Văn mẫu 10 CTST tập 1 bài 3: Viết văn bản nghị luận phân tích, đánh giá một bài thơ.

Đề bài: Viết văn bản nghị luận phân tích, đánh giá một bài thơ. Theo đó, Baivan gửi đến các bạn những bài văn mẫu để các bạn có thể tham khảo. Từ đó, giúp các bạn có những bài văn hay nhất cho riêng mình.

[toc:ul]

Bài văn mẫu 1: Hãy giới thiệu và chia sẻ cảm nhận về một cảnh đjep của quê hương, đất nước mà bạn có dịp đến thăm hoặc biết qua sách vở.

Bài làm

Em sinh ra và lớn lên ở thành phố Sầm Sơn, thuộc tỉnh Thanh Hóa. Từ thành phố Thanh Hóa, dọc theo con đường nhựa rộng, đi khoảng 15 cây số là đến Sầm Sơn. Trên đường vào thành phố, nhìn về phía tay phải là dãy núi Trường Lệ thoai thoải. Gần đến nơi, đón chào du khách là làn gió biển thổi vào mát rượi. Theo con đường nhựa ra bãi biển, một cảnh đẹp tuyệt vời hiện lên trước mắt. Bãi cát trắng mịn màng trải dài tít tắp hàng cây số. Nước biển xanh trong, những làn sóng nhẹ nối nhauxoo vào bãi cát, gợi lên cảm giác lâng lâng khó tả. Ngay đầu bãi tắm chính là ngôi chùa Độc Cước. Theo con đường vòng quanh lên chùa, ta thấy một ngôi chùa cổ kính. Cây đa cổ thụ tỏa cành lá xum xuê che mát cho khách thập phương đến thăm chùa. Mỗi buổi hoàng hôn, được ra tắm mát hoặc dạo chơi trên bãi cát em thấy lòng mình khoan khoái, dễ chịu vô cùng. Em yêu biển quê em, yêu những con người chân chất quê mình.

Bài văn mẫu 2: Hãy giới thiệu và chia sẻ cảm nhận về một cảnh đjep của quê hương, đất nước mà bạn có dịp đến thăm hoặc biết qua sách vở.

Bài làm

Vịnh Hạ Long quê em là một trong những thắng cảnh nổi tiếng của đất nước ta. Nếu đã được đến đây một lần, hẳn ai cũng sẽ nhớ mãi vẻ đẹp hùng vĩ của nơi đây. Vẻ đẹp của vịnh Hạ Long trước hết là ở sự kì vĩ của thiên nhiên. Trên một diện tích hẹp có hàng nghìn hòn đảo nhấp nhô như rồng chầu phượng múa. Mặt vịnh Hạ Long lúc tỏa mênh mông, lúc thu hẹp thành ao, thành vũng, lúc uốn quanh chân đảo thành dải lụa xanh. Bốn mùa Hạ Long phủ lên mình một màu xanh đằm thắm: xanh biếc của biển, xanh lam của núi, xanh lục của trời. Du khách từ khắp nơi trên thế giới về đây để được chiêm ngưỡng vẻ đẹp của vịnh. Chính vì thế, Hạ Long đã hai lần được công nhận là di sản thiên nhiên thế giới. Em vô cùng tự hào vì được là một người con của vùng vịnh Hạ Long tươi đẹp. Em rất yêu quê hương em.

Bài văn mẫu 3: Phân tích Hương Sơn phong cảnh

Bài làm

Hương Sơn phong cảnh là một trong ba bài thơ được Chu Mạnh Trinh viết vào dịp ông đứng trông coi việc trùng tu tôn tạo quần thể thắng cảnh Hương Sơn. Bài thơ viết theo thể hát nói. 19 câu thơ vẽ nên một bức tranh thiên nhiên xinh đẹp và nên thơ về phong cảnh Hương Sơn. Đây là một bài thơ vịnh cảnh và thể hiện tâm sự. Không chỉ vẽ cảnh đẹp, mà còn vẽ lòng người, đó là tâm sự yêu nước, tự hào với cảnh đẹp quê hương đất nước của nhà thơ.

Bốn câu thơ đầu giới thiệu bao quát toàn cảnh Hương Sơn và trực tiếp nêu cái thú ban đầu khi đến với Hương Sơn của tác giả:

“Bầu trời, cảnh bụt,
Thú Hương Sơn ao ước bấy lâu nay
Kìa non non, nước nước, mây mây
Đệ nhất động hỏi là đây có phải?”

Qua 2 câu thơ đầu, Chu Mạnh Trinh đã khái quát cảnh sắc Hương Sơn bằng một nhận xét tinh tế: vừa là danh lam thắng cảnh do tạo hoá ban tặng vừa là công trình tôn giáo. Thể hát nói tạo nên tính nhạc du dương, cảnh đẹp thiên nhiên đượm mùi Thiền, được miêu tả và cảm nhận qua tâm hồn nghệ sĩ tài hoa là nét đặc sắc của bài thơ này. Phong cảnh Hương Sơn được tả từ xa trong tầm mắt của du khách. Giọng thơ trang trọng, từ điệu khoan thai thể hiện du khách vừa đi vừa đứng lại ngắm cảnh và suy ngẫm. Một thiên nhiên mênh mông chan hòa với màu sắc Phật giáo. Hương Sơn là thiên tạo nhưng cũng là cảnh Bụt đã và đang vẫy gọi người đời. Đi lễ hội chùa Hương là thú vui, là niềm ước ao bấy lâu nay của nhiều người.

Cảnh được dựng lên vừa mang nét bình dị, gần gũi,vừa thấm đượm không khí huyền diệu, linh thiêng. Đó là niềm “ao ước” không chỉ trong giây lát mà đã trở thành niềm khát khao “bấy lâu nay” của bao du khách. Câu thơ thứ ba có giá trị tạo hình đặc sắc nhờ cách kết hợp giữa hình thức điệp từ liệt kê và thủ pháp luyến láy “non non, nước nước, mây mây”… Vừa vẽ ra cảnh tượng hùng vĩ của non nước, mây trời Hương Sơn như một bức tranh thủy mặc cổ điển vừa tạo được âm điệu ngân nga, bâng khuâng man mác như cảm xúc của du khách trước vẻ huyền ảo chốn bồng lai tiên cảnh.

Ba khổ tiếp theo miêu tả cảnh đẹp cụ thể của Hương Sơn. Khổ thơ tiếp theo trong bài hát nói gọi là khổ giữa, nhà thơ nói về suối, rừng và tiếng chuông chùa. Ba chi tiết nghệ thuật này đều tô đậm nét đặc trưng của Hương Sơn. Rừng là rừng Mai với trái mơ đặc sản của chùa Hương. Tiếng chim hót thỏ thẻ – chậm rãi, nỉ non – gọi bầy tìm bạn, kết đôi. Bầy chim trời vừa hót vừa mổ trái mơ. Hình ảnh chim cùng trái là nét vẽ độc đáo, tài hoa. Bầy chim mổ trái mơ như khách hàng hương đứng dưới mái chùa cổ trong hang động đang khom lưng khấn vái trước mâm ngũ quả dâng trên bàn thờ Phật. Suối ở đây là suối Yến. Chơi chùa Hương ai cũng phải đi đò dọc bến Đục suối Yến? Đàn cá nơi suối Yến lững lờ bơi từ từ thong thả – như đang cùng du khách thưởng ngoạn cảnh trí.

“Cá nghe kinh” là một hình ảnh sáng tạo, đầy chất thơ. Cảnh sắc Hương Sơn mang màu sắc tôn giáo của Đạo Phật:

“Thỏ thẻ rừng mai chim cúng trái;
Lững lờ khe Yến cá nghe kinh
Thoảng bên tai một tiếng chày kình,
Khách tang hải giật mình trong giấc mộng”

Cảnh vật nhuốm màu sắc của Phật giáo. Những loài chim cá dường như cũng hoà cùng không khí thần tiên. Cá bơi lững lờ như để nghe những bài thuyết pháp của đức Phật, ở đây, cảm hứng tôn giáo không mang màu sắc mê tín dị đoan mà là nhu cầu về mặt tinh thần mang tính tâm linh trong tâm hồn một thi sĩ tài hoa. Khách vãn cảnh Hương Sơn khi nghe tiếng chuông chùa cũng phải thảng thốt:

Vẳng bên tai một tiếng chày kình,
Khách tang hải giật mình trong giấc mộng.

Khách hành hương như trút đi bao nỗi ưu phiền trong cuộc đời tang hải – bể dâu – đầy biến động, nhọc nhằn. Tiếng chuông như ru hồn khách tang hải, giật mình trong khoảnh khắc chìm sâu hơn vào giấc mộng diệu huyền: Thoảng bên tai một tiếng chày kình / Khách tang hải giật mình trong giấc mộng. Câu thơ cho ta nhiều thú vị về nhạc điệu du dương. Hai thanh bằng có  âm vang ngân nga, ngọt ngào vần với nhau: kình – mình tạo nên nhạc điệu, âm hưởng trầm bổng của vần thơ.Chỉ một tiếng chày kình êm ái trầm bổng nơi chùa Hương cũng đủ rửa sạch bụi trần làm thanh thản, thảnh thơi tâm hồn khách tang hải. Chu Mạnh Trinh không chỉ tạo nên những vần thơ có nhạc có họa khi tả chim, tả cá, tả tiếng chuông chùa mà còn thể hiện sự kì diệu của hồn cảnh vật Hương Sơn Nam thiên đệ nhất động.

Hai khổ thơ 3 và 4 tiếp theo là hai khổ đầu của bài hát nói. Hương Sơn có biết bao cảnh đẹp nên thi sĩ phải sử dụng khổ dôi để diễn tả cảm xúc và miêu tả cảnh vật. Du khách như đi dần vào thế giới Hương Sơn, nơi bầu trời cảnh Bụt. Chu Mạnh Trinh dùng biện pháp tu từ liệt kê và điệp từ để tả, để vẽ, để tạo nên nhạc điệu trầm bổng của vần thơ. Hai cặp song hành với bức tranh tứ bình nối tiếp hiện ra. Bốn chữ này vang lên như bốn nốt nhấn của khúc ca:

“Này suối Giải Oan, này chùa Cửa Võng
Này am Phật Tích, này động Tuyết Quynh”

Cách phối thanh bằng, trắc trong hai câu thơ này cũng cho thấy bút pháp điêu luyện, tài hoa của tác giả để làm nổi bật tính nhạc của bài hát nói. Hương Sơn có rất nhiều di tích thắng cảnh nhưng Chu Mạnh Trinh chỉ giới thiệu bốn cảnh điển hình, chỉ gợi ra mà không tả. Suối Giải Oan, chùa Cửa Võng, am Phật Tích, động Tuyết Quynh mỗi di tích mỗi thắng cảnh đều đem đến cho ta nhiều liên tưởng và hướng thiện lòng người hành hương. Ai cũng cảm thấy mình đang cùng nhà thơ chan hòa vào cảnh Bụt, được sống lại giây phút mà chỉ có bầu trời, cảnh Bụt nơi Hương Sơn mới ban phát cho mình. Cảm hứng tín ngưỡng về đạo Phật được thể hiện qua những vần thơ nói về suối, chùa, am, động như mời gọi du khách, lắng nghe tiếng chuông chùa xa đưa lại mà ngạc nhiên, mà ngỡ ngàng…

Tả hang động, Chu Mạnh Trinh dùng những từ ngữ đầy màu sắc, giàu tính tượng hình. Cảnh sắc hang động ấy được tạo dựng nên bởi hóa công và tài trí của con người:

“Nhác trông lên ai khéo vẽ hình
Đá ngũ sắc long lanh như gấm dệt”

Những liên tưởng so sánh về nhũ đá trong các hang động biểu lộ niềm tự hào của nhà thơ về đất nước và con người Việt Nam: yêu đời, yêu tạo vật, biết đem bàn tay khéo léo tô điểm cảnh trí non sông. Hương Sơn có đường lên trời có hang xuống âm ti địa ngục dẫn khách hành hương du nhập vào thế giới siêu thoát. Cảnh được tả từ xa tới gần, từ khái quát đến cụ thể, từ cao xuống thấp, từ thấp lên cao, huyền ảo.

“Thăm thẳm một hang lồng bóng nguyệt.
Gập ghềnh mấy lối uốn thang mây”.

Tiếp theo là những câu thơ giàu chất họa, chất nhạc với các từ láy gợi hình long lanh, thăm thẳm, gập ghềnh vẽ ra vẻ đẹp mộng ảo, thần tiên huyền bí của “Nam thiên đệ nhất động". Các từ láy: thăm thẳm, gập ghềnh gợi tả độ sâu, nét lượn cheo leo, khúc khuỷu của sườn non, hang động mà du khách lần bước vượt qua để hòa nhập với thiên nhiên, để chiếm lĩnh cái hồn của cảnh bụt. Phép đảo ngữ đã làm nổi bật cái độ sâu thăm thẳm của hang động, cái nét gập ghềnh của những sườn non, những thang mây cao vút. Có hang sâu thăm thẳm, lại có lối uốn gập ghềnh, có bóng nguyệt lồng hang, lại có thang mây uốn lối… Câu thơ mềm mại uyển chuyển, mỗi một chi tiết nghệ thuật là một nét vẽ, nét khắc tài hoa. Cảnh đẹp mang tình người và hồn người, đáng yêu và đáng nhớ.

“Chừng giang sơn còn đợi ai đây,
Hãy tạo vật khéo ra tay xếp đặt”.

Con người đã tìm thấy niềm vui trong thiên nhiên, thiên nhiên cũng như hòa quyện vào con người, con người lại càng góp phần điểm tô cho thiên nhiên, cảnh sắc. Vậy mới nói vậy thật mà ảo mộng như cõi tiên, tuy đẹp như chốn bồng lai mà lại chân thực, bình dị đến từng lá cây, ngọn cỏ!. Bởi thế mới nhớ, mới lại càng yêu. Tình yêu thiên nhiên cũng là tình yêu quê hương đất nước. Trong những câu thơ trên, tác giả đã viết: ai khéo vẽ hình, đến đây lại nói: hay tạo hóa khéo ra tay xếp đặt. Phải tìm hiểu lịch sử, phải biết Chu Mạnh Trinh là người từng đem tiền của, công sức, tài năng ra trùng tu chùa Thiên Trù, tạc tượng đúc chuông… mới cảm nhận được một chữ” ai” đáng tự hào kín đáo đã hai lần xuất hiện trong bài thơ này.

Ba câu cuối gọi là khổ xếp của bài hát nói. Câu cuối chỉ có sáu từ gọi là câu keo. Luật thơ đã qui định chặt chẽ như vậy. Không gian nghệ thuật được miêu tả theo bước chân xa dần của khách tang hải. Khách tang hải vừa chậm rãi đi vừa ngắm cảnh, tay lần tràng hạt miệng nam mô, lưu luyến chẳng muốn rời, đến mức phải thốt lên: “càng trông phong cảnh càng yêu!” Cách nói mới hồn nhiên làm sao, mới chân thật làm sao! giản dị nhưng giàu chất biểu cảm:

“Lần tràng hạt niệm nam mô Phật
Cửa từ bi công đức biết là bao!
Càng trông phong cảnh càng yêu”

Không khí thành kính trang nghiêm phủ lên hai câu thơ trước, khiến người đọc càng thấy chân thật như đang thấy được hình ảnh một đoàn khách thập phương vừa đi vừa niệm nam mo, tay lần tràng hạt, tĩnh tâm theo tiếng chuông chùa, nổi bật giữa bạt ngàn hương sắc Hương Sơn huyền ảo. Câu thơ cuối như một tiếng thổ lộ, lại vừa giống một tiếng reo cảm thán. Qua đó không chỉ nâng cao vẻ đẹp hoàn mỹ của phong cảnh Hương Sơn, mà còn bộc lộ được tình yêu, niềm tự hào dân tộc của “con rồng cháu tiên” với non sông gấm vóc.

“Hương Sơn phong cảnh” là một trong những tác phẩm hay nhất viết về đề tài cảnh sắc thiên nhiên. Đặc biệt, ở bài thơ này, không những chỉ vẽ lên bức tranh danh lam thắng cảnh đẹp tựa chốn bồng lai bao người mơ ước, mà còn khéo léo thể hiện lòng yêu thiên nhiên, yêu non sông đất nước, tự hào, tự tôn dân tộc của Chu Mạnh Trinh. Cảnh thiên nhiên đẹp hài hòa khi kết hợp với bàn tay của con người, sự xuất hiện của con người. Con người đứng giữa thiên nhiên đẹp kỳ vĩ mà vẫn không hề thấy xa lạ, choáng ngợp. Hơn nữa còn qua đó mà càng thêm yêu, càng thêm muốn cống hiến, muốn giữ gìn. Quả là một bài thơ vừa đẹp, lại vừa hay!

Bài văn mẫu 4: Cảm nhận bài Thơ duyên

Bài làm

Nói đến thơ Xuân Diệu là nói đến những cảm xúc tột cùng mãnh liệt, những yêu thương tột độ đắm say, sôi nổi. Bởi vậy, đọc tập Thơ thơ, người đọc vừa ngạc nhiên vừa thú vị khi gặp một bài thơ rất dịu dàng, dịu từ ý đến lời: Thơ duyên.

   Xét cho cùng. Thơ duyên cũng là một bài thơ về tình yêu, nhưng là tình yêu theo nghĩa rộng lớn, tình yêu đối với cuộc sống, đối với con người, đối với mọi vẻ đẹp, sự hòa hợp ở đời. Đây là thơ về cái duyên, cái hài hòa tuyệt vời mà một ngày kia nhà thơ bỗng nhận ra, giữa vũ trụ với cuộc đời, giữa đất trời với cây cỏ muông thú, giữa thời gian với không gian, giữa vạn vật với con người.

   Điều ấy không phải bất kì lúc nào củng xảy ra nhưng đã có lần xảy ra. Lúc ấy, nhìn vào bầu trời đến mặt đất, nhà thơ cũng chỉ nhìn thấy cái đẹp:

   Chiều mộng hoà thơ trên nhánh duyên. 
   Cây me ríu rít cặp chim chuyền 
   Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá, 
   Thu đến nơi nơi động tiếng huyền

   Chiều mộng hoà thơ trên nhánh duyên. Quả thật đây là lúc mà cả không gian lẫn thời gian đều thi nhau mà hiện ra trong vẻ tuyệt mĩ của mình. Bởi vậy mối quan hệ  nhánh duyên là một mối quan hệ tuyệt mĩ: hòa thơ. Từ mối liên hệ ấy, mọi điều đều trở nên hãi hòa tuyệt đẹp. Cặp chim đang chuyên cành hót vang ríu rít. Tiếng ríu rít hình như không chỉ vang lên từ cặp chim chuyền mà lên cả từ cây me nữa. Muôn lá vốn xanh, bầu trời vốn xanh, cả trời cùng muôn lá trở nên xanh hơn, xanh đến tuyệt đẹp: xanh ngọc. Trong khổ thơ, có đường nét, dáng hình, có cả màu sắc, âm thanh, mà điều nào cũng đến tột cùng của cái duyên, cái thơ, cái đẹp, cái đáng yêu. Kết thúc khổ thơ, Xuân Diệu phát hiện ra:

   Thu đến nơi nơi động tiếng huyền

   Có một điều gì đó thật là huyền bí, thật là đẹp đẽ, chi phối cả vũ trụ lúc này, tạo nên mọi vẻ đẹp lúc này. Nó như một âm thanh không nghe thấy được nhưng huyền diệu vô cùng, có sức mạnh vô cùng. Lắng nghe được tiếng huyền ấy của vũ trụ, nhà thơ nhìn vào cảnh vặt xung quanh mình: Tất cả những điều bình thường bỗng trở nên khác thường đẹp hơn, đáng yêu hơn, có tình hơn, hòa hợp hơn:

   Con đường nho nhỏ gió xiêu xiêu
   Là lá cành hoang nắng trở chiều
   Buổi ấy lòng ta nghe ý bạn
  Lần đầu rung động nỗi thương yêu.

   Con đường như nhỏ lại để trở nên đẹp hơn. Ngọn gió chiều thổi se sẻ hơn, nhưng nhẹ hơn bởi ngọn gió như ý thức được việc mình đang làm. Những cành hoang lả xuống trước ngọn gió xiêu xiêu nhưng cũng tự mình lả xuống để hòa hợp cùng ngọn gió. Từ cảnh vật ấy, nhà thơ nhìn lại chính lòng mình. Hóa ra điều kì diệu ấy cũng đang xẩy ra đến trong tâm hồn con người. “Lòng thu ý bạn”, đây là điều chỉ mới xảy ra lần thứ nhất trong đời. Một sự lắng nghe nhưng không lắng nghe bằng tai mà nghe bằng lòng người nói thà không nói bằng lời mà lại nói bằng ý, cho nên lòng ta nghe ý bạn. Đây là sự cảm thông, một sự hòa hợp tự nhiên của tâm hồn, không muốn, không đinh, mà vẫn xảy ra. Và kết quả của điều xảy ra ấy là một nỗi thương yêu. Xuân Diệu rất tinh tế khi dùng mấy tiếng “nỗi thương yêu" để xác định tâm trạng của mình. Đây không phải là yêu, là tình yêu, mà là thương yêu, một tình cảm về sự hòa hợp trọn vẹn, lại không phải là tình mà là nòi, một nỗi niềm xúc động, rung động cua trái tim, không dành riêng cho một đối tượng cá biệt nào cả, cũng không vì một mục đích ngẳn ngùi hay tư lợi nào. Từ nỗi thương yêu ấy nhà thơ muốn đi đến tột cũng tình cảm của mình. Lại cũng xảy ra điều rất lạ:

   Em bước điềm nhiên không vướng chân, 
   Anh đi lững thững chẳng theo gần, 
   Vô tâm - nhưng giữa bài thơ dịu, 
   Anh với em như một cặp vần.

  Đã "điềm nhiên" lại còn “không vướng chân” hình như nhà thơ dùng từ hơi thừa thãi, nhưng đó chính là cách để nhà thơ muôn nhấn mạnh vào tâm trạng điềm nhiên, hoàn toàn vô tư của con người. Vì vậy với câu thơ tiếp theo, đã "đi lững đứng" lại còn "chẳng theo gần”. Rồi sang câu thơ mở đầu tác gỉa lại nhấn mạnh: Vô tâm. Nghĩa là giữa hai con ngươi, chưa một sự chuẩn bị nào, một mong muốn khát khao nào. Thế mà cái thu phai đón vần cứ đến, đến như một quy luật, như một lẽ binh thường của trời, trung cái khoảng không gian và thời gian đặc biệt của buổi chiều hôm nay

   Anh và em như một cặp vần

   Một cặp vần, ấy là sự hòa hợp trọn vẹn của ngôn từ và âm thanh để tạo nên cái điều kì diệu trong đời được gọi là thơ. Sư hòa hợp giữa hai tâm hồn ở đây là thư thế, trọn vẹn đến độ hoàn toàn. Xuân Diệu còn nhấn mạnh đây là sự hòa hợp của một cặp vần trong "một bài thơ dịu”. Sự hòa hợp ấy được nâng lên đến độ tuyệt dối.

   Từ sự thay đổi của lòng mình, nhà thơ nhìn ra vạn vật xung quanh. Tất cả đều đổi thay như được chinh phục bởi một sức manh thần diệu. Vạn vật không còn vô tư, vô cảm nữa, vạn vật cũng có cảm xúc, có linh hồn, cũng biết yêu thương, xao động như con người. Từ một đám mây, một cánh cò, một cánh chim, một bông hoa, một giọt sương, tất cả đều có sự trăn trở bên trong:

   Mây biếc về đâu bay gấp gấp
   Con cò trên ruộng cánh phân vân
   Chim nghe trời rộng giang thêm cánh
   Hoa lạnh chiều thưa sương xuống dần

  Những đám mây đã bay hàng ngàn năm trong thơ cổ Việt Nam, trong thơ Đường, thơ Tống, nhưng chưa bao giờ có những đám mây “bay gấp gấp" như trong thơ Xuân Diệu. Những con cò đã từng bay hàng ngàn năm trên đồng ruộng Việt Nam, trong ca dao và thơ Việt Nam, chưa bao giờ có đôi cánh phân vân như trong thơ Xuân Diệu. Đây là cái náo nức, phân vân của một thế hệ mới, thế hệ các nhà thơ hiện đại, các nhà thơ trong phong trào Thơ Mới.

   Thế là nhà thơ đang ngắm nghía cả bề rộng và bề sâu của trời đất, của vạn vật xung quanh, đã cảm nhận cá bề sâu làn bề rộng của lòng mình. Tự nhiên, như một sự tổng hợp tất yếu, sự kì diệu cuối cúng lại xảy ra nơi lòng con người:

   Ai hay tuy lặng bước thu êm
  Tuy chẳng búng nhăn gạ tô niềm
    Trông thấy chiều hôm ngơ ngẩn vậy
   Lòng anh thôi đã cưới lòng em

Hình như bắt đầu vốn chàng có gì cả, không có một vật muốn chủ quan nào, cũng chẳng có một sự môi giới khách quan nào tác động. Con người bước đi êm ả giữa mùa thu. Chính nhà thơ cũng đã lấy làm lạ: Buổi chiều này nào có gì đâu! Nhà thơ gọi cái buổi chiều này là buổi “chiều hôm ngơ ngẩn”. Ngơ ngẩn nghĩa là thế nào? Nghĩa là rất vớ vẩn, rất bình thường, chẳng có gì đặc biệt đáng người ta quan tâm. Buổi chiều đẹp đến ngơ ngẩn lòng người'. Cũng không biết nữa, chỉ biết làng cái buối chiều ấy tạo nên sự lạ lùng:

   Lòng anh thôi đã cưới lòng em

   Anh cưới em! Không phải, lòng anh cưới lòng em. Từ “cưới" mà Xuân Diệu dùng ở đây, độc đáo đến lạ lùng, mới mẻ đến vô lí. Ngẫm nghĩ ra ta lại thấy nhà thơ có lí, lòng anh cưới lòng em, đó là sự hòa hợp hai tấm lòng, hai tâm hồn đến độ trọn vẹn. tuyệt đối, sự hòa hợp trong mức dộ cao nhất của cảm nhận về hạnh phúc. Từ “thôi” trong câu thơ này cũng rất lạ. “Thôi' nghĩa là thế nào? Nghĩa là đành vậy, đành phải chấp nhận như vậy, không còn cách nào khác, không thể từ chối được, không thế lẩn tránh được. Như vậy, cái việc lòng anh cưới lòng em, cái việc lòng anh hòa hợp với lòng em là việc tự nhiên, như của trời đất, con người không thể tạo ra, con người không thế chối bỏ.

   Sao gọi là “thơ duyên"? Duyên vốn được coi như sự hòa hợp mà trời đất tạo ra. Xưa nay đã từng có chuyện:

   Hữu duyên thiên lí năng tương ngộ
   Vô duyên đối diện bất tương phùng

   Cái duyên trong Thơ duyên của Xuân Diệu chính là cái duyên ấy, nhưng còn bao hàm một cái duyên lớn hơn, cái duyên của vũ trụ, của đất trời, của cuộc sống nói chung. Cái duyên ấy không phải lúc nào cũng có nhưng khi đã có thì nó tạo ra cho cuộc sống sự hài hòa đẹp vô cùng, kì diệu vô cùng.

   Không thể nói được thơ Xuân Diệu nghệ thuật vị nghệ thuật. Thơ Xuân Diệu là tinh yêu cuộc sống, nó khiến ta biôt yôu cuộc sống, biết quý trọng mọi vẻ đẹp của cuộc đời. Tất nhiên, khi biết yêu cuộc đời, con người ta phải biết góp phần làm cho cuộc đời trở nên đẹp hơn.

Bài văn mẫu 5: Nét độc đáo trong cảm nhận và miêu tả thiên nhiên mùa thu của Xuân Diệu

Bài làm

Nét độc đáo trong của Xuân Diệu trong việc miêu tả mùa thu ở Thơ Duyên chính là việc nhìn, tả cảnh vật qua con mắt của một tâm hồn dạt dào cảm xúc, biết rung động trước tình yêu. Thiên nhiên, vốn dĩ không phải là hiện tượng mới mẻ trong thơ, nếu không nói đã là thi liệu có từ rất lâu đời trong văn học. Các nhà thơ trung đại cũng đã có thủ pháp tả cảnh ngụ tình, hoặc đều hướng lòng mình vào vạn vật để soi rọi, để tỏ bày. Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Nguyễn Khuyến, Tú Xương, Hồ Xuân Hương, Bà huyện Thanh Quan..., đều đã có nhiều bài thơ hay trong đó mượn cảnh để nói tình rất đặc sắc. Tuy nhiên, đến với Thơ duyên của Xuân Diệu, ta lại cảm nhận được thiên nhiên với những sắc màu khác nhau, những tâm trạng với niềm vui và nỗi buồn đều mới, mang một nét gì đó trẻ trung, sôi nổi nhưng vẫn có một nét trầm lặng.

Như cảnh chiều thu sinh động tràn ngập âm thanh và sắc màu sự sống ở khổ đầu

"Chiều mộng hoà thơ trên nhánh duyên

Cây me ríu rít cặp chim chuyền

Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá

Thu đến - nơi nơi động tiếng huyền."

Dường như thi nhân không nhìn trời thu bằng mắt mà đang nhìn bằng hồn vía say sưa, nên cảnh vật cứ lung linh trong vẻ duyên dáng đa tình mà lâng lâng cảm xúc: "con đường nhỏ nhỏ, gió xiêu xiêu; lả lả cành hoang, nắng trở chiều", để từ "cái cớ" thiên nhiên ấy, nhà thơ dẫn người đọc vào câu chuyện tình tứ rất duyên, dẫu chưa phải là chuyện tình yêu đôi lứa.

Hay như cảnh chiều tà ở khổ bốn

"Mây biếc về đâu bay gấp gấp

Con cò trên ruộng cánh phân vân

Chim nghe trời rộng giang thêm cánh

Hoa lạnh chiều thưa sương xuống dần"

Đến khổ thơ này Xuân Diệu lại bày tỏ một nỗi bồi hồi, thương nhớ, xao xuyến. Mây bay gấp gấp, chim sải cách rộng bay. Tất cả tạo nên một bức tranh chiều ta qua rung cảnh của nhà thơ: hối hả nhưng vẫn mang màu sắc của mùa thu. Chỉ la xao xuyến, bồi hồi hơn.

Bài văn mẫu 6: Phân tích bài thơ Lời má năm xưa

Bài làm

Nếu phải chọn ra ý nghĩa cao cả nhất của văn chương, thì đó là việc văn chương đã cống hiến cho cuộc đời này những câu chuyện đẹp đẽ về con người và cuộc sống. Những rung cảm mạnh mẽ và những thông điệp đầy ý nghĩa qua lăng kính của cảm xúc trong tâm hồn người nghệ sĩ.

Tất cả những giá trị vĩnh cửu đó đã thăng hoa cùng ngòi bút của nhà văn Trần Bảo Định qua đoạn trích Lời má năm xưa. Đến nay vẫn còn vấn vương trong lòng biết bao độc giả bởi những câu từ đầy ý nghĩa.

Văn bản Lời má năm xưa có cốt truyện đơn giản, xoay quanh những vấn đề thường thấy và trải qua đối với mỗi con người chúng ta và cả tác giả. Đây là một văn bản đầy ý nghĩa qua những lời dạy bảo của người má và cả nỗi ân hận day dứt của tác giả từ ngày ấy cho đến bây giờ.

Tác phẩm đã bày tỏ nỗi ân hận của nhân vật xưng “tôi” khi kể lại câu chuyện 70 năm trước đã bắn bị thương một con chim thằng chài. Khi đi sâu vào phân tích văn bản,ta có thể thấy văn bản ý nghĩa đến nhường nào.

Mở đầu đoạn trích tác giả đã giới thiệu cho chúng ta những câu hò xuất xứ từ làng quê thân thương của mình : Ở quê tôi, trai gái đều thuộc lòng câu hò :

Chim thằng chài có ngày mắc bẫy
Em cho anh hay anh hãy tránh xa
Mẹ cha không thể chịu hòa
Em đâu dám cãi để mà theo anh

Có thể thấy đây là câu hò mang đậm tính chất về tình yêu đôi lứa, Chim thằng chài hay còn gọi là chim bói cá, một loài chim sống đơn giản ; thường lao đầu xuống mặt nước hoặc bay trên mặt nước để bắt những con mồi.trong câu hò trên mà tác giả trích dẫn “ chim thằng chài có ngày mắc bẫy” với tập tính săn bắt đó của mình thì loài chim ấy rất dễ bị mắc bẫy do con người hoặc do những kẻ thù tạo ra.

Nhưng đã có lời nhắc nhở của “Em” em cho anh hay anh hãy tránh xa những mối nguy hiểm đó để khỏi mắc bẫy của kẻ thù. Vì mẹ vì cha nên em chẳng thể nào dám bỏ theo anh. Đó là những câu ca dao mang đậm tính chất tình yêu đôi lứa nhưng cũng không quên xen kẽ về tình cảm gia đình.

Với những câu văn của tác chúng ta có thể hiểu thêm phần nào về loài chim bói cá. Một loài chim khiến cho chúng ta có thể thấy cảm động với cuộc sống của chúng. Chúng chẳng có mẹ ấp trứng, chẳng có mẹ để nuôi dưỡng và săn sóc, chúng tự thích nghi với môi trường và tự rèn luyện kĩ năng sống. Khi lớn lên chúng kết giao với đồng loại và tự bảo vệ cho nhau.

Chúng nhường mồi cho bạn tình hoặc đồng loại thiếu cái ăn. Và nhường mặt nước đầy tôm cá cho những thằng chài già yếu bệnh tật.

Khi chúng ta đọc đến đây, có lẽ sự mạnh mẽ, sự tự lập của chúng khiến cho ta trầm trồ thán phục, bởi chỉ là một loài chim nhưng chúng chẳng cần vòng tay của mẹ chẳng cần ai dạy dỗ mà tự mình lớn lên và hoàn thiện. Không những thế chúng còn là một loài chim tình cảm và cũng có cảm xúc yêu đương như con người chúng ta.

Quay ngược thời gian, trở về thời thơ ấu của tác giả, tác giả đã ngậm ngùi chia sẻ lại câu chuyện cũ với biết bao xúc cảm. Khi còn là một đứa trẻ, ông cùng với tụi bạn đi rình mò dùng cái ná thun với những viên đạn được vo tròn bằng đất sắt để bắn vào những con chim bói cá, có con may mắn thì bị thương còn không thì chết.

Một loài chim sống tình cảm đáng trân quý, một loài chim như vậy ấy vậy mà lại bị những con người vô thức làm hại, khi nghĩ lại những chuyện ấy tác giả cảm thấy thật trớ trêu thay, cảm giác hối hận, ray rứt lại bắt đầu dằn xé trong tâm trí ông. Chim rình cá, người rình chim, cớ sự từ cái rình theo cuộc.

Chắc hẳn mỗi chúng ta ai cũng mẹ, và chính mẹ là người đã dạy dỗ chúng ta mỗi khi mắc sai lầm. Và tác giả cũng thế ; bởi chỉ sau khi nghe câu hỏi của má: “Sao con cướp đi sự sống của nó? Rồi, ai cướp sự sống của con?” đã thức tỉnh nhân vật tôi. Người thực sự cứu chim thằng chài chính là người má :”Tôi bị má đánh đòn khi bắn thằng chài rơi bên sông….Má bảo tôi ra bến vớt nó lên’‘.

Sau đó là một loạt hành động của nhân vật tôi chăm sóc và cứu sống chim thằng chài. Khi người mẹ của ông nhìn thấy chính tay ông bắn thằng chài rớt bên sông, ông bị má đánh đòn. Với câu nói nhẹ nhàng sâu lắng của người má : “ sao con cướp đi sự sống của nó, rồi ai cướp đi sự sống của con” chính câu nói ấy đã khiến tác giả cảm thấy ân hận và ray rứt thâm tâm đến tận bây giờ.

Với những lời của người mẹ, nhân vật tôi đã làm theo những lời chỉ bảo ấy, ông đem về nhà, trị thương băng bó cho nó. Nhưng trớ trêu thay khi ông đút cá cho nó, nó lại không ăn ; cá chính là món mồi mà nó vẫn mạo hiểm đi săn bắt mỗi ngày ấy vậy mà giờ đây nó lại làm ngơ trước miếng mồi ấy, đút thứ khác nó cũng không thèm ăn, phải chăng đây chính là sự tức giận trong nó, nó đang trầm trách rằng tại sao lại cướp đi sự sống của nó chăng.

Chính vì điều đó đã làm cho nhân vật tôi hối hận và bối rối hơn bao giờ hết, giá như lúc đó mình không bắn nó thì có lẽ giờ nó đã được tự do bay lượn cùng với đồng loại chứ không phải là bị thương tật và nằm ngay đây.đến tận mấy ngày sau vết thương đã lành nhưng thể xác của nó cũng không như trước, nó ốm nhôm và không thể bay được có lẽ vì đuối sức.

Có thể thấy chẳng có gì thiêng liêng bằng tình mẫu tử và hình ảnh người má của nhân vật tôi – người đã thực sự cứu sống chú chim thằng chài trong cơn nguy kịch với sự lương thiện, thông minh, sâu sắc và thấu hiểu của một người mẹ đã thức tỉnh đứa con ngây dại của mình.

Trở về với câu chuyện cũ của tác giả, khi ông đem thằng chài để dưới gốc mận gần cầu nước, nó được những thằng chài khác, nó được những thằng chài khác bu quanh đút mồi, nó ăn một cách ngon lành, ngon đến nỗi khiến tác giả cũng phải thèm theo.

Qua hình ảnh của tác giả, một lần nữa đã gợi lên cho chúng ta thấy lối sống tình cảm keo sơn đùm bọc của những con chim bói cá mãnh liệt đến nhường nào. Chỉ là một loài chim nhưng lại sống tình cảm như tác giả đã từng nghĩ đây là một loài “thú điện nhơn tâm” tuy hình hài là một con chim, gương mặt là một con chim nhưng lòng dạ tấm long trái tim là của một con người, thật sâu sắc và ý nghĩa đến nhường nào.

Quay lại với thực tại, quên đi câu chuyện cũ kia, nhưng đã gần bảy mươi năm kể từ khi xảy ra câu chuyện ấy, vậy mà giờ đây khi nhắc lại câu chuyện cũ ông không sao không thể dứt ra được sự hối hận và bối rối mỗi khi nhớ lại chuyện cũ, và đặc biệt không thể nào quên được câu hỏi của má “Sao con cướp đi sự sống của nó? Rồi, ai cướp sự sống của con?”.

Câu hỏi của người má: “Sao con cướp đi sự sống của nó? Rồi, ai cướp sự sống của con?” được lặp lại hai lần trong văn bản. Việc lặp lại câu hỏi ấy vừa góp phần làm nổi bật tính chất của câu chuyện bởi đây là chuyện được kể lại, vừa nhằm nhấn mạnh tâm trạng hối hận, nỗi nhớ không quên được về lời má dặn của nhân vật tôi.

Đây vừa như lời trách móc vừa như một lời dạy bảo: tại sao con lại làm thế với con chim ? Nó không có tội gì, không làm gì đến con. Con phải hiểu rõ. Người má như muốn dạy nhân vật chính sự thấu hiểu, lòng thương cảm đối với loài vật như con chim thằng chài

Những từ ngữ, câu văn thể hiện trực tiếp tình cảm, cảm xúc của nhân vật tôi: Tôi hối hận và bối rối, tôi tần ngần nhìn bầu trời xanh, tôi không thể nào quên câu nói của má, tận đáy lòng, tôi không thể dứt ra được sự hối hận và bối rối. Với thủ pháp liệt kê một số từ ngữ, câu văn thể hiện trực tiếp tình cảm, cảm xúc của nhân vật “tôi”: “tôi hối hận và bối rối”; “tần ngần”; “hối hận và bối rối”.

Có thể thấy tác phẩm là những chuỗi cảm xúc đầy ý nghĩa với bài học đầy nhân văn của tác giả muốn truyền tải đến cho mỗi chúng ta, hãy yêu quý, bảo vệ thiên nhiên, động vật, đừng làm gì tổn hại đến chúng bởi sẽ có ngày nào đó chúng ta cảm thấy ray rứt và hối hận mỗi khi nhớ đến dù những chuyện đã qua đi rất lâu. Đây cũng là bài học mà người mẹ muốn dạy cho nhân vật chính và nhân vật chính ấy lại muốn truyền tải đến cho bao bạn đọc.

Giữa con người và thiên nhiên, loài vật có mối quan hệ có thể tác động lên nhau. Ở đây chính là cái cảm xúc. Cảm xúc của con người sẽ quyết định cái nhìn, hành động của họ đối với thiên nhiên, loài vật. Con vật cũng vậy, cảm xúc của chúng sẽ được quyết định từ hành động của con người. Ví dụ như là việc con chim thằng chài ”vươn vai, hót mấy tiếng như muốn cảm ơn tôi”

Con người, thiên nhiên và cảnh vật là những yếu tố có mối quan hệ gần gũi với nhau bởi tất cả đều luôn hiện hữu xung quanh nhau. Bởi vậy, không có lí do gì để con người phá vỡ mối quan hệ đó. Hãy đón nhận và xem đó giống như một đại gia đình, và những người trong gia đình luôn biết yêu thương và không hãm hại nhau,con người và thiên nhiên đều có quyền được sống, quyền bảo vệ sự sinh tồn của chính mình. Con người không thể tự cho mình quyền tước đoạt sự sống của thiên nhiên, loài vật.

Bằng ngòi bút của mình, ông đã kể lại câu chuyện cũ với những xúc cảm của mình Văn bản đã bộc lộ tâm trạng ăn năn, hối hận và day dứt của nhân vật “tôi” khi nhớ lại hành động mình đã làm với chú chim thằng chài, từ đó cho thấy cậu bé là một người giàu tình cảm, giàu lòng trắc ẩn và lương thiện.

Văn bản gợi lại câu chuyện tuổi ấu thơ của một chàng trai khi còn là một cậu bé đã lỡ bắn một con chim thằng chài bên bến sông.

Nhờ có sự khuyên bảo của má, anh đã vớt nó về, băng bó chữa trị vết thương rồi cố gắng cứu sống nó, nhưng sự áy náy và ân hận về hành động này vẫn còn và đi theo anh đến mãi sau này.Văn bản cho thấy mối quan hệ giữa con người với thiên nhiên là mối quan hệ gần gũi, gắn bó thân thiết và khuyến khích con người nên biết gìn giữ, bảo vệ môi trường.

Cuộc đời là nơi xuất phát và cũng là nơi đi tới của văn học thế nên, Andersen đã từng nói : “không có câu chuyện cổ tích nào đẹp hơn câu chuyện do chính cuộc sống mình viết ra”. Quả đúng như vậy, nhà văn Trần Bảo Định với những trải nghiệm của riêng mình đã phát hiện ra cái đẹp ở chỗ không ai ngờ tới, tìm ra cái đẹp kín đáo bị che lấp để cho người đọc có thể ngắm nhìn và thưởng thức thông qua tác phẩm của mình.

Và đoạn trích lời má dặn chính là câu chuyện đẹp đẽ về thiên nhiên cũng như lời thủ thỉ của người mẹ. Tác phẩm lời má dặn để lại những ấn tượng trong lòng bạn đọc, rồi vượt lên mọi giới hạn của thời gian không gian để mãi trường tồn và đọng sâu trong lòng người đọc.

Bài văn mẫu 7: Viết đoạn văn khoảng 200 chữ thể hiện niềm giao cảm với thiên nhiên và con người

Bài làm

Thiên nhiên chính là những sự vật có sẵn ở tự nhiên bao quanh con người mà chúng ta nhìn thấy hằng ngày: nước, đất, không khí, cây cối,.. Con người chúng ta sinh sống và tồn tại trong thiên nhiên, thiên nhiên cũng giao hòa cùng con người. Đó là một mối quan hệ gắn bó khắng khít, chặt chẽ, tương hỗ cho nhau. Thiên nhiên mang lại sự sống cho con người, là nơi con người sinh sống, phát triển; là một nguồn tư liệu bất tận trong các sáng tác thơ văn. Con người biết yêu thiên nhiên, quan tâm, chăm sóc, bảo tồn cũng sẽ góp phần tạo nên một hệ sinh thái xanh – sạch – đẹp. Một không gian thiên nhiên thoáng đãng, tươi xanh sẽ giúp con người khỏe mạnh, tươi trẻ và thoải mái. Chính vì vậy, khi thiên nhiên bị hủy hoại cũng chính là lúc cuộc sống con người bị đe dọa, ảnh hưởng nặng nề. Điển hình như việc biến đổi khí hậu hay thiên tai, lũ lụt hằng năm. Hãy cùng chung tay giữ vững mối quan hệ đó để tất cả đều được phát triển trong những đều kiện tốt nhất.

Bài văn mẫu 8: Phân tích Nắng đã hanh rồi

Bài làm

Bằng hồn thơ trong trẻo, giàu cảm xúc, các tác phẩm của nhà thơ Vũ Quần Phương đều ghi lại dấu ấn sâu đậm trong lòng bạn đọc. Trong đó, bài thơ "Nắng đã hanh rồi", trích từ tập "Hoa trong cây, Những điều cùng đến, Vết thời gian" với những nét đặc sắc về nội dung và hình thức nghệ thuật đã phác họa rõ nét bức tranh thiên nhiên mùa đông.

Nhan đề bài thơ gợi cho ta sự chuyển biến của tiết trời "Nắng đã hanh rồi". Đất trời, vạn vật đang dần chuyển mình, bước vào thời điểm nắng hanh vừa nóng, vừa lạnh. Giây phút đắm mình trong thời tiết đặc trưng chỉ có ở đồng bằng Bắc Bộ mỗi độ đông đến, chủ thể trữ tình đã vẽ lên cảnh sắc:

"Nắng đã vàng hanh như phấn bay
Đã nghe tiếng sếu vọng sông gày
Trước sân mây trắng về đông lắm"

Không còn là ánh nắng chói chang của ngày hè, vàng như mật ong của trời thu, nắng hanh mùa đông đến thật đặc biệt. Nó vẫn mang sắc vàng thường thấy nhưng lại giống "phấn bay", nhẹ nhàng điểm xuyết trong tiết trời giá lạnh. Nhà thơ cũng thật tinh tế khi cảm nhận cảnh sắc thiên nhiên bằng thính giác. Từng đàn sếu vọng lại tiếng kêu như nhắc nhở, báo hiệu đông về. Và ở ngoài kia, những con sông đầy ắp phù sa nay đã gày mòn, ốm yếu. Thu lại tầm nhìn, chủ thể trữ tình phát hiện khoảng sân trước mắt "mây trắng về đông lắm". Bầu trời một màu ảm đạm, khoác lên mình sắc trắng của mây. Từ đây, không gian như được mở rộng, trở nên cao và xa. Đứng trước khung cảnh hiu hắt, u buồn, chủ thể trữ tình càng thêm khắc khoải nỗi suy tư "Em ở xa nhà, em có hay". Câu thơ đồng thời là lời thắc mắc, hoài nghi của "anh" với tự lòng mình và người "em" xa nhà.

Bức tranh thiên nhiên mùa đông tiếp tục được khơi gợi qua:

"Em có hình dung những mái tranh
Nắng lên khói ủ mộng yên lành
Vườn sau tre mía xôn xao lá"

Chủ thể trữ tình tiếp tục gợi nhắc cho "em" về hình ảnh thân quen của quê nhà. Đó là những mái nhà tranh đơn sơ đang hòa mình trong cái nắng hanh trời đông. Đó còn là ngọn khói nhẹ nhàng vấn vương, quấn quýt quanh căn nhà thân thương. Khung cảnh sau vườn cũng trở nên sôi động nhờ tiếng xôn xao như lời thì thầm của lá "tre mía xôn xao lá". Từ hình ảnh thú vị ấy, chủ thể trữ tình như muốn gửi gắm tới "em" tình cảm sâu nặng "Anh chẳng là cây cũng trĩu cành". Lắng nghe, ngắm nhìn cảnh vật quanh mình, "anh" vẫn cảm thấy trống trải, đơn điệu về tâm hồn. Bởi thế, đến với khổ thơ thứ ba, "anh" đã có lời mời gọi:

"Em có cùng anh lên núi không
Có nghe thầm thĩ tiếng rừng thông
Nắng chiều ngả bóng thông in đất
Anh ngả vào đâu nỗi nhớ mong"

Câu hỏi "Em có cùng anh lên núi không" không chỉ mang ý nghĩa mời mọc mà còn bộc lộ cảm xúc khát khao được ở gần người em xa nhà. Cảnh chiều tĩnh lặng, u hoài chất chứa bao tâm tư ở "anh". Bên rừng thông, tiếng thầm thì nhỏ nhẹ vọng về, không biết "em" có nghe thấy không. m thanh quen thuộc của quê hương càng làm "anh" thêm da diết nỗi nhớ em. Đứng trước không gian rộng lớn của núi rừng ấy, chủ thể trữ tình lại cảm thấy thật lẻ loi, cô đơn. Nếu như nắng nhẹ nhàng buông xuống, ngả bóng vào cây thông rồi in xuống mặt đất thì "anh" vẫn một mình đứng đó. Giờ đây, trong anh là bao ngổn ngang cùng nỗi nhớ thương "em" sâu sắc nhưng chẳng biết ngả vào đâu. Có thể thấy, nhà thơ đã vô cùng tinh tế khi mượn trạng thái ở sự vật để gửi gắm tâm tư, nỗi niềm của chủ thể trữ tình.

Đông qua, xuân tới, một năm sẽ đến với bao chờ mong tha thiết:

"Xuân sắp sang rồi, xuân sắp qua
Một năm năm tới, lại năm qua
Mà sao nắng cứ như tơ ấy
Rung tự trời cao xuống ngõ xa"

Điệp từ "xuân sắp" như muốn nhấn mạnh, khẳng định giây phút chuyển mùa từ đông sang xuân sắp tới gần. Phải chăng, đây cũng là lúc "anh" và "em" sum họp bên nhau? Nhưng thời gian có vẻ trôi lững thững quá. Ngoài kia, nắng vàng vẫn nhẹ nhàng buông xuống nhân gian như từng sợi tơ.

Với lời thơ nhẹ nhàng, sâu lắng, nhà thơ Vũ Quần Phương đã cho người đọc thấy được những rung cảm trong tình yêu, trong sự giao hòa cùng đất trời. Bên cạnh đó, các biện pháp tu từ như so sánh "nắng đã vàng hanh như phấn bay", đảo ngữ "Vườn sau tre mía xôn xao lá" kết hợp cùng rất nhiều hình ảnh quen thuộc, gần gũi "nắng lên khói ủ", "mái tranh", "mây trắng", "nắng hanh" như tô đậm cảnh sắc bức tranh thiên nhiên mùa đông yên bình, êm ả.

Có thể thấy, khung cảnh thiên nhiên trong tiết trời mùa đông hiện lên thật chân thực qua bài thơ "Nắng đã hanh rồi". Từ đây, ta cũng cảm nhận được những tình cảm chân thành của nhà thơ trong tình yêu, trong cuộc sống gắn bó, hòa hợp với tự nhiên.

Bài văn mẫu 9: Viết văn bản nghị luận phân tích, đánh giá về chủ đề và một số nét đặc sắc về nghệ thuật của một bài thơ

Bài làm

Thiên nhiên và con người trong Cảnh khuya (Hồ Chí Minh)

Hồ Chí Minh một vị lãnh tụ tài hoa của dân tộc Việt Nam, bên cạnh đó với tài năng của mình người đã sáng tác nên những áng thơ văn vô cùng nổi bật. Trong đó bài thơ “Cảnh Khuya” là một tác phẩm thơ văn được viết trong thời kì kháng chiến tiêu biểu. Bài thơ là sự miêu tả bức tranh thiên nhiên vào đêm trăng đẹp, qua đó cho ta thấy tâm tư, tình cảm của một chiến sĩ cộng sản luôn hết mình vì nhân dân, vì đất nước.

Mở đầu bài thơ miêu tả bức tranh thiên nhiên thật đẹp:

“Tiếng suối trong như tiếng hát xa

Trăng lồng cổ thụ, bóng lồng hoa”

Với giọng thơ bình dị, vẻ đẹp của cảnh vật hiện lên trong thơ Hồ Chí Minh vừa có ánh sáng vừa có âm thanh. Thiên nhiên, cảnh núi rừng Việt Bắc vắng vẻ nhưng vô cùng huyền ảo và thơ mộng. Với việc sử dụng nghệ thuật nhân hóa, nhà thơ đã miêu tả vẻ đẹp của “tiếng suối trong”. Vào ban đêm, chỉ với ánh trăng mà nhà thơ cũng có thể thấy được sự trong veo của nước suối. Ánh trăng đêm quả thật rất đẹp, rất sáng. Ánh trăng còn nổi bật hơn ở hình ảnh “trăng lồng cổ thụ” ánh trăng sáng bao quát cả một cây đại thụ lớn kết hợp với tiếng tiếng suối thanh trong như điệu nhạc êm, hát mãi không ngừng.

Chỉ với hai câu thơ mở đầu mà bức tranh phong cảnh hiện lên vô cùng sinh động, với thật nhiều màu sắc.

Sau hai câu thơ tả cảnh, tiếp đến câu thơ thứ ba là sự khắc họa hình ảnh nhân vật trữ tình vô cùng tự nhiên.

“Cảnh khuya như vẽ, người chưa ngủ,”

Cảnh đêm trăng tuyệt đẹp như bức họa thế kia thì làm sao mà ngủ được. Phải chăng Người đang thao thức về một đêm trăng sáng với âm thanh vang vọng trong trẻo của núi rừng.

“Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà”

Câu thơ cuối càng làm nổi rõ hơn nguyên nhân không ngủ được của Bác đó là “lo nỗi nước nhà”. Câu thơ cuối nêu lên cái thực tế của nhân vật trữ tình và mở sâu và hiện thực tâm trạng của nhà thơ. Sự độc đáo của thơ Hồ Chí Minh là bài thơ kết thúc với một lời giải thích, vô cùng thẳng thắn và ngắn gọn nhưng cũng rất đáng quý trọng. Nghệ thuật ấy vô cùng chân thực, giản dị, đi thẳng vào lòng người nên cũng là nghệ thuật cao quí, tinh vi nhất.

Bài thơ khép lại một cách bất ngờ nhưng hết sức tự nhiên, trọn vẹn. Bài thơ Cảnh Khuya của Hồ Chí Minh miêu tả bức tranh đêm khuya thật đẹp, thật thơ mộng. Nhưng sâu hơn nữa là thể hiện tâm tư, tình cảm của một người chiến sĩ cách mạng luôn hết lòng vì nhân dân, lo cho dân, cho nước

Bài văn mẫu 10: Viết văn bản nghị luận phân tích, đánh giá về chủ đề và một số nét đặc sắc về nghệ thuật của một bài thơ

Bài làm

Hồ Chí Minh- vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc dù đã ra đi nhưng những điều ý nghĩa, tuyệt vời nhất về hình ảnh của Người vẫn còn mãi với con dân đát nước Việt Nam. Trong đó chính là kho tàng thơ ca mà bác đã sáng tác trong suốt cuộc đời chiến đấu, hy sinh cho dân, cho nước. Bài thơ Cảnh Khuya được sáng tác vào năm 1974 là một tình yêu nước, lo lắng cho dân tộc hòa cùng tình yêu thiên nhiên của Người. Từ đó ta cũng cảm nhận được những đựac sắc nghệ thuật của thể thơ thất ngôn tứ tuyệt

Mở đầu chính là cảnh bức tranh thiên nhiên ở núi rừng Việt Bắc .Chiến khu Việt Bắc – đó là đầu não của cuộc kháng chiến chống xâm lược, là nơi chỉ đạo đấu tranh của Cách mạng. Nhưng không phải vì vậy mà Việt Bắc chỉ trang nghiêm và bận rộn . Bức tranh Việt Bắc vào khuya đã được miêu tả hết sức đặc sắc

“Tiếng suối trong như tiếng hát xa

Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa’’

Ở đây, Bác đã so sánh tiếng suối ‘’trong như’’ tiếng hát của người con gái. Cảnh khuya thanh vắng vang lên tiếng suối chảy như làm cảnh vật có thêm sức sống. Nghệ thuật lấy động tả tĩnh như phá vỡ sự im lặng, làm nổi bật cảnh rừng khuya. Trong khung cảnh đó, ánh trăng trên cao chiếu xuống tạo nên những điểm nhấn chi mặt đất nơi núi rừng. Điệp từ “lồng” như nhấn mạnh sự xuyên tỏa của ánh sáng trăng khuya, sự giao hòa, quấn quýt giữa cảnh vật. Ánh trăng chiếu xuống vạn vật như những bông hoa điểm xuyết, tạo nên sự hòa quyện của thiên nhiên Việt Bắc với mặt trăng đêm nay. Cảnh khuya Việt Bắc hiện lên với vẻ đẹp cổ điển, mộc mạc nhưng đầy sức sống qua tình yêu thiên nhiên, tân hồn hòa mình nơi núi rừng của Hồ Chí Minh

‘’Cảnh khuya như vẽ người chưa ngủ,

Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà’’

Câu thơ thứ ba như một câu chuyển với dấu phẩy ngắt giữa câu ba và câu bốn. Điều này như làm rõ tâm trạng lúc này của Bác lúc này ‘’chưa ngủ’’. Cụm từ ‘’ chưa ngủ’’ ở đây chính là nỗi thao thức, tâm trang đầy sự lo âu. Trái ngược với cảnh khuya êm ả, dịu nhẹ, Hồ Chí Minh lúc này trong lòng tràn đầy nỗi băn khoăn, lo âu về nhân dân, đất nước và độc lập của dân tộc. Qua đây, ta cũng thấy rõ được tấm lòng yêu nước, luôn lo nghĩ cho dân, cho nước của vị cha kính yêu của đất nước Việt Nam

Bài thơ có sự kết hợp linh hoạt các biện pháp nghệ thuật: so sánh, điệp từ (lồng, chưa ngủ) nối kết hai tâm trạng, bộc lộ chiều sâu tâm hồn cao đẹp của Bác. Ngôn ngữ thơ hiện đại, giản dị mà cũng hết sức tinh tế, hàm súc.

“Cảnh khuya” đã cho ta thấy một tâm hồn yêu thiên nhiên tha thiết, sâu nặng. Cùng với đó là tấm lòng luôn lo nghĩ cho vận mệnh đất nước, dân tộc. Bài thơ là sự kết hợp hài hòa giữa yếu tố cổ điển và yếu tố hiện đại, tạo nên nét đặc sắc cho tác phẩm. Ở tác phẩm còn có sự kết hợp linh hoạt các biện pháp nghệ thuật: so sánh, điệp từ nối kết hai tâm trạng, bộc lộ chiều sâu tâm hồn cao đẹp của Bác. Ngôn ngữ thơ hiện đại, giản dị mà cũng hết sức tinh tế, hàm súc.

 

Tìm kiếm google:

Xem thêm các môn học


Copyright @2024 - Designed by baivan.net