,

Ngọn cờ khởi nghĩa nhiều nơi lẫy lừng;

Trung Kỳ đảng Phan Đình Phùng

Ra tay đánh Pháp, vẫy vùng một phương.

Mấy năm ra sức Cần Vương,

Bọn ông Tán Thuật nổi đường Hưng Yên,

Giang san độc lập một miền,

Ông Hoàng Hoa Thám đất Yên tung hoành.

Anh em khố đỏ, khố xanh,

Mưu khởi nghĩa tại Hà thành năm xưa,

Tỉnh Thái Nguyên với Sầm Nưa,

Kế nhau khởi nghĩa rủi chưa được toàn.

Kìa Yên Bái, nọ Nghệ An

Hai lần khởi nghĩa tiếng vang hoàn cầu.

Nam Kỳ im lặng đã lâu,

Năm kia khởi nghĩa đương đầu với Tây.

Bắc Sơn đó, Đô Lương đây!

Kéo cờ khởi nghĩa, đánh Tây bạo tàn.

 

Xét trong lịch sử Việt Nam,

Dân ta vốn cũng vẻ vang anh hùng.

Nhiều phen đánh bắc dẹp đông,

Oanh oanh liệt liệt con Rồng cháu Tiên.

Ngày nay đến nỗi nghèo hèn,

Vì ta chỉ biết lo yên một mình.

Để người đè nén, xem khinh,

Để người bóc lột ra tình tôi ngươi!

Bây giờ Pháp mất nước rồi,

Không đủ sức, không đủ người trị ta.

Giặc Nhật Bản thì mới qua,

Cái nền thống trị chưa ra mối mành.

Lại cùng Tàu, Mỹ, Hà, Anh,

Khắp nơi có cuộc chiến tranh rầy rà.

Ấy là nhịp tốt cho ta,

Nổi lên khôi phục nước nhà tổ tông.

Người chúng ít, người mình đông

Dân ta chỉ cốt đồng lòng là nên.

Hỡi ai con cháu Rồng Tiên!

Mau mau đoàn kết vững bền cùng nhau.

Bất kỳ nam nữ, nghèo giàu,

Bất kỳ già trẻ cùng nhau kết đoàn.

Người giúp sức, kẻ giúp tiền,

Cùng nhau giành lấy chủ quyền của ta.

Trên vì nước, dưới vì nhà,

Ấy là sự nghiệp, ấy là công danh.

Chúng ta có hội Việt Minh

Đủ tài lãnh đạo chúng mình đấu tranh

Mai sau sự nghiệp hoàn thành

Rõ tên Nam Việt, rạng danh Lạc Hồng

Dân ta xin nhớ chữ đồng:

Đồng tình, đồng sức, đồng lòng, đồng minh!\

Tìm kiếm google:

Giải chi tiết Tiếng việt 5 CTST, giải Tiếng việt 5 chân trời bài 3: Ngàn lời sử xanh , Giải bài 3: Ngàn lời sử xanh Tiếng việt 5 chân trời sáng tạo tập 2

Xem thêm các môn học

Giải tiếng việt 5 tập 2 CTST mới


Đia chỉ: Tòa nhà TH Office, 90 Khuất Duy Tiến, Thanh Xuân, Hà Nội
Điện thoại hỗ trợ: Fidutech - click vào đây
Chúng tôi trên Yotube
Cùng hệ thống: baivan.net - Kenhgiaovien.com - tech12h.com