[toc:ul]
Bài làm
Bielinski đã viết : “Cái đẹp là điều kiện không thể thiếu được của nghệ thuật, nếu thiếu cái đẹp thì không có và không thể có nghệ thuật, đó là một chân lý”. Nghệ sĩ chính là những người cảm thấy điều đó sâu sắc hơn ai hết. Trong quá trình nghiên cứu và xây đắp công trình nghệ thuật ngôn từ, sứ mệnh của mỗi nhà văn là phát hiện được vẻ đẹp ở bề sâu cuộc sống. Và có lẽ, vẻ đẹp tâm hồn, trong sáng của những năm tháng học trò trong bài thơ “Chiếc lá đầu tiên” của Hoàng Nhuận Cầm là một vẻ đẹp chân chính như thế.
Hoàng Nhuận Cầm sinh ra ở Hà Nội. Ông được mệnh danh là nhà thơ của học sinh, sinh viên bởi có nhiều bài thơ viết về kỉ niệm của tuổi trẻ, tình yêu với giọng điệu trẻ trung, sôi nổi. Bên cạnh việc làm thơ, ông còn viết kịch bản phim, tham gia đóng phim. Hoàng Nhuận Cầm có một số tập thơ nổi tiếng khác như: Xúc xắc mùa thu, Hò hẹn mãi cuối cùng em cũng đến…Bài thơ Chiếc lá đầu tiên đã gợi lên trong lòng mỗi người bao nhiêu kỷ niệm của những năm tháng học trò đầy hồn nhiên và vui tươi. Để rồi khi đó nhà thơ đã bước vào mùa thu của cuộc đời nhưng vẫn nhuốm màu thời gian. Vẫn mãi còn đó cái xôn xao của những năm tháng về mùa hạ đã qua.
Có một nỗi bồi hồi khi bắt gặp tiếng ve. Thành phố với những hàng me, những chiều công viên nhàn nhạt nắng, bất chợt nghe tiếng ngân dài như khản giọng, mới hay rằng mùa hạ bắt đầu sang. Tuổi học trò ngày xưa ùa về như lật gấp từng trang, từng trang nhật ký xếp đầy những xinh tươi bè bạn. Trong chuỗi ký ức dài bừng lên những ánh nhìn trong sáng. Một dải sáng diệu kỳ – ánh mắt tuổi học sinh.
Có một bàn tay chìa ra với mình: kìa tiếng ve bắt đầu trở về rồi đó, có nhớ bài thơ lúc ra trường, bạn bồi hồi bày tỏ… Ừ có một bài thơ sâu lắng tận bây giờ. Ngày ấy tụi mình khoan khoái những vần thơ, ru giấc ngủ tuổi học trò mỏng mảnh, những vần thơ có tiếng ve sầu lanh lảnh, có chiếc lá đầu tiên, có bạn, có trường. Tất cả đều là những khoảnh khắc thân thương, dẫu không biết Hoàng Nhuận Cầm là ai cũng trầm trồ ngưỡng mộ: chắc ngày xưa nhà thơ cũng… học trò nhí nhố, mà sao trải vào thơ những xúc động vô ngần.
Xuyên suốt bài thơ chính là khúc tự tình của người lính trẻ. Khi anh phải xếp nghiên bút lên đường đó cũng chính là khi anh phải tạm biệt phấn đen bảng trắng để đi theo tiếng gọi thân thương của Tổ quốc. Đó cũng chính là khi anh đã rời khoảng trời mơ mộng với mối tình đầu của mình. Và đó cũng chính là cách bài thơ Chiếc lá cuối cùng chạm vào trái tim của bao người đọc. Nó sâu sắc và lắng đọng như mang con người ta vào bản tình ca. Ký ức về mùa hạ cũng như năm tháng học trò ấy dạt dào trong trí nhớ của nhà thơ. Nó dâng đầy một nỗi nhớ và cũng như cách nhà thơ tìm về những năm tháng của quá khứ. Để rồi đọc những vần thơ này ta cảm nhận được một sự xót xa nghẹn ngào. Bởi em đó chính là mối tình đầu và cũng chính là cảm hứng xuyên suốt trong bài thơ. Đó cũng chính là mảnh ghép về những năm tháng hoa niên đầy tươi đẹp, không quá òn ào mà cũng giản dị và sâu lắng.
Những kỷ niệm trong Chiếc lá cuối cùng như đang ùa về lấp lửng từng trang, từng trang. Để rồi đọc những câu thơ tiếp theo đa cảm nhận được nỗi lòng của người thi sĩ. Đó là tình yêu đôi lứa nhưng cũng có một phương diện khác. Đó chính là ngôi trường xưa với bao nhiêu kỷ niệm. Và đó cũng chính là lý do giải thích tại sao ban đầu nhà thơ lại đặt tên là “Trường ơi, chào nhé!”.
“Em thấy không, tất cả đã xa rồi
Trong tiếng thở của thời gian rất khẽ
Tuổi thơ kia ra đi cao ngạo thế
Hoa súng tím vào trong mắt lắm mê say”.
Có lẽ tình yêu ở lứa tuổi học trò đầu tiên đều bắt nguồn từ tình bạn. Đó cũng chính là những kỷ niệm gắn bó dưới mái trường đầy thân thương và vui vẻ. Những ký ức ấy làm nhà thơ không khỏi bồi hồi tiếc nuối. Đó là cảm giác đi bên chùm phượng hồng làm ai đã đánh rơi những phút giây ban đầu. Là cảm giác mê say của một con người khi ngập ngừng bối rối. Chính những kỷ niệm ấy trở thành dấu ấn mãi không quên trong lòng của mỗi con người.
Mùa hạ sẽ không còn trọn vẹn nếu thiếu đi những âm thanh ấy. Đó là tiếng ve – âm thanh đặc trưng của mùa hạ, cũng là mùa chia tay của lứa tuổi học trò đầy hồn nhiên và vui tươi. Tiếng ve của mùa hạ không giống như những giai điệu gợi tiết tấu buồn. Mà đó chính là những sự tươi tắn khỏe khoắn. Và với tình yêu đầu đời cũng đã làm chàng th sĩ không khỏi bồi hồi xúc động về những năm tháng đã qua.
“Chùm phượng hồng yêu dấu ấy rời tay
Tiếng ve trong veo xé đôi hồ nước
Con ve tiên tri vô tâm báo trước
Có lẽ một người cũng bắt đầu yêu”.
Cái tình cảm ấy nó là tình đầu, tình yêu đầy tha thiết của đời người. Trong đó còn chứa đựng cả tình bạn, tình yêu và cũng có cả tình người. Để rồi thật khó có thể gọi thành tên nguồn cảm xúc ấy. Nó như một đi không trở lại và cũng không ai có thể tắm hai lần trên một dòng sông. Và chính câu thơ này đã gieo sâu vào ấn tượng đối với độc giả. Để rồi từng hình ảnh ấy như chạm lại những ký ức của tuổi thơ. Và mãi về sau hình ảnh vẫn đi theo nỗi nhớ bâng khuâng.
Những lời bộc bạch rất tình, rất đỗi nhớ nhung mà Hoàng Nhuận Cầm thốt lên, và đó là những kí ức về mái trường cũ chợt ùa về trong tâm trí. Đó là lớp học với biết bao kỉ niệm gắn bó cùng thầy cô, bạn bè, bảng đen, sân trường,… Quãng thời gian ấy vui tươi, hồn nhiên, trong sáng mà mỗi lần nhớ đến, con người ta lại dâng lên một niềm xúc cảm khó quên, một nỗi hoài niệm về tình yêu tuổi học trò :
“Muốn nói bao nhiêu, muốn khóc bao nhiêu
Lời hát đầu xin hát về trường cũ
Một lớp học buâng khuâng màu xanh rủ
Sân trường đêm – rụng xuống trái bàng đêm
Nỗi nhớ đầu anh nhớ về em
Nỗi nhớ trong tim em nhớ về với mẹ
Nỗi nhớ chẳng bao giờ nhớ thế
Bạn có nhớ trường, nhớ lớp, nhớ tên tôi”.
Hay:
“Có một nàng Bạch Tuyết các bạn ơi
Với lại bảy chú lùn rất quấy!”
Khổ thơ đã đem đến cho ta một hình dung là khung cảnh lớp học vui nhộn, hồn nhiên. Nơi ấy có “một nàng Bạch Tuyết” – chính là cô giáo và “những chú lùn rất quấy” là những cô cậu học sinh tinh nghịch, nhí nhảnh. Trong không gian ấy, vang lên những tiếng cười “lao xao”, trong sáng của cả cô và trò, giúp xua tan bầu không khí căng thẳng của những tiết học. Qua đoạn thơ ấy, câu “Nhất quỷ, nhì ma, thứ ba học trò” càng trở nên đúng đắn.
Tuổi học trò là quãng thời gian đáng nhớ nhất trong cuộc đời. Bài thơ dường như đã diễn tả hết những tâm trạng mỗi khi nhớ đến những ngày tháng hồn nhiên, vô tư cắp sách đến trường, được học tập, được vui chơi cùng bạn bè và thầy cô. Tuổi học trò thật trong sáng, vô giá và chất chứa nhiều kỉ niệm:
“Những chuyện năm nao, những chuyện năm nào
Cứ xúc động, cứ xôn xao biết mấy
Mùa hoa mơ rồi đến mùa hoa phượng cháy
Trên trán thầy, tóc chớ bạc thêm”.
Những câu thơ dung như đang bộc lộ trực tiếp tình cảm, cảm xúc của chủ thể trữ tình cũng như của biết bao nhiêu thế hệ học sinh mỗi khi nhớ về kỉ niệm dưới mái trường. Đó là sự xúc động, xôn xao khi nhớ về “những chuyện năm nao, những chuyện năm nào”. Thời gian cứ thấm thoát dần qua, từ “mùa hoa mơ rồi đến mùa phượng cháy”, người học trò năm ấy vẫn giữ một thái độ trân quý đối với người thầy đã nuôi dưỡng tri thức, tâm hồn mình và mong rằng tóc thầy đừng bạn thêm nữa. Chỉ với bốn câu thơ ngắn nhưng dường như mọi tâm tư, tình cảm của chủ thể trữ tình đã được bộc bạch và làm sáng rõ.
“Thôi đã hết thời bím tóc trắng ngủ quên
Hết thời cầm dao khắc lăng nhăng lên bàn ghế cũ
Quả đã ngọt trên mấy cành đu đủ
Hoa đã vàng, hoa mướp của ta ơi”.
Những cảm xúc chứa đựng trong chiếc lá đầu tiên vô cùng thân thương và gần gũi. Đó chính là nỗi nhớ sâu lắng, và dường như đôi khi nỗi nhớ ấy đã chạm tới cực điểm và cảm xúc như có phần thắm lại.
Khổ cuối cùng của bài thơ ra đời vào thời điểm sau ngày 30/4/1975, đất nước thống nhất, Hoàng Nhuận Cầm trở lại khoa Văn, Trường Đại học Tổng hợp tiếp tục cuộc đời sinh viên. Trong khoảnh khắc đứng lặng lẽ trên sân trường, ông biết rằng tất cả tuổi thanh xuân đã gửi lại ở trong những cánh rừng lửa đạn, còn trước mắt mình là thế hệ tiếp nối và khi ấy, ông thốt lên:
“Em đã yêu anh, anh đã xa rồi
Cây bàng hẹn hò chìa tay vẫy mãi
Anh nhớ quá, mà chỉ lo ngoảnh lại
Không thấy trên sân trường chiếc lá buổi đầu tiên”.
Hình ảnh “chiếc lá buổi đầu tiên” ở cuối bài thơ là hình ảnh mang tính chất tượng trưng. “Chiếc lá buổi đầu tiên” ẩn dụ cho khoảng thời gian đẹp đẽ, đó là tình yêu đầu, tình yêu của lứa tuổi học trò ngây ngô, trong sáng và đầy mộng mơ.
Nỗi nhớ ấy chính là sự nhớ nhung về những kỷ niệm thân thương của năm tháng học trò. Để rồi chung quanh đó vẫn dâng tràn những nguồn cảm xúc khó nói thành lời. Đọc những vần thơ này ta như chạm nhẹ vào nỗi nhớ. Đó là nỗi nhớ về em – mối tình đầu da diết, và đó cũng chính là nỗi nhớ về mẹ, về trường, về lớp và về bạn bè. Để rồi bao năm tháng ấy vẫn còn khắc ghi trong lòng của mỗi người. Và dường như đối với Hoàng Nhuận Cầm, chiếc là nào cũng chính là chiếc lá đầu tiên và mối tình nào cũng chỉ mãi là cái hồi hộp và sự xôn xao của mối tình đầu. Đọc những câu thơ tôi lại liên tưởng đến câu hát trong bài Mối tình đầu của Thế Duy “không hiểu vì sao tình yêu tan vỡ, như hoa ven mặt hồ tàn theo gió mùa thu”. Rõ ràng em đã yêu, nhưng anh cũng đã xa rồi. Anh chẳng hiểu nổi “anh nhớ quá! Mà chỉ lo ngoảnh lại”. Tất cả diễn ra đều không hiểu nổi, đều là những nghịch lý tất nhiên. “Chiếc lá buổi đầu tiên” ở đây là một hình ảnh tượng trưng. Đó là tuổi học trò, là tình yêu đầu, là một thời đã mất mà cũng là một con người khác của tác giả – là ta đấy mà giống như không như không phải là ta.
“Thơ là người thư kí chân thành của trái tim” (Duybralay). Quả thực thơ Hoàng Nhuận Cầm kiệm lời, nhưng nói biết bao nhiêu. “Chiếc lá đầu tiên” chỉ là một trong những bài thơ như thế. Bởi vậy, ngay cả khi giờ đây, nhà thơ đã đi về miền miên viễn nhưng những vần thơ của ông thì sẽ vẫn còn sống mãi trong lòng nhiều thế hệ độc giả về sau.
Bài làm
"Thơ là tiếng lòng" (Diệp Tiếp) và nhà thơ Hoàng Nhuận Cầm đã thể hiện tiếng lòng mình một cách đầy tinh tế qua bài "Chiếc lá đầu tiên". Đọc bài thơ, độc giả được trở về với miền kí ức xa xôi của một thời cắp sách tới trường. Tác phẩm là niềm nhớ thương da diết của tác giả về kỉ niệm dưới mái trường mến yêu.
Tác phẩm được sáng tác vào năm 1971 nhưng phải đến mười năm sau mới hoàn thiện. Nhà thơ đã từng chia sẻ rằng: "Có bài thơ tôi viết rất nhanh. Ví dụ bài "Sông Thương tóc dài" tôi viết trong vòng 5 phút trên vỏ bao thuốc lá, riêng bài "Chiếc lá buổi đầu tiên" tôi viết trong 10 năm. Bài thơ ban đầu có tên là "Trường ơi, chào nhé". Khổ đầu tiên được viết vào năm đầu tiên tôi vào đại học, khi vừa mới bước qua "tuổi khăn quàng, phấn trắng, nắng vô tâm". Mặc dù bài thơ được viết trong những thời điểm khác nhau nhưng vẫn thể hiện được đầy đủ, trọn vẹn cảm xúc nhớ thương của tác giả. Xuất phát từ tứ thơ chiếc lá đầu tiên, tác giả muốn bày tỏ tình yêu đối với thầy cô, mái trường. Nỗi nhớ da diết về tuổi học trò đã qua là cảm hứng xuyên suốt, chủ đạo của tác phẩm. Nhan đề "Chiếc lá đầu tiên" là hình ảnh mang tính biểu tượng. Đó có thể là hình ảnh tượng trưng cho sự bắt đầu của một tình yêu chớm nở, cho những kỉ niệm đầu tiên. Bởi hình ảnh lúc ban đầu sẽ để lại cho con người những kỉ niệm, dấu ấn khó phai.
Ở hai khổ đầu tiên, nhân vật trữ tình bộc niềm tiếc nuối về khoảng thời gian tươi đẹp. Đồng thời, trực tiếp bày tỏ tình cảm với nhân vật "em". Dòng thơ "Em thấy không, tất cả đã xa rồi" đã cho thấy sự nuối tiếc về quãng thời gian đã xa. Thời gian mang dáng dấp của con người thông qua biện pháp tu từ nhân hóa "Trong tiếng thở của thời gian rất khẽ". Từ "rất khẽ" gợi liên tưởng về sự chuyển động vô cùng nhẹ của thời gian, dường như thời gian trôi qua rất nhanh, nhanh đến mức nhân vật trữ tình cảm thấy ngỡ ngàng. Thời gian không quay về, là dòng thác bất tận đổ xuống đời, bởi vậy, chủ thể trữ tình mới thấy "tuổi thơ kia ra đi cao ngạo thế". Tuổi thơ chất chứa bao mộng mơ, dại khờ của ngày trẻ, một khi đã đi rồi thì nghiễm nhiên không bao giờ trở lại được nữa. Câu thơ bộc lộ sự hoài niệm, tiếc nuối của nhân vật trữ tình.
Ở những khổ thơ tiếp theo, hình ảnh gắn liền với tuổi học trò "hoa súng tím", "chùm phượng hồng", "tiếng ve", "con ve" xuất hiện dày đặc. Trong đôi mắt của nhân vật trữ tình, bông hoa súng mang đến cảm giác say đắm, thích thú "Hoa súng tím vào trong mắt lắm mê say". Có lẽ, tình yêu ở lứa tuổi học trò đều bắt nguồn từ tình bạn. Nhân vật trữ tình bồi hồi nhớ về một thời "yêu dấu" đã qua, nhớ về cảm giác chùm phượng hồng phút ban đầu. Chùm phượng nở rộ cũng là lúc một năm học chuẩn bị kết thúc. Phút giây ấy còn được báo hiệu bởi tiếng "ve tiên tri". Tiếng ve là âm thanh đặc trưng của mùa hạ, cũng là mùa chia tay mái trường, thầy cô. Biện pháp nhân hóa "con ve tiên tri vô tâm báo trước" đã cho thấy sự bàng hoàng, tiếc nuối đến ngỡ ngàng. Dòng cảm xúc của nhân vật trữ tình đang trở lại mùa hè năm ấy, về lần đầu mình biết yêu.
Nỗi nhớ về mái trường ngày càng được nhân lên, khắc sâu trong ba khổ bốn, năm, sáu. Biện pháp điệp cấu trúc "Muốn nói bao nhiêu, muốn khóc bao nhiêu" được sử dụng nhằm nhấn mạnh vào cảm xúc mãnh liệt, dâng trào của nhân vật trữ tình khi nhớ về trường cũ. Lớp học mang nặng tâm tư, tình cảm của con người qua biện pháp nhân hóa "bâng khuâng màu xanh rủ". Từ "bâng khuâng" đã diễn tả tâm trạng luyến tiếc, nhớ thương. Không gian tĩnh lặng của sân trường buổi đêm bị xao động bởi trái bàng rụng xuống. Khổ thơ đã thể hiện cảm xúc dâng trào của nhân vật trữ tình khi nhớ về trường cũ.
Nỗi nhớ ấy càng được bộc lộ rõ hơn trong khổ bốn. Biện pháp điệp cấu trúc "nỗi nhớ" diễn tả ấn tượng sâu đậm về kỉ niệm tuổi học trò. Đây được coi là đỉnh điểm của sự xúc động và nỗi nhớ. Ta nhận thấy, ở khổ thơ này cũng có sự thay đổi về cách xưng hô. Khi thì chủ thể là "anh" vì muốn gửi gắm tâm tư, tình cảm với "em". Khi thì chủ thể là "tôi" muốn chia sẻ cảm xúc với "bạn", với tất cả mọi người, trong đó có "em". Đại từ nhân xưng "ta", "tôi", "anh" thực chất vẫn là một, đó là chủ thể trữ tình trong các mối quan hệ khác nhau. Câu hỏi tu từ "Bạn có nhớ trường nhớ lớp, nhớ tên tôi" có thể hiểu nhân vật trữ tình hỏi "bạn", hỏi mọi người liệu có còn nhớ đến mái trường, nhớ đến mình hay không. Câu thơ đã diễn tả sâu sắc nỗi nhớ về thầy cô, bạn bè.
Ở khổ thơ thứ năm, tác giả dẫn nguyên văn lời thoại nhằm thể hiện cảm xúc theo lối gián tiếp. Ba dòng thơ đầu cho thấy sự tươi vui, đùa nghịch của tuổi học trò. Đến câu thơ cuối, nhân vật như không kìm nén được cảm xúc mà phải thốt lên : "Ôi những trận cười trong sáng đó lao xao". Tác giả đan xen các mẩu đối thoại mang yếu tố tự sự vào mạch trữ tình, kết hợp giữa biểu cảm gián tiếp và trực tiếp khiến cho lời thơ trở nên linh hoạt và kỉ niệm cũng được khắc họa rõ nét, đáng nhớ hơn.
Đến với khổ sáu, điệp cấu trúc "Những chuyện năm nao, những chuyện năm nào" và điệp từ "cứ" nhấn mạnh vào cảm xúc da diết, trào dâng của nhân vật trữ tình, đồng thời tạo nhạc điệu xao xuyến cho bài thơ. Câu thơ "Mùa hoa mơ rồi đến mùa phượng cháy" diễn tả sự vận động của thời gian từ cuối đông đầu xuân sang đến hè. Khi chứng kiến người thầy của mình đã già đi theo năm tháng, chủ thể trữ tình mong tóc thầy chớ "bạc thêm".
Cảm xúc tiếc nuối của nhân vật trữ tình về một thời đã qua được khắc họa rõ nét trong hai khổ thơ cuối cùng. Cụm từ "Thôi đã hết" ám chỉ sự kết thúc, không còn tháng ngày học tập dưới mái trường mến yêu với những trò đùa tinh nghịch "tóc trắng ngủ quên", "cầm dao khắc lăng nhăng trên bàn ghế cũ". Hai câu thơ "Em đã yêu anh, anh đã xa rồi/ Cây bàng hẹn hò chìa tay vẫy mãi" diễn tả sự chia lìa, xa cách. Kết thúc bài thơ, nhân vật trữ tình bày tỏ niềm thương nhớ, nuối tiếc về những kỉ niệm lần đầu, về thuở ban đầu mới yêu "Không thấy trên sân trường - chiếc lá buổi đầu tiên".
Bằng từ ngữ giàu sức gợi hình, gợi cảm, hình ảnh gần gũi, thân thuộc cùng các biện pháp tu từ so sánh, nhân hóa, điệp ngữ độc đáo, tác giả đã bày tỏ nỗi nhớ thương da diết và niềm khắc khoải khi nhớ về trường xưa, thầy cô, bạn cũ. Đồng thời, khơi gợi cho người đọc những kỉ niệm tươi đẹp, trong sáng, hồn nhiên thuở học trò.
Có thể nói, "Chiếc lá đầu tiên" được coi là tác phẩm đặc sắc về nội dung và độc đáo về nghệ thuật. Thông qua tác phẩm, người đọc thấy được tâm hồn tinh tế, sâu sắc của nhà thơ.
Bài làm
Thiên nhiên núi rừng Tây Bắc thơ mộng trữ tình là thế nhưng ẩn sau đó là vẻ hoang sơ với đầy những hiểm nguy đang rình rập. Trước cảnh hùng vĩ của non nước, hình tượng người lính Tây Tiến của Quang Dũng hiện lên như một tượng đài bất diệt, mang vẻ đẹp vừa hùng tráng vừa tài hoa lãng tử của những người con Hà thành.
Bài thơ Tây Tiến đã tái hiện chân thực lại sự tàn khốc của chiến tranh, những gian lao vất vả mà người lính phải trải qua trên chặng đường kháng chiến. Thế nhưng chưa bao giờ họ lùi bước trước khó khăn thử thách, những người lính vĩ đại ấy vẫn sống lạc quan yêu đời và chiến đấu anh dũng kiên cường.
Quang Dũng (1921 – 1988) tên thật là Bùi Đình Diệm, quê gốc ở Hà Tây (nay là Hà Nội). Ông là người nghệ sĩ đa tài vừa viết văn, làm thơ lại biết cả vẽ tranh, soạn nhạc. Thế nhưng nhắc đến Quang Dũng trước hết phải một nhà thơ tài hoa, giọng thơ ông vừa hồn nhiên, tinh tế lại không kém phần lãng mạn hào hoa, đặc biệt là khi ông viết về người lính Sơn Tây của mình.
Mở đầu bài thơ tác giả đã tái hiện lại khung cảnh thiên nhiên miền Tây hùng vĩ, hoang sơ mà mĩ lệ cùng với cuộc hành quân gian khổ của binh đoàn Tây Tiến. Những người lính trẻ chẳng ngại hiểm nguy họ cứ tiến về phía trước với tinh thần hồn nhiên, lạc quan của tuổi trẻ :
“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
/…/
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi ”
Cảm xúc chủ đạo xuyên suốt tác phẩm đó là nỗi nhớ da diết của tác giả khi nghĩ về những kỷ niệm xưa, tại đơn vị cũ của mình. “Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi” câu thơ cất lên như tiếng lòng nhà thơ, tiếng gọi tha thiết đầy tiếc nuối và chứa đựng đầy những hoài niệm trong quá khứ huy hoàng. Nhà thơ nhớ Tây Tiến bằng nỗi nhớ “chơi vơi” thật da diết, mênh mông và sâu nặng. Nỗi nhớ luôn thường trực, bao trùm lên cả không gian và trái tim người lính.
Bức tranh thiên nhiên hiện lên thật sống động với những địa danh “sông Mã”, “Sài Khao”, “Mường Lát”, “Pha Luông”, “Mường Hịch”, “ Mai Châu” đây là những địa danh gắn bó với binh đoàn, là địa bàn hành quân của những người lính Tây Tiến. Một vùng đất xa xôi, hiểm trở nhiều lần tưởng chừng như làm lu mờ ý chí chiến đấu của người lính cụ Hồ, “sương lấp đoàn quân mỏi” địa hình núi cao cùng với những lớp sương dày đặc phủ kín lối đi, đoàn quân đang mệt mỏi giờ đây lại phải đối diện với cái lạnh cắt da của Tây Bắc.
Địa hình núi non hiểm trở “dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm” đoạn đường đi cũng chẳng bằng phẳng dễ dàng, có đoạn lên cao gập ghềnh khúc khuỷu, có khi lại “thăm thẳm” như vực sâu chỉ cần một phút lơ đãng người lính có thể bỏ mạng ngay tức khắc. Sương dày che lấp tầm nhìn, đường đi nhỏ quanh co lại thêm sự trơn trượt của mặt đất, đoàn quân vẫn đi trong gian khổ từng hạt mưa phùn rơi xuống phảng phất cái lạnh buốt.
Quang Dũng vận dụng nghệ thuật đối lập một cách tài tình để miêu tả sự dữ dội của núi rừng Tây Bắc “Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống” những câu thơ sinh động đầy sáng tạo gợi ra trước mắt người đọc khung cảnh cảnh thiên nhiên hùng vĩ, hoang vắng, bí hiểm với đầy rẫy những hiểm nguy “oai linh thác gầm thét”, đêm đêm “cọp trêu người”.
Quang Dũng miêu tả thiên nhiên núi rừng rộng lớn mênh mông, hiểm trở như thế chính là để làm nổi bật lên hình tượng người lính trên chặng đường hành quân gian khổ, hy sinh của họ. Đoàn quân đã đi ròng rã nhiều ngày liền họ thật sự đã kiệt sức, lúc này đây “đoàn quân mỏi” cần được nghỉ ngơi để lấy lại sức lực, tinh thần bước tiếp. Hình ảnh “anh bạn dãi dầu không bước nữa” là cách nói giảm, nói tránh của Quang Dũng, có những người lính đã hy sinh nơi chiến trường chẳng thể nào bước tiếp cùng với đồng đội.
Tác giả nhắc đến cái chết một cách gián tiếp để tránh gây nỗi đau quá sâu sắc, làm giảm di ý chí chiến đấu của đoàn quân. Những người lính thật đáng khâm phục họ sẵn sàng hy sinh quên mình cho Tổ quốc, họ trẻ trung ngang tàn và rất yêu đời “gục lên súng mũ bỏ quên đời”. Cái chết nhẹ tựa lông hồng chẳng thể làm người lính run sợ, tâm hồn họ vẫn bay bổng tinh nghịch xen lẫn sự lãng mạn tài hoa.
Những khổ thơ tiếp theo tác giả gợi nhớ về những kỷ niệm đẹp, sâu nặng của tình quân và dân trong những đêm liên hoan tưng bừng náo nhiệt:
“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”
Binh đoàn Tây Tiến gắn bó với chiến trường suốt nhiều năm trời, có biết bao kỷ niệm hằn sâu trong tâm hồn mỗi con người. Sau những ngày chiến đấu vất vả, gian lao “Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa” những chàng trai cô gái nắm tay nhảy điệu nhạc “e ấp” của dân tộc thiểu số vùng cao.
Vẻ đẹp của con người nơi đây thật lung linh, bí ẩn có chút hoang dại làm say đắm tâm hồn biết bao người lính trẻ hào hoa, lãng tử nơi Hà thành. Cùng với đó là cảnh sông nước Tây Bắc một chiều sương thật lãng mạn nhưng phảng phất nét buồn, như nỗi khắc khoải lo lắng của nhà thơ trước vận mệnh của dân tộc, trước tình hình chiến sự đang đến hồi cam go quyết liệt.
Chân dung người lính còn được tác giả miêu tả qua vẻ hào hoa, lãng tử. Họ đều là những chàng trai thành phố vì nghiệp lớn mà rời bỏ nơi nơi phồn hoa đô thị. Những chàng ấy đang còn tuổi trẻ rạo rực với những mộng tưởng, khát khao yêu đương “gửi mộng qua biên giới”, họ mơ về những cô gái Hà Nội xinh đẹp, dịu dàng như nàng Kiều. Tất cả tạo nên một hình ảnh người lính trẻ trung, yêu đời với những khát khao hạnh phúc mãnh liệt của tuổi trẻ.
Đoạn thơ cuối vang lên mạnh mẽ, quyết liệt như lời khẳng định quyết tâm của đoàn binh, đó cũng là lời thề chung thành với tổ quốc sẵn sàng hy sinh vì độc lập dân tộc :
“Tây Tiến người đi không hẹn ước
Đường lên thăm thẳm một chia phôi
Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi.”
Người lính Tây Tiến kiên cường, tự tin thể hiện một tinh thần chiến đấu đầy nhiệt huyết “người đi không hẹn ước”, họ ra đi chẳng hẹn ngày trở lại, đi với khí thế sẵn sàng hy sinh để bảo vệ cho tổ quốc, cho độc lập dân tộc. Dù biết chặng đường có “thăm thẳm” chia phôi thế nhưng người lính đã thề với đất nước một lời thề sắc son “Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi”.
Tâm hồn người lính dường như đã vượt qua những mơ ước cá nhân tầm thường, giờ đây họ mang trên vai mình trọng trách sứ mệnh vô cùng to lớn: Sẵn sàng chiến đấu, sẵn sàng hy sinh cho độc lập dân tộc.
Tây Tiến là bài thơ đặc sắc nhất góp phần đưa tên tuổi Quang Dũng lên một tầm cao mới của nghệ thuật. Với ngòi bút tài hoa, lãng mạn của mình Quang Dũng đã xây dựng thành công hình tượng người lính vừa bi tráng vừa tài hoa, hai chất thơ ấy không thể tách rời mà hoà quyện vào nhau tạo nên sức hấp dẫn cho tác phẩm. Hình tượng thiên nhiên hùng vĩ, tráng lệ được xây dựng làm nền góp phần tô đậm vẻ đẹp của người lính Tây Tiến lạc quan, yêu đời.
Bài làm
Quang Dũng là một nhà thơ rất đặc biệt, bởi ông không chỉ là một nhà thơ cầm bút sáng tác mà còn là một người lính cầm súng đánh giặc. Có lẽ bởi vì vậy mà những bài thơ của Quang Dũng luôn gắn liền với hình ảnh những người lính, cũng là những người đồng đội của ông. Nổi bật nhất trong các sáng tác của ông là bài thơ Tây Tiến. Với bút pháp lãng mạn xen lẫn với tả thực, bài thơ đã khắc họa thật thành công hình ảnh đoàn binh Tây Tiến với khí thế hiên ngang, tâm hồn thơ mộng trong thời kì kháng chiến chống thực dân Pháp.
Mở đầu bài thơ là tiếng gọi tha thiết với đoàn quân của mình được vang lên trong tâm thức của nhà thơ:
‘Sông Mã xa rồi, Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi.”
Nhớ về đồng đội của mình, nhà thơ nhớ ngay đến con sông Mã, nó là con sông đã cùng những người chiến sĩ đi qua bao khó khăn, thử thách, là chứng nhân lịch sử cho cuộc chiến đấu anh dũng, oai hùng của các anh. Bởi lẽ, dòng sông Mã là con sông chảy dọc theo một loạt các địa điểm mà những người lính hành quân ở vùng biên giới phía Bắc: Lai Châu, Lào Cai, Sơn La, Lạng Sơn.
Mỗi một nơi dừng chân mà người lính đi qua, họ có thể không nhớ hết nhưng hình ảnh con sông luôn in hằn trong tâm thức của những người chiến sĩ. Nhớ về sông Mã, nhà thơ cất tiếng gọi thân thương: “Tây Tiến ơi!” Nỗi nhớ như tràn về, nhà thơ nhớ núi rừng, nhớ những người bạn đồng hành trong những năm tháng gian lao, một nỗi nhớ chơi vơi không nắm bắt được. Bao nhiêu kỉ niệm dần hiện lên trong trí nhớ của Quang Dũng:
“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi.”
Nếu ở hai câu thơ đầu, khi kí ức chưa rõ ràng, nhà thơ nhớ về hình ảnh hiện hữu nhiều nhất là con sông Mã thì ở đây, mọi thứ đã dần hiện ra rõ nét hơn. Tác giả nhắc lại những tên làng, tên bản, nơi những người chiến sĩ dừng chân. Đêm xuống, đoàn binh Tây Tiến đã thấm mệt sau cả một ngày dài chinh chiến. Trong khoảnh khắc dừng chân ngắn ngủi, người lính vẫn cảm nhận được thiên nhiên, núi rừng Tây Bắc thật thơ mộng, trữ tình “Mường Lát hoa về trong đêm hơi”.
Những chặng đường hành quân khó khăn, gian khổ khiến người lính mỏi mệt được khắc họa ở các câu thơ tiếp theo:
“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”
Nhà thơ sử dụng một loạt các từ láy “khúc khuỷu”, “thăm thẳm”, “heo hút” như vẽ lên một khung cảnh thiên nhiên với địa hình hiểm trở, như thách thức sự chịu đựng của con người. Núi rừng Tây Bắc hoang vu, khó lường với những khó khăn chồng chất dọc trên đường hành quân của người lính.
Nhà thơ đã rất khéo léo khi sử dụng biện pháp nghệ thuật đối lập: “Ngàn thước lên cao” – “Ngàn thước xuống”, gợi tả độ cao cũng như độ sâu hiểm hóc, chỉ một bước sẩy chân cũng có thể để lại hậu quả khôn lường. Nhưng trong khó khăn ấy, qua con mắt của người lính, ta vẫn thấy có chút gì đó thật thơ mộng “súng ngửi trời”. Đứng trên độ cao có thể nhìn thấy mọi cảnh vật, người lính đánh mắt nhìn ra phía xa, thấy một căn nhà của bản làng như là nỗi nhớ với quê hương của mình: “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi.”
Khổ thơ thứ hai của bài thơ là những kỉ niệm của người lính trong đêm liên hoan văn nghệ:
“Doanh trại bừng lên ngọn đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viêng Chăn xây hồn thơ”
Cụm từ “bừng lên” gợi tả một không khí vui tươi, náo nhiệt, những người chiến sĩ cùng với người dân thắp sáng ngọn đuốc, làm nhà thơ liên tưởng đến hình ảnh “ngọn đuốc hoa”. Câu chữ, lời thơ tình tứ “kìa em” cho thấy cách xưng hô thân mật, gợi tả tình cảm thắm thiết giữa quân và dân. Người lính say mê những khúc hát, điệu nhảy của người dân tộc ở nơi đây.
Đó là những khúc hát dân ca Thái, dân ca Lào. Tất cả như xây đắp nên tâm hồn người lính, khiến cho họ trở nên lãng mạn, bay bổng hơn bao giờ hết. Chất thơ của người chiến sĩ được thể hiện qua cái nhìn với thiên nhiên ở 4 câu thơ tiếp theo:
“Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”
Hình ảnh “người đi” là sự chia tay của người lính với những người dân đã cưu mang họ, người lính ra đi trong một chiều sương mờ ảo. Trong làn sương ấy thấp thoáng những hình ảnh “cỏ lau”, “dáng người trên độc mộc” và đặc biệt là hình ảnh “hoa đong đưa”. Thiên nhiên hiện lên thật buồn, đó là nỗi buồn man mác, lưu luyến khi phải chia xa. Người lính phải tiếp tục lên đường làm nhiệm vụ.
Nhà thơ Quang Dũng miêu tả hình ảnh chân dung người lính Tây Tiến thật ngang tàn ở khổ thơ cuối:
“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”
Chân dung người lính hiện lên thật khác lạ “không mọc tóc”. Nhà thơ đã đảo từ “không” lên phía trước, cách nói “không mọc tóc” chứ không phải “tóc không mọc” cho thấy tinh thần bất khuất, hiên ngang của người chiến sĩ Tây Tiến. Quân xanh màu lá ngụ ý chỉ làn da xanh xao của họ. Như vậy, người lính phải chịu những cơn sốt rét rừng, khiến cho làn da của họ không còn hồng hào mà trở nên xanh xao, gầy guộc cùng với mái tóc rụng hết. Trong hiện thực tàn khốc đó, người lính vẫn thản nhiên, ung dung với khí thế ngang tàn, không thèm mọc tóc.
Nhưng nhà thơ Quang Dũng không chỉ miêu tả chân dung người lính Tây Tiến mà còn cho thấy tâm hồn của họ:
“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”
Người lính nhớ về quê hương tha thiết. Khi nhớ về quê hương, trong tâm thức của người chiến sĩ hiện ra hình ảnh “dáng kiều thơm”, đó có lẽ là hình ảnh người yêu, người đang mong ngóng ngày họ trở về. Nhưng họ cũng chẳng rõ ngày mình trở về có được toàn vẹn hay không:
“Rải rác biên cương mồ viễn xứ
/…/Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi”
Cái chết, sự ra đi vì quê hương, đất nước là minh chứng cho việc các anh đã chiến đấu hết mình. Ở nơi chiến trường kia, biết bao người lính đã hy sinh không tiếc tuổi xuân của mình cho dân tộc. Hình ảnh “áo bào thay chiếu” cho thấy sự tiếc thương của nhà thơ dành cho họ, các anh đã yên tâm về với đất mẹ thân thương, để được đất mẹ chở che mãi mãi.
Chứng kiến chặng đường của người lính, nay lại chứng kiến cả cái chết của các anh, sông Mã như gầm lên đau xót, tiếng thét vang lên mang âm hưởng tiếc thương sâu sắc với cuộc đời còn dài ở phía trước của họ. Nhưng dù có biết trước rằng mình có thể sẽ hy sinh, người lính Tây Tiến vẫn chẳng thể nào bỏ cuộc, bởi thiên nhiên núi rừng Tây Bắc đã lấy đi tâm hồn, chiếm được trái tim của các anh mất rồi:
“Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi.”
Bài thơ Tây Tiến với ba khổ thơ, lần lượt khắc họa những khó khăn, những khoảnh khắc vui tươi cũng như chân dung và tâm hồn người lính. Qua đó làm hiện lên cho ta hình ảnh một đoàn binh oai hùng, bất khuất trong thời kì chiến tranh. Ta thầm cảm ơn những anh hùng ấy vì đã chiến đấu ngoan cường, đem về cho đất nước nền độc lập như ngày hôm nay.
Bài làm
Những năm tháng khói lửa bom đạn trong chiến tranh gian khổ đã đi qua nhưng những bài thơ, lời ca ca ngợi cuộc kháng chiến hào hùng của dân tộc vẫn còn vang mãi tới bây giờ. Thơ ca thời kỳ kháng chiến luôn khắc họa những hình ảnh chân thực về những con người góp phần làm cho đất nước thống nhất, trong đó có người lính Việt Nam.
Tây Tiến của Quang Dũng là một trong những bài thơ hay trong kho tàng thơ ca cách mạng. Đọc bài thơ, người đọc cảm nhận được cảnh vật núi rừng Tây Bắc hùng vĩ mà nên thơ cùng hình ảnh người lính Tây Tiến hào hoa, lãng mạn mà vẫn rất dũng cảm, oai hùng và bi tráng trước sự hi sinh vì tổ quốc.
Bài thơ là nỗi nhớ da diết của nhà thơ Quang Dũng về đoàn quân Tây Tiến nơi ông gắn bó một thời gian dài. Miên man theo nỗi nhớ ấy, nhà thơ đã tái hiện lại hình ảnh núi rừng Tây Bắc rộng lớn, hùng vĩ nhưng cũng rất nên thơ, trữ tình.
“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”
Con đường hành quân của chiến sĩ là nơi núi cao đến “ngàn thước”, dốc núi sâu “thăm thẳm”, heo hút mà hùng vĩ. Hình ảnh một ngọn núi cao chót vót hiện lên trước mắt người đọc cùng với mây trời bảng lảng trôi lãng đãng cũng rất nên thơ. Thấp thoáng bên dưới những dốc núi cao ấy là hình ảnh những ngôi nhà của dân bản đang lấp ló trong màn “mưa xa khơi”.
Vùng đất Mai Châu còn hiện lên thật đẹp trong những “mùa em thơm nếp xôi”. Đọc đến đây, người đọc như hình dung ra những cánh đồng lúa ruộng bậc thang bát ngát, vàng óng báo hiệu một mùa bội thu với hương thơm ngào ngạt của lúa nếp, của bát xôi dẻo quện.
Mảnh đất miền Tây còn hiện lên đẹp đẽ hơn trong những đêm giao lưu văn nghệ với thôn bản trong hình ảnh “Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa”. Đuốc hoa tỏa ánh sáng rực rỡ cho màn đêm núi rừng, màu sắc sặc sỡ của “xiêm áo” các cô gái miền sơn cước tạo nên bức tranh nhiều màu sắc cỏ cả vẻ đẹp núi rừng và sự sống con người nơi đây. Một bức tranh đêm lửa trại ấm áp, vui vẻ với đủ màu sắc, ánh sáng và âm thanh của tiếng “khèn” càng làm thơ Tây Bắc nên thơ hơn bao giờ hết.
Qua cái nhìn của nhà thơ, núi rừng Tây Bắc càng nên thơ như một bức tranh đẹp với nhiều chi tiết nhỏ bé thân thương:
“Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người bên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”
Châu Mộc mang một vẻ đẹp huyền bí với những chiều sương giăng lối, lau bên những bến bờ đung đưa trước gió, lấp ló trong màn sương chiều. Đặc biệt, một hình ảnh bé nhỏ nhưng lại giàu sức gợi, đó là những bông hoa rừng như hoa mơ, hoa mận, hoa lan…đang “đung đưa” theo “dòng nước lũ”. Hình ảnh rất đỗi thân thương ấy cũng góp phần tạo nên một thiên nhiên nơi núi rừng miền Tây đẹp đẽ, nên thơ, hữu tình.
Cùng hình ảnh đẹp về thiên nhiên nơi núi rừng Tây Bắc và cuộc sống sinh hoạt cộng đồng của con người nơi đây, bài thơ cũng khắc họa được hình ảnh những người lính Tây Tiến hào hoa, tâm hồn trẻ trung và cũng rất quả cảm, bi tráng.
Những người lính Tây Tiến xuất thân từ trí thức trẻ, là những người học sinh, sinh viên gác bút nghiên lên đường chiến đấu vì lý tưởng cao đẹp, độc lập tự do cho dân tộc Việt Nam. Bởi thế, tâm hồn họ rất tinh tế, trẻ trung là một điều dễ hiểu. Với sự trẻ trung trong tâm hồn, người lính luôn nhìn cuộc sống một cách lạc quan, đứng trên đỉnh núi cao như chạm tới mây trời, họ hài hước ví von “súng ngửi trời”. Gặp bệnh tật nơi rừng hoang, sương muối khiến các anh có bị rụng tóc, hay làn da xanh xao vàng vọt, thì người lính vẫn có cái nhìn lạc quan:
“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá giữ oai hùm”
Những người lính trong đoàn binh Tây Tiến yêu đời là vậy, họ còn lãng mạn bay bổng lắm. Phải có một cái nhìn tinh tế và tâm hồn lãng mạn, người lính mới cảm được cái vẻ đẹp của “mùa em thơm nếp xôi”, cảm được vẻ đẹp của “chiều sương”, của “hồn lau” cùng những bông hoa nhỏ xinh “đong đưa” trôi trên “dòng nước lũ”. Và phải thật lãng mạn họ mới có những giấc mơ bay bổng “đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”. Mơ về dáng kiều thơm cũng chính là nỗi nhớ về những người con gái Hà Nội, nhớ về đất Hà thành nơi các anh gắn bó những ngày tới trường.
Tâm hồn trẻ trung, lãng mạn của người lính còn được khắc họa trong những buổi giao lưu văn nghệ ấm tình quân dân:
“Doanh trai bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viêng Chăn xây hồn thơ”
Người lính cũng say sưa, vui vẻ hòa mình vào không gian của lễ hội Tây Bắc. Vẻ đẹp của cảnh sắc và con người lung linh khiến những người lính trở nên ngỡ ngàng thốt lên “kìa em”. Qua cái nhìn của các anh, những bó đuốc sáng rực như những bông hoa phát sáng lung linh. Từ những tiếng khèn, tiếng nhạc, người lính mơn man xây lên những “hồn thơ” đẹp đẽ, trong sáng. Hai từ “hồn thơ” lại càng khẳng định vẻ lãng mạn, chất thi sĩ trong tâm hồn những người lính xuất thân từ trí thức này.
Vẻ đẹp của người lính Tây Tiến trở nên đẹp đẽ hơn, như khúc ca tráng lệ về sự hào hùng, bi tráng trước sự hi sinh bất tử:
“Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
Nơi khói lửa can qua, sau những trận đánh lớn, biết bao người lính hiên ngang đã ngã xuống. Hình ảnh ” biên cương mồ viễn xứ” đều sử dụng các từ hán việt khiến câu thơ mang một màu sắc cổ kính hơn, bi hùng hơn. Câu thơ gợi lên một bức tranh về những nấm mồ rải rác nơi biên ải xa xôi sau những trận đánh ác liệt.
Nhưng nói lên hiện thực ấy để nhà thơ khẳng định một điều rằng người lính dù hi sinh vẫn không hề nuối tiếc “chẳng tiếc đời xanh”. Nó như một lời thề sắt son của các anh, nguyện “quyết tử cho tổ quốc quyết sinh”. Người chiến sĩ ra đi cũng thật hiên ngang như những vị tướng sĩ ngày xưa, về với đất mẹ kính yêu.
Câu thơ “sông Mã gầm lên khúc độc hành” mang một vẻ đẹp thật hào hùng, nó giống như một khúc ca vang lên thống thiết tiễn đưa những người lính. “Sông Mã” cũng như cả đất nước thổn thức “gầm lên” trước sự ra đi ấy, nó cũng thể hiện sự đau đớn biến thành sức mạnh để những người lính, những người đồng đội của các anh tiếp tục chiến đấu cho tổ quốc tự do, độc lập. Tới đây, mạch thơ như trào dâng mãnh liệt, kết thúc với một “khúc độc hành” tạo nên bức tượng đài bi tráng về người lính Tây Tiến.
Bài làm
Thạch Lam là một cây bút tiêu biểu của nhóm Tự lực văn đoàn, cũng là một nhà văn tiêu biểu của văn học Việt Nam những năm 1930- 1945. Tuy sáng tác không nhiều nhưng những tác phẩm văn chương của Thạch Lam lại thấm đượm những giá trị nhân văn sâu sắc, những câu chuyện của đời sống vô cùng bình dị được nhà văn đưa vào tác phẩm với những điểm nhấn tạo thành những tác phẩm có giá trị, có sức hấp dẫn đặc biệt đối với bao thế hệ độc giả xưa- nay. Để tìm hiểu về phong cách, tư tưởng của nhà văn Thạch Lam, ta có thể phân tích thông qua truyện ngắn “Dưới bóng hoàng lan”.
“Dưới bóng hoàng lan” là một trong những truyện ngắn tiêu biểu của Thạch Lan, cốt truyện nhẹ nhàng, khung cảnh làng quê gần gũi nhưng người đọc vẫn cảm nhận được những cái độc đáo, mới lạ mà nhà văn Thạch Lam mang đến, đó chính là hương vị của con người, của tình người. Những tình cảm ngỡ như đơn sơ, giản dị nhưng lại vô cùng thầm kín, có sức lay động mạnh mẽ đến tâm thức, trái tim của người đọc, người nghe.
Truyện ngắn “Dưới bóng hoàng lan” viết về nhân vật Thanh thông qua một lần trở về quê hương, thăm bà, gặp lại những người anh luôn yêu thương, tôn trọng. Truyện ngắn còn là một khung cảnh đơn sơ, giản dị nhưng đầy chất thơ, thấm đượm hương vị của tình người. Thanh vốn mồ côi cha mẹ từ nhỏ, người thân yêu duy nhất của Thanh đó là bà, tuổi thơ của Thanh là một cuộc sống vất vả nhưng luôn tràn đầy hơi ấm, tình yêu, sự chở che của người bà. Do đó, với chàng thanh niên ấy mà nói, người bà vừa là người cha, người mẹ, cũng là người thân duy nhất của anh.
Từ khi Thanh lên thành phố công tác thì ngôi nhà vốn neo người của bà cháu anh càng trở nên hoang vắng, quạnh quẽ hơn “Yên tĩnh quá, không một tiếng động nhỏ trong căn vườn, tựa như bao nhiêu sự ồn ào ngoài kia đều ngừng lại trên bậc cửa”, dù xa nhà một thời gian dài nhưng mỗi lần trở về thăm quê thì ngôi nhà ấy vẫn chẳng có sự đổi thay nào, tựa như tình yêu thương nơi người bà vậy “ …cảnh tượng gian nhà cũ không có gì thay đổi, cũng y như ngày chàng đi khi xưa”. Sự tĩnh lặng của căn nhà bỗng gợi lên trong Thanh biết bao tư vị, khiến anh “…trở nên nghẹn họng”.
Chỉ qua những dòng đầu tiên của tác phẩm thôi nhưng chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy ở Thanh một tình yêu quê hương da diết, một thứ tình cảm gắn bó thiêng liêng với ngôi nhà, mà trên tất cả là với người bà mà anh rất mực yêu thương, kính trọng. Vì vậy mà mỗi lần về thăm quê, Thanh không tránh khỏi cảm giác bồi hồi, mừng rỡ, đó là thứ tình cảm của một người con xa quê khi được trở về nơi mái nhà thân yêu, nơi quê hương mình được sinh ra, được lớn lên “…Khi Thanh từ giã cái bức nóng của phố xã, bước chân vào ngôi nhà mát rượi của bà, gặp lại những gì thương mến sau hai năm xa cách. Sự chăm sóc ân cần của bà, hương ngọc lan dịu ngọt phảng phất đâu đây đem đến chàng sự nhẹ nhõm….” Đó là sự nhẹ nhõm của tâm hồn con người luôn yêu quê, hướng về quê hương.
Các trang văn của Thạch Lam luôn vậy, nhẹ nhàng, giản dị nhưng lại có sức lay động đến bình dị. Theo bước chân Thanh, người đọc như được hòa nhập làm một với nhân vật, cùng trải qua bao trạng thái, cảm xúc, từ bồi hồi, mừng rỡ đến hạnh phúc ngập tràn khi gặp lại người bà. Chỉ một câu nói của bà “Đi vào trong nhà không nắng cháu” khiến cho người đọc xúc động khôn nguôi, sự quan tâm dù rất nhỏ bé nhưng lại thể hiện được tình cảm, tấm lòng bao la của người bà đối với Thanh, luôn quan tâm đến cháu từ những thứ nhỏ nhặt nhất.
Vì vậy mà dù đã khôn lớn, trưởng thành nhưng khi ở bên bà Thanh luôn cảm thấy mình như một đứa nhỏ, được yêu thương, chăm sóc bởi bà: “Thanh đi bên bà, người thẳng, mạnh, cạnh bà cụ gầy còng. Tuy vậy, chàng cảm thấy chính bà che chở cho chàng, cũng như những ngày chàng còn nhỏ”. Thế mới nói tình cảm gia đình, mà ở đây là tình bà cháu thật vĩ đại, thiêng liêng, nó làm cho con người ta cảm thấy nhỏ bé, tâm hồn như được trở về tuổi thơ để đón nhận từng cử chỉ, từng quan tâm của những người mà ta yêu quý nhất.
Trở về thăm nhà sau hai năm xa quê, gặp lại bà, được nhận những yêu thương, quan tâm của bà, Thanh có cảm giác như được trở về với tuổi tthow “…tất cả những ngày thuở nhỏ trở lại với chàng”. Sự xa cách của thời gian cũng không thể làm đổi thay những cảnh vật ngôi nhà, càng không tác động được đến thứ tình cảm thiêng liêng, bền vững của tình bà cháu “…Thanh vắng nhà đã gần hai năm nay, vậy mà chàng có cảm giác như vẫn ở nhà tự bao giờ. Phong cảnh vẫn y nguyên, gian nhà vẫn tịch mịch và bà chàng vẫn tóc bạc phơ và hiền từ”.
Tình yêu nhẹ nhàng giữa Thanh và Nga cũng khiến cho người đọc cảm thấy xúc động bởi nó trong sáng, lại rất đáng yêu, qua những đoạn đối thoại của Thanh và Nga, lời yêu chưa từng được nói ra nhưng ta vẫn có thể cảm nhận được bao nhiêu tình ý chứa trong đó. Sự nhẹ nhàng, tinh tế khi Thanh cài lên mái tóc Nga bông hoa hoàng lan, theo tôi đó chính là khoảnh khắc lãng mạn, tinh tế của đôi lứa. Dù sau đó Thanh vẫn tiếp tục phải lên đường, Nga ở lại, mỗi năm lại tự cài lên mái tóc của mình bông hoa hoàng lan như khi Thanh đang ở bên cạnh. Tình yêu chưa lời ngỏ, chuyện tình chưa đi được đến hồi kết nhưng sự nhẹ nhàng của tình yêu ấy cũng đủ để lay động biết bao tâm hồn.
Chất thơ của truyện ngắn “Dưới bóng hoàng lan” còn được thể hiện rõ nét qua nhân vật người bà. Người bà tuy xuất hiện không hẳn nhiều nhưng qua vài chi tiết, những hành động, những lời nói quan tâm ta có thể cảm nhận trọn vẹn được tình cảm bao la của người ba dành cho người cháu yêu thương của mình. Từ lời quan tâm “Đi vào trong nhà không nắng cháu” đến lời thúc giục cháu đi rửa mặt rồi nghỉ ngơi “ Con rửa mặt đi, rồi đi nghỉ không mệt. Trời nắng thế này mà con không đi xe ư?….”. Sợ cháu mệt, bà sửa gối chiếu, dùng phất trần để phủi bụi trên giường, bà giục cháu nghỉ ngơi còn mình thì xuống bếp nấu ăn vì sợ cháu đói.
Người bà quan tâm từng việc nhỏ nhặt nhất của người cháu. Đối với Thanh khi ở bên bà lúc nào cũng có cảm giác được che chở, được quan tâm thì đối với bà, người cháu dù có lớn khôn đến đâu thì với bà lúc nào cũng là một đứa nhỏ cần được yêu thương, chăm sóc: “ …Ở đấy, bà chàng lúc nào cũng sẵn sàng chờ đợi để mến yêu chàng”. Tình yêu thương của bà giản dị nhưng thật thiêng liêng, cao quý biết bao!
Từng cử chỉ, hành động của bà đều khiến ta cảm động, bà luôn ân cần chăm sóc cho Thanh “Bà lại gần săn sóc buông màn, nhìn cháu và xua đuổi muỗi, gió quạt nhẹ trên mái tóc chàng”. Tuy chỉ được miêu tả qua một câu ngăn ngủi nhưng ta dường như còn cảm nhận được ánh mắt trìu mến, nụ cười ấm áp, hiền từ của người bà. Ánh mắt ấy là cả trời yêu thương, quan tâm đến đứa cháu làm cho Thanh “..cảm động ứa nước mắt”, còn đối với người đọc như được trở về với những kí ức bên người bà, mỉm cười hạnh phúc với những kỉ niệm thân yêu của chính mình.
Truyện ngắn “Dưới bóng hoàng lan” là một câu chuyện nhẹ nhàng, giản dị nhưng đầy tinh tế, sâu sắc, bởi nó mang đến cho người đọc cảm giác thư thái, nhẹ nhàng thông qua câu chuyện của Thanh. Sở dĩ nó mang lại cho con người biết bao cảm xúc yêu thương, trìu mến bởi nó khơi gợi được thứ tình cảm gắn bó, sâu kín ở mỗi người, đó là tình yêu quê hương, tình cảm gia đình, tình yêu đầu đời.
Bài làm
Giữa bộn bề ngột ngạt của cuộc sống xô bồ, tìm về với những áng văn Thạch Lam viết về thiên nhiên thơ mộng trữ tình, ta thấy lòng nhẹ nhõm và bình yên đến lạ! Bức tranh quê trong đa số tác phẩm truyện ngắn Thạch Lam, luôn chứa đựng những gì tinh khôi và đẹp đẽ nhất, Thạch Lam là một cây bút được coi là hàng đầu của văn xuôi Việt Nam. Thạch Lam đã để lại rất nhiều tác phẩm có giá trị trong đó có tác phẩm Dưới bóng hoàng lan. tác phẩm là truyện ngắn không có cốt truyện. Nó không kể một câu chuyện mà nó gợi sâu suy nghĩ. Thời gian đọng lại không gian tĩnh lặng hé lộ kín đáo bi kịch đời người màn người đọc phải cảm nhận kĩ mới cảm nhận được. Đó chính là cái thú vị cái đặc sắc của tác phẩm.
Chuyện kể về một chàng trai mồ côi cha mẹ, hai bà một cháu quấn quýt nhau. Thanh ra tỉnh làm rồi đi về hàng năm, các ngày nghỉ. Lần trở về này đã cách kỳ trước hai năm. Có phải đời sống thị thành đã nhiều lúc khiến Thanh quên bằng người bà tóc bạc phơ đang sống những ngày cuối cùng trong đời mỏi mắt trông chờ anh, đáp lại tiếng gọi bà ơi một cái bóng nhẹ từ bên trong vụt ra rơi xuống mặt bàn anh chàng định thần nhìn con mèo của nhà anh chàng. Thanh mỉm cười lại gần vuốt ve con mèo “Bà mày đâu”. Cũng như bao lần Thanh trở lại ngôi nhà cũ nhưng dường như ngôi nhà thân thuộc ấy phần nào lại khiến cho anh chàng cảm thấy hồi hộp bồi hồi đến kì lạ khiến chàng thấy cảm động quá. Chốn Thanh về mọi thứ đều già cỗi và không đổi. Thời gian như quay ngược lại, không gian đứng lặng. Phong cảnh vẫn y nguyên, gian nhà vẫn tịch mịch và bà chàng vẫn tóc bạc phơ và hiền từ. Trong cảnh bình yên và thong thả của chốn xưa, một hình ảnh tươi mát hiện lên. Khu vườn xưa hiện lên trước mắt anh chàng với con đường Bát Tràng rêu phủ với những vòm ánh sáng lọt qua vòm cây với bức tường hoa thấp chạy thẳng đến đầu nhà với cả một mùi lá tươi non phảng phất trong không khí. Tất cả hiện lên trước mắt chàng thanh niên vốn quen thuộc nhưng lại rất mát mẻ và dịu dàng đối với người anh đến lạ thường. Và hình ảnh những cô thiếu nữ xinh xắn trong tà áo trắng, mái tóc đen lánh buông trên cổ nhỏ, bên cạnh mái tóc bạc trắng của bà chàng cũng khiến chàng thanh niên trẻ xốn xang và hơi dao động phần nào. Chàng cảm thấy không gian náo nhiệt ồn ào ngoài kia như đang dừng lại trên bậc cửa.
Bài làm
Mỗi con người sinh ra, theo thời gian mà lớn lên, đều mang trong mình những kỉ niệm. Tôi cũng vậy. Kỉ niệm mà đến giờ tôi vẫn còn nhớ mãi đó khi mẹ tôi đưa tôi đi thi đầu vào lớp 10. Ngày thường, tôi tự mình đạp xe đi học, tự mình đi thi. Nhưng kì thi vào lớp 10 này có thể xem là một dấu mốc, hết sức quan trọng. Chính vì vậy, tôi muốn có mẹ ở bên, giúp đỡ và động viên tôi. Thế là suốt hai ngày thi, mẹ đã đưa tôi đi thi, đón tôi về nhà và nấu cho tôi những món thật ngon. Cuối cùng, tôi cũng đã vào được trường mà mình mong muốn. Sau này, mỗi khi thấy cảnh các bạn học sinh đi thi, tôi đều nhớ lại kỉ niệm năm xưa của mình.
Bài làm
Kỉ niệm về một lần mẹ đưa đi thi luôn in đậm trong tâm trí, khiến tôi không bao giờ quên. Mọi ngày tôi vẫn thường tự đạp xe đi học. Tuy nhiên, vào kì thi lớp 10 năm đó, mẹ đã dành thời gian đưa tôi đến trường. Trời hè nắng nóng, mẹ luôn ân cần, quan tâm, chăm sóc cho tôi. Tình yêu thương của mẹ đã giúp tôi hoàn thành bài thi một cách tốt nhất. Cuối cùng, tôi đã đỗ được vào trường cấp ba mà mình yêu thích. Mẹ rất vui và hãnh diện. Bây giờ, mỗi khi nhìn lại hình ảnh các bạn học sinh được bố mẹ đưa đến trường đi thi, tôi lại nhớ về khoảnh khắc vô giá ấy. Chính mẹ đã tiếp thêm động lực để tôi có thể viết nên ước mơ của riêng mình.
Bài làm
“Thơ là người thư kí chân thành của trái tim” (Duybralay). Rung lên từ tâm hồn người nghệ sĩ, thơ tựa như một bản hoà ca với những giai điệu trầm bổng khác nhau. Giữa những cung bậc rộn ràng của phong trào “Thơ mới” Lưu Trọng Lư chỉ ra “một nốt trầm xao xuyến”, vang lên rất nhẹ, rất êm nhưng lắng động và lan tỏa trong lòng người. Không thoát lên như Thế Lữ, không điên cuồng như Hàn Mặc Tử, Lưu Trọng Lư lặng lẽ tìm cho mình một lối rẽ về quá khứ, về những hồi ức lung linh, sâu lắng trong tâm hồn. “Nắng mới” là một trong những bài thơ như thế. Ta bắt gặp ở đây một tâm hồn đầm thắm, mỏng manh và một nỗi buồn sâu lắng khiến ai đọc qua dù chỉ một lần cùng không thề nào quên.
Từ thửa bé thơ khi đọc Nắng mới của Lưu Trọng Lư, dù trí óc còn non nớt,chưa thẻ hiểu hết…nhưng lòng tôi lại rung lên, lại xao xác những nỗi niềm. Có lúc tôi tự hỏi: Tại sao tác phẩm lại tạo nên sự ám ảnh đến vậy? Phải chăng là sức mạnh của nghệ thuật bài thơ? Giờ đây,khi đối diện với văn bản tác phẩm, sau bao năm suy ngẫm, tôi muốn tìm cho lòng mình một sự lý giải. Hoài thanh khi nhận xét về thơ Lưu Trọnh Lư đã giải bày: “…Dầu có ưa thơ người này người khác, mỗi lúc buồn đến, tôi lại trở về với Lưu Trọng Lư. Có những bài thơ cứ vương vẩn trong trí óc tôi hang tháng, lúc nào cũng như văng vẳng bên tai”.
Bài thơ “Nắng mới” đã được vẻ đẹp nơi tâm hồn của Lưu Trọng Lư: Thành thực phiêu diêu trong cõi mộng, cứ để lòng mình tràn lan trên trang giấy. Tưởng như nhà thơ không hề làm nghệ thuật, chỉ là dòng chảy tự nhiên của cảm xúc.
Bài thơ trải dài theo mạch cảm xúc, kết cấu đan xen giữa quá khứ và hiện tại như một hồi ức về người mẹ thân yêu của nhà thơ. Không cần phải là “yên ba giang thượng” như của Thôi Hiệu, cùng không phải là cái ám ảnh “chiều chiều ra đứng ngõ sau trong ca dao – không gian – thời gian nghệ thuật ở đây chỉ là một buổi trưa buồn bên song cửa. Bình dị nhưng cũng đủ sức lay động lòng người con nhớ mẹ “ruột đau chín chiều”. Trong tiếng gà trưa xao xác, kỉ niệm chợt ùa về, đong đầy trong nỗi nhớ – khúc dạo đầu cất lên đã nghe dìu dắt vang ngân một nỗi buồn man mác, thiết tha:
“Mỗi lần nắng mới hắt lên song
Xao xác gà trưa gáy não nùng
Lòng rượi buồn theo thời dĩ vãng
Chập chờn sống lại những ngày không”.
Một không gian sao quá đỗi hiu hắt, nắng không rực rỡ tươi vui mà chỉ “hắt” bên song. Chỉ một từ “hắt” cả không gian một màu ảm đạm, một màu hoài niệm…Ở đây nghệ thuật lấy động tả tĩnh đươc tác giả sử dụng rất thành công, cái động của tiếng gà trưa xao xác chỉ làm rõ thêm cái tĩnh, cái mông lung mà thôi.
Nói là “Chập chờn sống lại” nhưng có lẽ nhà thơ nhớ rõ lắm, “màu áo đỏ tươi rực rỡ” trong nắng là chi tiết đặc sắc của bài thơ. Chính là sự kế tiếp của chi tiết nắng mới, là hệ quả của sự nhắc nhở và là màu lưu giữ những kỉ niệm không thể xóa nhòa trong lòng tác giả
Từ “nắng mới” trong tựa lại đề một lần nưa được chọn để mở đầu bài thơ như một sợi dây liên khúc, một nhịp cầu nối về quá khứ xa xưa. Nhưng “nắng mới” là nắng như thể nào? Người đọc chưa hiểu, chỉ cảm được rằng nắng ở đấy buồn lắm. Nắng không tươi tắn như trong thơ Hàn Mặc Tử; “Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên”. Dưới con mắt duyên của Xuân Diệu, nắng chỉ là một ảnh hình quen thuộc, soi rọi vào tiềm thức nhà thơ, gọi về những kỉ niệm xa xưa của một thời tươi đẹp. Cộng hưởng với màu sắc mới ấy còn có một âm thanh, cùng quen thuộc và buồn không kém là tiếng gà trưa xao xác não nùng. Từ hình ảnh “nắng mới hắt” có phần gắt với ba thanh trắc liền ở trên, câu thơ đến đây chợt chùng hẳn xuống, nặng trìu một nồi buồn qua các từ láy : “xao xác”, “não nùng”, “chập chờn” gợi một nỗi buồn dịu nhẹ, một tâm trạng quạnh hiu xa vắng. “Mỗi lần” lại nhắc nhở “mỗi lần”. Lời thơ viết giản dị, tự nhiên, không một chút cầu kỳ, gọt giũa đúng như Hoài Thanh đã nhận định: “Lư để lòng mình tràn lan trên mặt giấy” nhưng vẫn sức lay động lạ kỳ. Kỷ niệm ùa vẽ, lung linh trong màu nắng mới, đánh thức dậy trong tâm hổn nhà thơ cả một thời dĩ vãng tưởng đã nhạt nhòa:
“Lòng rượi buồn theo thời dĩ vãng
Chập chờn sống lại những ngày không”.
Hiện tại trước mắt mờ dần, nhường chồ cho quá khứ tràn về. Nhịp cầu đã bắc, hoài niệm mênh mang… “Những ngày không” phải chăng là những ngày ấu thơ, khi tác giả còn nhỏ, lòng chưa vướng bận điều gì. Vậy tại sao nó lại khắc sâu trong tâm khảm nhà thơ đến vậy? Bởi vì “những ngày không” ấy đã in dấu một kỷ niệm hay hình ảnh một người nào?
Mạch thơ liên tục, trái dài sang khổ hai để chuyển hoàn toàn về quá khứ. Thuyền hồn đã cập bến “ngày xưa”, câu chuyện cổ tích về một người mẹ đã bắt đầu:
“Tôi nhớ mẹ tôi thuở thiếu thời
Lúc người còn sống, tôi lên mười
Môi lần nắng mới reo ngoài nội
Áo đỏ Người đưa trước giậu phơi”.
Từ “nắng mới hắt bên song” gợi nhớ “nắng mới reo ngoài nội”, nhớ chiếc áo dẻ mẹ phơi trước giậu, bà mẹ lại mang áo rét ra phơi, để cất đi dành cho mùa rét tới. Cái nắng mới của hoài niệm này mới náo nức, mới tươi vui làm sao, đây nắng như bởi gắn với một cậu bé lên mười, với một người mẹ chăm chút, hiền dịu… cứ thế, nỗi nhớ này một thành hình, rõ nét hơn. Dù có tả nhưng khổ thơ thứ hai vẫn thiên về xác định thời điểm, địa điểm, chỉ đến khổ thơ cuối cảnh và tình mới thật quấn quít.
Hình ảnh người mẹ thân yêu của tác giả hiện lên, lúc đầu còn mờ nhạt nhưng càng về sau càng rõ nét và choáng đầy tâm trí. Qua cách nói dường như đang cố nén niềm thương nhớ chỉ chực dâng trào, ta chợt hiểu ra và đồng cảm sâu sắc với nỗi buồn của tác giả: người mẹ ấy không còn nữa và tất cả những gì nhà thơ còn nhớ về mẹ chỉ là chút kỹ niệm nhạt nhòa đọng lại trong tâm hồn non nớt, thơ ngây của đứa trẻ lên mười. Từ “nắng mới” là cái nắng mỗi độ xuân về, khi mẹ tác giả thường mang áo ra phơi để áo thơm mùi nắng sau những ngày đông rét mướt. Nắng thì năm nào chẳng có, sao gọi là “mới”? Nhưng như người ta thường chờ ngày mùa để ăn “gạo mới”, lòng trẻ vần náo núc chờ mong ngày nắng lại về, để cùng mẹ phơi áo bên giậu thưa. Cũng là “nắng mới” nhưng cái nắng của quá khứ không “hắt bên song” buồn bà mà tràn đầy sức sống, niềm vui “reo ngoài nội” vì đó là nắng của những ngày còn mẹ. Từ “reo” như một nốt nhạc lành lót, tươi vui khiến câu thơ chợt bùng lên sức sống.
Hình ảnh người mẹ chưa hiện lên trực tiếp mà chỉ thấp thoáng, lung linh sau màu áo đỏ, sau lưng giậu nhưng đã gây một ân tượng mạnh mẽ trong lòng người đọc. Đó có lẽ cũng là hình ảnh đẹp đẽ nhất, trìu mến thương yêu nhất mà nhà thơ còn lưu giữ, khắc sâu trong tâm trí. Màu đỏ của chiếc áo trong tiếng nắng reo làm cho câu thơ sáng lên, ấm nóng hơn. Có lẽ cũng nhờ màu đỏ ấy mà việc phơi áo của mẹ càng trở thành một điểm son trong nỗi nhớ về tuổi thơ. Màu đỏ của chiếc áo là một chi tiết nghệ thuật rất đặc sắc, nó làm cho kỉ niệm trong sáng, làm ấm nóng một tâm hồn lạnh lẽo khi phiêu dạt về tuổi thơ lúc còn mẹ. Thử cắt màu đỏ đi: “Chiếc áo người đưa trước giậu phơi”, hình ảnh của kì niệm xám lại ngay.
“Hình dáng mẹ tôi chửa xóa mờ
Hãy còn mường tượng lúc vào ra
Nét cười đen nhánh sau tay áo
Trong ánh trưa hè trước giậu thưa”.
Mạch thơ lại quay về hiện tại, nhà thơ sực tỉnh nhưng vần chưa hết thổn thức, bồi hồi. Hình ánh người mẹ vẫn còn đó, nơi đồng nội, giậu phơi, nơi hiên nhà, song cửa… Dường như đâu đâu cũng in bóng dáng mẹ, vương hơi ấm của mẹ nên nỗi nhớ lúc nào cùng chỉ chực dâng trào. Và phải chăng “nắng mới” chỉ như cái cớ, chi là giọt nước làm tràn đầy ly thương nhớ.
Bài thơ kết thúc bằng hình ảnh “nét cười đen nhánh”, như một nốt lặng cuối bàn nhạc đế dư ba, dư vị cùa ý thơ còn lan tỏa mài trong lòng người đọc. Dáng hình người mẹ như hiện lên rõ rệt trong tâm tưởng nhà thơ. Chi tiết gây ấn tượng nhất Nắng mới là “nét cười đên nhánh” của người mẹ. Câu thơ rất tạo hình.Chân dung bà mẹ hiện lên chỉ nơi trong hình ảnh ấy. Không phải “miệng” cười hay “nụ” cười mà là “nét”, lại “đen nhánh”! Hình ảnh thơ bỗng sắc, bỗng lấp lánh hơn. Đây là chi tiết duy nhất miêu tả người mẹ nhưng nó cũng là điểm son hội tụ tất cả cái hồn của bức chân dung. Không phải là “nụ cười” hay “miệng cười” mà là “nét cười” vì cái cười ấy rất kín đáo, rất nhẹ, rất nhanh, dường như chỉ lướt qua trên khuôn mặt chứ chưa kịp động lại thành một nụ cười, mà lại là “nét cười đen nhánh” nữa. Lưu Trọng Lư không nói thẳng như Hoàng cầm:
“Nhưng cô hàng xén răng đen
Cười như mùa thu tỏa nắng”.
(Bên kia sông Đuống)
Mà lại “đi tắt” để tạo nên một kết hợp từ độc đáo và thú vị, hay nói theo cách của Hoài Thanh: “câu thơ mất đi một tí rõ ràng để được thêm rất nhiều mơ mộng”. Hình ảnh “tay áo” đã đẩy “nét cười” ra phía sau, tạo nên độ sâu cho bức tranh, đồng thời tăng thêm sức duyên dáng, gợi cảm cho “nét cười”. Ta đã từng bắt gặp trong thơ Hàn Mặc Từ một hình ánh cùng đẹp và tinh tế như thế; “Lá trúc che ngang mặt chữ điền” (Đây thôn Vĩ Dạ) nhưng có lẽ hình ảnh “nét cười” ở đây có hồn, có sức gợi cảm hơn nhiều vì đó là khoảnh khắc, là hình ảnh đẹp đẽ nhất mà ống kính tâm hồn nhà thơ đã chụp được và lưu trữ mãi. Hình ánh người mẹ quá cố của nhà thơ từ đầu đến cuối chỉ được phác họa qua ba chi tiết: “nắng mới”, “áo đỏ” và “nét cười”, trong những giây phút xuất thân của họa sĩ – thi sĩ Lưu Trọng Lư, nó đã để lại một ấn tượng đẹp và sâu sắc. Phải chăng là vì ta chợt bắt gặp trong hình ảnh đó một cái gì rất đổi thân quen như của mẹ ta mà cùng là của tất cả những người phụ nữ Việt Nam thầm lặng hy sinh, thương yêu, chăm sóc chồng con suốt cả cuộc đời.
Không gian nghệ thuật ám ảnh không tách rời hình ảnh người mẹ… có thể hình ảnh ấy của bà mẹ đã đọng lại và lưu mãi trong tâm trí người đọc khi bài thơ đã hết, tạo một nỗi bùi ngùi thương cảm. Cũng là Hoài Thanh khi nói về nhà thơ: “…Trong khi làng thơ Việt Nam đương đi tìm một nghệ thuật mới lạ, những tình cảm khuất khá, những hình sắc phiền phức của thiên nhiên, thì Lư chỉ có một ít khúc đàn bình dị, một ít khúc đàn xưa, dầu có đổi xoay đổi điệu cũng vẫn là những khúc đàn xưa”.
“Nắng mới” là một bài thơ thoạt đọc qua không có gì đặc biệt, nhưng nếu có một tâm hồn đồng cảm, một tình yêu sâu nặng với người đã sinh thành ra mình thì bài thơ thực sự là một tiếng đàn đồng điệu. Hoài Thanh đã từng nói: “Thơ Lưu Trọng Lư không phải là một bài thơ, nghĩa là không phải là một công trình nghệ thuật mà là tiếng lòng thốn thức hòa theo tiếng thổn thức của lòng ta”.
Nghệ thuật của bài thơ sao quá thật bình dị, vẫn là thể thơ bảy chữ, ngôn ngữ cũng rất bình dị… không có những phá cách, những đột phá trong nhịp điệu, trong âm luật… vẫn là những khúc đàn bình dị nhưng sao lại ám ảnh đến vậy? Có thể nói, thành công đặc biệt của bài thơ là đã tạo nên được những chi tiết nghệ thuật – dù ít thôi nhưng rất đặc sắc, làm chói sáng cả bài thơ… thế mới biết, nghệ thuật nhiều khi không phải là những gì quá lớn lao, xa vời vượt qua tầm nắm của người thường, mà có lúc nó thật gần gũi và bình dị…Chính bởi cái bình dị, mộc mạc ấy đã khiến cho bài thơ có một sức sống trường tồn trong lòng độc giả.
Bài làm
“Đi khắp thế gian, không ai tốt bằng mẹ
Gánh nặng cuộc đời, không ai khổ bằng cha.
Nước biển mênh mông không đong đầy tình mẹ
Mây trời lồng lộng không phủ kín lòng cha
Tần tảo sớm hôm mẹ nuôi con khôn lớn
Mang cả tấm thân gầy cha che chở đời con
Ai còn mẹ xin đừng làm mẹ khóc
Đừng để buồn lên mắt mẹ nghe con.
Đêm nay con ngủ giấc tròn
Mẹ là ngọn gió của con suốt đời.”
Tình mẫu tử có lẽ là tình cảm thiêng liêng nhất trên cuộc đời này. Mẹ là người sinh ra chúng ta, yêu thương và chăm sóc chúng ta vô điều kiện. Có lẽ chính vì vậy, tình mẫu tử từ xa xưa đã trở thành đề tài sáng tác bất tận cho văn học và nghệ thuật. Trong vô số những tác phẩm viết về mẹ, về tình mẫu tử, không thể không nhắc đến bài thơ Nắng mới của nhà thơ Lưu Trọng Lư, trích từ tập “Tiếng thu”. Bài thơ là nỗi nhớ về mẹ và tình yêu mẹ tha thiết của một tác giả, người con chỉ còn có thể gặp mẹ ở trong mơ.
Ngay từ đầu bài thơ, tác giả đã đề dòng chữ “Tặng hương hồn mẹ”, đúng vậy, mẹ của nhà thơ Lưu Trọng Lư không còn trên cõi đời này nữa, nhưng tình yêu mẹ của tác giả thì vẫn còn đó, những kỉ niệm khi xưa có mẹ vẫn sẽ theo tác giả đến hết cuộc đời. Khổ đầu tiên của bài thơ chính là bức tranh thiên “nắng mới” làm gợi nhớ những kí ức xưa của tác giả:
“Mỗi lần nắng mới hắt bên song,
Xao xác, gà trưa gáy não nùng,
Lòng rượi buồn theo thời dĩ vãng,
Chập chờn sống lại những ngày không.”
Nắng mới chính là nắng đầu xuân, cái nắng nhẹ nhàng và êm dịu, xua tan đi cái lạnh và ẩm ướt của mùa đông. Nắng mới hắt “bên song” cửa, cùng với tiếng gà gáy trưa não nùng đã tạo nên một khung cảnh thật bình yên nhưng cũng vắng vẻ, cô liêu. Khung cảnh đó làm cho tác giả Lưu Trọng Lư “lòng rượi buồn” và đưa tâm hồn tác giả trở về miền kí ức xưa cũ, những kỉ niệm xưa “chập chờn” sống lại trong tác giả.
Quay về với những kỉ niệm xưa, lòng tác giả dâng trào bao nỗi nhớ về người mẹ quá cố của mình:
“Tôi nhớ mẹ tôi, thuở thiếu thời
Lúc người còn sống, tôi lên mười;
Mỗi lần nắng mới reo ngoài nội,
Áo đỏ người đưa trước giậu phơi.
Hình dáng mẹ tôi chửa xoá mờ
Hãy còn mường tượng lúc vào ra:
Nét cười đen nhánh sau tay áo
Trong ánh trưa hè trước giậu thưa.”
Nhà thơ Lưu Trọng Lư bộc lộ nỗi nhớ mẹ một cách trực tiếp “Tôi nhớ mẹ tôi, thuở thiếu thời”. Tác giả vẫn nhớ rõ ràng, khi mẹ còn sống, tác giả “lên mười”. Khi nắng mới về, mẹ trong tà áo đỏ quen thuộc sẽ mang quần áo của nhà thơ ra phơi lên giậu, để cho con mặc chiếc áo thơm mùi nắng sạch sẽ, dễ chịu. Nắng khi đó còn “reo ngoài nội”, có lẽ bởi vì còn có mẹ, nên hương đồng cỏ nội cũng như tác giả đều vui sướng và hạnh phúc vô cùng. Hình ảnh mẹ hiện lên rõ nét hơn trong khổ thơ tiếp theo. Nhà thơ Lưu Trọng Lư khẳng định rằng hình dáng mẹ còn chưa “xóa mờ” trong tâm trí của mình, nó vẫn rõ nét và lúc nào cũng tồn tại trong tâm trí của tác giả. Ông vẫn “mường tượng” được hình ảnh của mẹ xung quanh, lúc vào, lúc ra, thật bận rộn làm sao để chăm lo cho gia đình của mình. Trong toàn bộ bài thơ, không có bất kì một câu nào nhận xét cụ thể mẹ của nhà thơ Lưu Trọng Vũ, nhưng chắc chắn mẹ là một người phụ nữ rất đẹp và hiền dịu. Vì mẹ có “nét cười đen nhánh”, đây là kiểu cười nhẹ nhàng, dịu dàng và chỉ thoáng qua. Có lẽ đó là điều nhà thơ nhớ nhất về mẹ của mình. Và dù là mùa nắng đầu xuân hay nắng gắt trưa hè, trong kí ức của nhà thơ Lưu Trọng Lư, mẹ vẫn “đứng trước giậu phơi”, để làm một công việc bình dị đó là phơi đồ, nhưng đó sẽ mãi là hình ảnh ấm áp và an ủi tâm hồn tác giả nhất mỗi khi nhớ mẹ.
Bài thơ Nắng mới của tác giả Lưu Trọng Lư chỉ sử dụng những từ ngữ đơn giản nhưng lại đậm chất gợi hình, gợi cảm đã thể hiện thành công nỗi nhớ và tình yêu tha thiết dành cho người mẹ quá cố của tác giả. Qua đó, chúng ta có thể thấy được vẻ đẹp của mẹ, một người phụ nữ Việt Nam truyền thống dịu dàng, chu đáo và luôn yêu thương, chăm sóc gia đình. Bài thơ như gửi gắm tới mỗi người một thông điệp ý nghĩa, đó là “Ai còn mẹ xin đừng làm mẹ khóc, đừng để buồn lên mắt mẹ nghe không?”
Bài làm
"Thần Trụ Trời” là một tác phẩm dân gian truyền miệng của người Việt cổ được sản sinh từ thời tối cổ và còn tồn tại đến ngày nay, được nhà khảo cứu văn hóa dân gian Nguyễn Đổng Chi sưu tầm, kể lại bằng bản văn trong “Lược khảo về thần thoại Việt Nam”. Qua truyện thần thoại này, người Việt cổ muốn giải thích nguồn gốc các hiện tượng thiên nhiên như vì sao có trời, có đất và vì sao trời với đất lại được phân đôi, vì sao mặt đất lại không bằng phẳng có chỗ lõm có chỗ lồi, vì sao có sông, núi, biển, đảo.
Cho thấy người Việt cổ cũng như nhiều dân tộc khác trên thế giới này đã cố gắng tìm để hiểu rõ những gì có xung quanh họ. Vì cũng chưa tìm hiểu được nhưng họ lại không chịu bó tay, họ bèn sáng tạo ra một vị thần khổng lồ để giải thích tự nhiên vũ trụ một cách hết sức ngây thơ và đáng yêu. Độc giả ngày nay cảm nhận được trong đó cái hồn nhiên và ước mơ của những người Việt cổ muốn vươn lên để giải thích thế giới tự nhiên quanh mình.Mọi chi tiết kể và tả Thần Trụ Trời đều gợi những vòng hào quang, điểm tô tính chất kỳ lạ, phi thường của nhân vật, thần thoại. Truyện đã nhân cách hóa vũ trụ thành một vị thần.
Hành động đầu tiên khi Thần Trụ Trời xuất hiện là “vươn vai đứng dậy, ngẩng cao đầu đội trời lên, giang chân đạp đất xuống,…” cũng là hành động và việc làm có tính phổ biến của nhiều vị thần tạo thiên lập địa khác trên thế giới. như ông Bàn Cổ trong thần thoại Trung Quốc cũng đã làm giống hệt như vậy. Tuy nhiên vẫn có điểm khác biệt chính là sau khi đã xuất hiện trong cõi hỗn độn giống như quả trứng của vũ trụ, ông đạp cho quả trứng tách đôi, nửa trên là trời, nửa dưới là đất và ông tiếp tục đẩy trời lên cao, đạp đất xuống thấp bằng sự biến hóa, lớn lên không ngừng của bản thân ông chứ không phải như Thần Trụ Trời đã xây cột chống trời.
Như vậy cho thấy việc khai thiên lập địa của ông Thần Trụ Trời ở Việt Nam và ông Bàn Cổ ở Trung Quốc vừa có điểm giống nhau vừa có điểm khác nhau. Và đó cũng chính là nét chung và nét riêng có ở trong thần thoại của các dân tộc. Từ cái ban đầu vốn ít ỏi, người Việt cổ cũng như các dân tộc khác trên thế giới không ngừng bổ sung, sáng tạo làm cho nền văn học, nghệ thuật ngày một đa dạng hơn. Chúng ta cũng có thể đánh giá về kho tàng thần thoại Việt Nam đối với nền nghệ thuật Việt Nam như thế nào. Cũng nhờ nghệ thuật phóng đại mà các nhân vật thần thoại có được sức sống lâu bền, vượt qua mọi thời gian để còn lại với chúng ta ngày nay. Thần thoại đã tạo nên cho con người Việt Nam nếp cảm, nếp nghĩ, nếp tư duy đầy hình tượng phóng đại và khoáng đạt.
Truyện thần thoại “Thần Trụ Trời” vừa cho các bạn đọc biết được sự hình thành của trời đất, sông, núi, đá,…vừa cho thấy sự sáng tạo của người Việt cổ. Tuy truyện có nhiều yếu tố hoang đường, phóng đại nhưng cũng có cái lõi của sự thật là con người thời cổ đã khai khẩn, xây dựng, tạo lập đất nước.
Bài làm
Nhắc đến những câu chuyện cổ tích của nước ta, không thể bỏ qua truyện “Cây khế”. Đây được xem là một trong những tác phẩm truyện cổ tích đặc sắc nhất trong kho tàng truyện dân gian của nước ta.
Truyện kể về hai anh em nhà nọ mồ côi cha mẹ từ nhỏ, sống nương tựa vào nhau. Cha mẹ mất để lại cho hai anh em một cây khế và một chút ruộng vườn, của cải, tuy không khá giả nhưng hai anh em vẫn có cuộc sống no đủ. Từ khi người anh trai lấy vợ bỗng sinh ra lười nhác, mọi việc đều đổ hết lên đầu vợ chồng người em. Thậm chí sợ em tranh công nên anh trai đã chia gia tài, chiếm hết của nải, đẩy vợ chồng em ra túp lều nát với cây khế của cha mẹ để lại. Vợ chồng người em chăm chỉ làm lụng, chăm bẵm cho cây khế ra quả, chim quý đến ăn và đã trả công vợ chồng em trai bằng vàng bạc. Tiếng đồn đến tai người anh, người anh tham lam nên gạ đổi gia tài lấy cây khế. Chim quý cũng đến ăn và hứa trả ơn bằng vàng, nhưng vì tính tham lam vô độ của người anh nên đã bị chim quý hất xuống biển sâu. Cốt truyện tuy rất đơn giản, ngắn gọn nhưng chất chứa trong đó những bài học về cuộc sống vô cùng sâu sắc và thấm thía.
Truyện “Cây khế” phản ánh cuộc xung đột giữa hai tuyến nhân vật trong một gia đình, một bên là vợ chồng người em trai hiền lành, chăm chỉ, chịu khó; một bên là vợ chồng người anh trai tham lam, ích kỉ, chỉ nghĩ đến đồng tiền. Thông qua khai thác xung đột trong gia đình này, tác giả dân gian đã phản ánh chủ đề của chuyện đó là phê phán sự tham lam, ích kỉ của con người, ca ngợi những con người chịu khó, chăm chỉ, biết sống lương thiện, biết thế nào là đủ. Câu chuyện còn là lời cảnh tỉnh cho những ai đã và đang xem nhẹ tình anh em trong gia đình, cắt đứt tình máu mủ ruột rà chỉ vì những cái lợi trước mắt. Chủ đề truyện này không mới nhưng nó vẫn có giá trị không riêng với thế giới cổ tích mà còn cả xã hội hiện thực bây giờ.
Góp phần tạo nên thành công cho câu chuyện, ngoài giá trị của chủ đề và bài học sâu sắc trong truyện Cây khế thì không thể quên sự đóng góp của các hình thức nghệ thuật. Chính những hình thức nghệ thuật đặc sắc ấy đã giúp cho chủ đề và bài học trong truyện trở nên sâu sắc, thấm thía hơn và hấp dẫn độc giả hơn.
Yếu tố nghệ thuật đầu tiên cần kể đến đó là nghệ thuật tạo tình huống. Tình huống truyện chia gia tài, vốn rất quen thuộc trong truyện kể dân gian. Nhờ tình huống này bản chất xấu xa tham lam của vợ chồng người anh trai được bộc lộ. Tình huống thứ hai, góp phần giúp mạch truyện tiến triển là tình huống chim quý xuất hiện và ăn khế của vợ chồng em trai. Nhờ chim quý vợ chồng em trai được đền đáp xứng đáng cho tấm lòng, sự lương thiện của mình. Cũng nhờ chim quý mà vợ chồng người anh trai đã bị trừng trị thích đáng cho bản tính tham lam, mờ mắt vì tiền của mình. Nhân vật chim quý đóng vai trò là nhân vật chức năng, thế lực siêu nhiên, thay nhân dân thực hiện mong ước của họ. Đây cũng là kiểu nhân vật khá quen thuộc trong truyện cổ tích Việt Nam.
Xây dựng nhân vật giàu tính biểu trưng cũng là một nét nổi bật cho truyện cổ tích Việt Nam. Trong đó người anh trai là tuyến nhân vật đại diện cho kiểu người tham lam, chỉ nghĩ đến đồng tiền; nhân vật em trai là đại diện cho tuyến nhân vật bất hạnh, mồ côi, chịu nhiều thiệt thòi, cam chịu. Hai tuyến nhân vật chính - tà khá quen thuộc trong truyện cổ tích, là đại diện cho các kiểu người trong xã hội phân chia giai cấp thời bấy giờ.
Nét đặc sắc cuối cùng em muốn nói đến trong bài viết là cách khắc họa tính cách nhân vật thông qua ngôn ngữ, hành động của nhân vật. Nhân vật trong truyện cổ tích vốn chưa có những tâm lý hay nét tính cách độc đáo, riêng biệt như trong văn xuôi của các tác giả văn học. Nhưng thông qua lời thoại, ngôn ngữ, hành động chúng ta cũng thấy được phần nào những nét tính cách đặc trưng của nhân vật. Chẳng hạn qua thái độ “rối rít, mừng quýnh, vái lấy vái để “ khi gặp chim thần của vợ chồng anh trai cũng đủ thấy vợ chồng anh ta là người tham lam, ích kỉ, tôn sùng vật chất, luôn trông chờ vào vận may; hành động “nhét đầy vàng vào tay áo, ống quần, lết mãi mới ra khỏi hang” đủ thấy anh trai tham lam đến mờ lý trí… còn vợ chồng người em trai thấy con chim thần chỉ biết than “ ông chim ơi, ông ăn hết khế nhà cháu…” rồi hành động “chỉ nhặt vừa đủ vàng bạc nhét vào túi rồi ra về” cũng đủ thấy người em trai vốn bản tính lương thiện, hiền lành. Nhân vật chỉ được khắc họa qua hành động, ngôn ngữ nhưng những nét tính cách nổi bật vẫn hiện lên tương đối đậm nét.
Những phân tích ở trên đây cho thấy Cây khế là một truyện cổ tích tiêu biểu trong kho tàng truyện cổ Việt Nam. Về chủ đề, truyện chính là lời cảnh tỉnh, phê phán đến những người có lối sống ham vật chất, coi thường tình cảm máu mủ. Về hình thức nghệ thuật, tác giả đã kết hợp hài hòa các yếu tố về tình huống truyện, ngôn ngữ, hành động để nhân vật bộc lộ rõ cá tính của mình, thông qua đó chủ đề truyện cũng được tô đậm.
Câu chuyện là một bài học đắt giá cảnh tỉnh những người tham lam, không coi trọng tình cảm gia đình, sớm hay muộn cũng sẽ nhận phải một kết cục không may mắn.
Bài làm
Có lẽ, những bí ẩn về thiên nhiên vẫn là một câu hỏi lớn đối với con người thời cổ. Chính vì vậy, họ đã sáng tạo nên các câu chuyện để trả lời cho những thắc mắc của bản thân. Đọc truyện "Thần Trụ trời", ta thấy được cách phân chia bầu trời và mặt đất. Đọc "Prô-mê-tê và loài người", ta được giải đáp về cách các vị thần tạo ra muôn vật và loài người. Không giống hai tác phẩm trên, truyện "Đi san mặt đất" lại là những lí giải đơn giản về quá trình loài người chung lòng, góp sức san phẳng mặt đất để làm ăn mà không có sự xuất hiện của các vị thần. Truyện gây ấn tượng bởi những đặc sắc trong chủ đề và hình thức nghệ thuật.
Truyện "Đi san mặt đất" có chủ đề viết về quá trình khai hoang và cải tạo tự nhiên của người Lô lô xưa, quá trình này cần có sự giúp sức của tất cả mọi người lúc bấy giờ. Người Lô Lô xưa đã có những nhận thức khá nguyên sơ, đơn giả về thế giới vũ trụ, đồng thời họ cũng có ý thức trong việc cải tạo thế giới sống quanh mình Khi Trái Đất vẫn còn hoang sơ thì người xưa đã cùng nhau đi trình khai hoang và cải tạo tự nhiên. Đó là thời gian không thể xác định, mà người cổ xưa chỉ biết là:
"Ngày xưa, từ rất xưa...
Người già không nhớ nổi
Mấy năm mấy nghìn đời
Ngày xưa từ rất xưa...
Người trẻ không biết tới
Mấy nghìn, mấy vạn năm"
Mốc thời gian không cụ thể khiến chúng ta không thể biết chính xác đó là thời điểm nào. Khoảng thời gian ấy xưa đến mức người già cũng không thể nhớ nổi, người trẻ thì lại chẳng thể biết tới. Và cuộc sống con người lúc bấy lại thật đơn giản. Trước khi đi san mặt đất, con người vẫn sống chung, ở chung và ăn chung với nhau. Người Lô Lô xưa đã biết tận dụng điều kiện tự nhiên để trồng bắp, lấy nước uống từ "bụng đá" "Trồng bắp trên núi cao/ Uống nước từ bụng đá". Tuy nhiên, sống trong không gian hoang sơ, thiếu thốn khi "Bầu trời nhìn chưa phẳng/ Mặt đất còn nhấp nhô" nên con người thời cổ đã khẩn trương cùng nhau đi tái tạo thế giới.
Để có thể san phẳng mặt đất, san phẳng bầu trời thì người Lô Lô đã biết tận dụng sức mạnh của các loài vật xung quanh lúc bấy giờ:
"Kiếm con trâu sừng cong
Chọn con trâu sừng dài"
Họ kiếm những con trâu sừng phải cong, phải dài vì đây là những con trâu khỏe, trâu tốt. Chúng đi cày bừa san đất mà không quản gì mệt nhọc. Có sức giúp đỡ của chúng thì công cuộc cải tạo mặt đất của người Lô Lô xưa chẳng mấy chốc mà thành. Thế nhưng công việc san phẳng mặt đất, san phẳng bầu trời là công việc chung của muôn loài nên con người đã đi chuột chũi cóc, ếch. Đáp lại lời kêu gọi của người Lô Lô xưa, các con vật đều tìm cớ trốn tránh, thoái thác. Không thể trông cậy vào chúng, con người đã tập hợp sức mạnh của nhau để cải tạo thiên nhiên "Giống nào cũng không đi/ Người gọi nhau làm lấy". Truyện "Đi san mặt đất" của người Lô Lô không chỉ đơn thuần là lời lí giải về sự bằng phẳng của mặt đất và bầu trời mà còn phản ánh nhận thức của người Lô Lô xưa về quá trình tạo lập thế giới. Theo cách lí giải của họ, để có được mặt đất, bầu trời bằng phẳng như ngày nay thì người Lô Lô xưa đã phải đi san mặt đất. Con người đã tự biết tập hợp sức mạnh của cộng đồng để chung tay thực hiện công việc. Và qua đây, ta thấy được con người trong buổi sơ khai đã có ý thức trong việc cải tạo thiên nhiên để phục vụ cho cuộc sống của chính mình.
Không chỉ độc đáo ở chủ đề, truyện "Đi san mặt đất" còn có những đặc sắc ở khía cạnh nghệ thuật. Người Lô Lô xưa đã sáng tạo truyện thần thoại bằng hình thức thơ ca với giọng điệu vui tươi, nhí nhảnh tạo cảm giác thích thú cho người đọc.
Bên canh đó, truyện còn sử dụng biện pháp nhân hóa cùng với ngôn ngữ giản dị, giàu hình ảnh. Các con vật được nhân hóa có những cử chỉ giống con người đã giúp cho chuyện trở nên sinh động hơn. Người Lô Lô xưa đã sử dụng ngôn ngữ gần gũi, giản dị giúp cho bạn đọc ở mọi lứa tuổi dễ dàng tiếp nhận truyện.
"Đi san mặt đất" là một trong những truyện thần thoại đặc sắc của người Lô Lô. Truyện đã thể hiện những lí giải nguyên sơ của người xưa về vũ trụ, về thế giới qua thể thơ năm chữ kết hợp sử dụng các biện pháp nghệ thuật. Qua câu chuyện, ta càng thêm ấn tượng với trí tưởng tượng của người xưa trong việc sáng tạo những giá trị văn hóa dân gian.