Hãy đọc các trường hợp sau và trả lời câu hỏi.

Bài tập 3. Hãy đọc các trường hợp sau và trả lời câu hỏi. 

Trường hợp 1.

N (19 tuổi) là một thanh niên nghiện ma tuý. Do không có tiền để thỏa mãn cơn nghiện, N đã nảy sinh ý định cướp xe máy. N tìm được người quen là A (19 tuổi) để cùng bàn kế hoạch thực hiện. N và A đến chỗ đường vắng, thấy ông B đang chạy xe tới, cả hai đã lao ra chặn lại và dùng dao uy hiếp, cướp xe máy và đâm ông B trọng thương với tỉ lệ thương tật là 70%. Căn cứ vào hành vi phạm tội của N và A là phạm tội có tổ chức, có kế hoạch và sử dụng hung khí nguy hiểm gây thương tích nặng cho nạn nhân, Tòa đã xử bị cáo N hình phạt tù chung thân, bị cáo A 17 năm tù. Gia đình N cho rằng Toà án xét xử thiếu công bằng vì N và A cùng độ tuổi, cùng thực hiện hành vi vi phạm pháp luật nhưng lại chịu mức độ hình phạt khác nhau.

  • Thắc mắc của gia đình N là đúng hay sai? Vì sao?
  • Theo em, phần quyết của Toà án có đảm bảo bình đẳng về trách nhiệm pháp lí không? Vì sao?

Trường hợp 2.

Chị B làm thư kí cho Giám đốc của Công ty H. Do tính chất công việc phải thường xuyên đi công tác để kí kết các hợp đồng nên chị B ít có thời gian chăm sóc gia đình. Sau khi kết hôn với anh T được 6 tháng, anh yêu cầu chị B phải nghỉ việc với lí do phụ nữ phải có trách nhiệm chăm lo cho gia đình, kiếm tiền là công việc của đàn ông. Dù chị B không đồng ý, nhưng anh T tuyên bố rằng trong gia đình người chồng là chủ, mọi việc vợ phải nghe và làm theo lời chống. Nếu chị B vẫn đi làm thì hai người sẽ li hôn.

  • Anh T có quyền bắt chị B phải nghỉ việc ở công ty để ở nhà chăm lo cho gia đình không ?
  • Theo em, quan điểm của anh T về quan hệ vợ chồng trong trường hợp trên có đúng không? Pháp luật quy định thế nào về quyền bình đẳng giữa vợ và chồng

Câu trả lời:

Trường hợp 1:

Thắc mắc của gia đình N là đúng. Gia đình N lý luận rằng N và A cùng độ tuổi, cùng thực hiện hành vi vi phạm pháp luật, nhưng lại chịu mức độ hình phạt khác nhau, thì điều này có lý do. Mức độ hình phạt trong một vụ án không chỉ phụ thuộc vào việc thực hiện hành vi vi phạm mà còn phụ thuộc vào các yếu tố khác như mức độ thiệt hại gây ra, sự động cơ, và tình tiết. Mức hình phạt cho N và A được quyết định dựa trên sự nghiêm trọng của tội danh của mỗi người và trong trường hợp này, N là người chủ mưu.

Toà án đã xem xét các yếu tố liên quan đến vụ việc và đưa ra quyết định dựa trên thông tin có sẵn. Quyết định của Toà án phản ánh sự cân nhắc về mức độ trách nhiệm pháp lí của từng bị cáo dựa trên tình tiết cụ thể của hành vi của họ trong vụ việc. Do đó, có thể nói rằng quyết định của Toà án đã đảm bảo tính công bằng và bình đẳng về trách nhiệm pháp lí.

Trường hợp 2: 

Anh T không có quyền bắt chị B phải nghỉ việc ở công ty để ở nhà chăm lo cho gia đình.

Quan điểm của anh T về quan hệ vợ chồng trong trường hợp trên không đúng và không tuân theo quy định của pháp luật. Theo Điều 17, Luật Hôn nhân và Gia đình quy định năm 2014: “Vợ, chồng bình đẳng với nhau, có quyền, nghĩa vụ ngang nhau về mọi mặt trong gia đình, trong việc thực hiện các quyền, nghĩa vụ của công dân được quy định trong Hiến pháp, Luật này và các luật khác có liên quan.”

Nội dung khác trong bài

Xem thêm các môn học

Giải SBT kinh tế pháp luật 11 chân trời sáng tạo

PHẦN MỘT: GIÁO DỤC KINH TẾ

CHỦ ĐỀ 1: CẠNH TRANH, CUNG, CẦU TRONG KINH TẾ THỊ TRƯỜNG

CHỦ ĐỀ 4: Ý TƯỞNG, CƠ HỘI KINH DOANH VÀ CÁC NẰNG LỰC CẦN THIẾT CỦA NGƯỜI KINH DOANH

PHẦN HAI: GIÁO DỤC PHÁP LUẬT

CHỦ ĐỀ 7: QUYỀN BÌNH ĐẲNG CỦA CÔNG DÂN


Đia chỉ: Tòa nhà TH Office, 90 Khuất Duy Tiến, Thanh Xuân, Hà Nội
Điện thoại hỗ trợ: Fidutech - click vào đây
Chúng tôi trên Yotube
Cùng hệ thống: baivan.net - Kenhgiaovien.com - tech12h.com