Nêu bố cục của đoạn trích và chỉ ra đâu là lời người kể chuyện, đâu là lời đối thoại, lời độc thoại của các nhân vật.

SAU KHI ĐỌC 

Câu hỏi 1. Nêu bố cục của đoạn trích và chỉ ra đâu là lời người kể chuyện, đâu là lời đối thoại, lời độc thoại của các nhân vật.

Câu hỏi 2. Thúy Kiều trao duyên cho Thúy Vân trong thời điểm nào?

Câu hỏi 3. Đọc đoạn thơ (từ câu 719 đến 748) và trả lời các câu hỏi sau:

a. Lời nhờ cậy Thuý Vân được Thuý Kiều bày tỏ với thái độ như thế nào? Tìm hiểu giá trị của những từ ngữ được dùng đề thể hiện thái độ đó.

b. Thúy Kiều đã đưa ra những lí lẽ gì để thuyết phục Thuý Vân nhận lời trao duyên?

c. Khi trao kỉ vật cho Thuý Vân, Thuý Kiều đã dặn dò những gì? Lời dặn dò ấy có nhất quán với lời nàng nhờ cậy và thuyết phục Thúy Vân trước đó hay không? Chỉ ra những từ ngữ, chỉ tiết thể hiện sự nhất quản hoặc không nhất quán ấy.

d. Nêu diễn biến tâm lí của Thúy Kiều khi nói lời trao duyên và khi trao kỉ vật cho Thuý Vân. Hãy phân tích, lí giải diễn biến tâm lí đó.

Câu hỏi 4. Phân tích diễn biến tâm trạng của Thúy Kiều trong mười dòng thơ cuối (chú ý sự thay đổi đối tượng tâm tình và giọng điệu).

Câu hỏi 5. Nhận xét về nghệ thuật sử dụng từ ngữ của Nguyễn Du trong đoạn trích. Hãy minh họa bằng một ví dụ mà bạn thấy tâm đắc.

Câu trả lời:

Câu hỏi 1. 

Bố cục: 

- Phần 1 (12 câu đầu): Kiều thuyết phục và trao duyên cho Thúy Vân

- Phần 2 (14 câu tiếp): Kiều trao kỉ vật và dặn dò

- Phần 3 (còn lại): Kiều đau đớn và độc thoại nội tâm

Lời người kể chuyện: 711,725,730,735

Lời đối thoại nhân vật: 715,720,740,745

Lời độc thoại nhân vật: 750,755.

Câu hỏi 2. 

Việc trao duyên của Thúy Kiều cho Thúy Vân diễn ra trước khi Kiều thu xếp việc bán mình.

Câu hỏi 3. 

a. “Cậy, lạy, thưa” là những từ mà người ở vai dưới nói chuyện với người vai trên. Những từ ngữ này thể hiện sự tôn trọng đặc biệt của Kiều dành cho người em gái mà mình nhờ vả. Dù mình ở vai trên nhưng Kiều không dùng sự ra lệnh đối với em. Tuy trong lòng cô nhiều suy nghĩ, trăn trở nhưng vẫn bình tĩnh xử lí, sắp xếp, thu vén chuyện của mình.

b. Kiều trình bày với em về hoàn cảnh của mình, về mối tình dang dở của mình với chàng Kim và mong em hãy thấu hiểu cho nỗi khổ của mình mà chấp nhận mối tơ thừa của chị. Hai người đã có những hẹn thề gắn bó dài lâu nhưng nay Kiều không giữ lời hứa đó. Bởi lẽ, nàng không thể hoàn thành cả “chữ hiếu” lẫn “chữ tình”; nên “chữ tình” này, xin gửi lại để Vân thay chị thực hiện. Từng lời nói của Kiều là nỗi đau khổ, day dứt mà nàng đang phải trải qua. Nào ai muốn nhìn thấy cha và em trai bị oan trong tù? Nào ai muốn rời bỏ người mình yêu thương khi tình cảm rất mặn nồng? Ta càng thêm thương xót cho nàng Kiều bạc mệnh.

c. Khi trao kỉ vật cho Thúy Vân, Thúy Kiều đã dặn dò nàng ''Duyên này'' là duyên giữa Thúy Vân và Kim Trọng, chứ phần của Kiều kể như đã hết. Chị đã trao duyên lại cho em nhưng những kỉ vật này thì xin em hãy coi là ''của chung'' bởi còn có một phần là của chị. Lúc Kiều kể về mối tình của mình cho Vân nghe, giọng điệu của nàng vẫn bình tĩnh, nhưng đến lúc trao kỉ vật, nàng cảm thấy mình đã mất hết nên không thể kìm nén được cảm xúc đang dậy sóng trong lòng. Nàng tiếc nuối, đau đớn khi có người thứ ba chia sẻ. Trái tim bắt đầu lên tiếng. Cảnh ngộ bắt Kiều phải ''lỗi thề'' nhưng trong đáy lòng nàng đâu dễ để có thể nguôi đi được lời thề xưa và đoạn tuyệt tình cũ được. Đầy xót xa sầu tủi, trong đau đớn tận cùng, Thúy Kiều phải chăng vẫn giữ lấy một chút an ủi nhỏ nhoi. Trao "duyên" xong, nhưng lòng Kiều càng nặng trĩu, đầy những giằng xé, những níu kéo, tiếc nuối vô cùng. Lý trí bắt nàng từ bỏ tình yêu với chàng Kim Trọng yêu thương, nhưng trái tim và tình cảm của Kiều lại không cho phép nàng làm vậy.

d. Tâm trạng của Thúy Kiều trong đoạn trích Trao duyên diễn biến qua ba chặng như ba nấc thang tâm lí. Mở đầu là những lời yêu cầu khẩn thiết của Kiều đối với Vân:

“Cậy em, em có chịu lời,
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa.”

Hai câu thơ cho thấy Kiều vừa khẩn khoản, vừa thiết tha, vừa như đặt cả niềm tin và hi vọng vào Vân. Trong bao từ biểu đạt sự nhờ vả: nhờ, mượn, phiền,…Nguyễn Du đã chọn từ “cậy”. Phải chăng vì chỉ từ “cậy” mới hàm chứa nội dung thông báo nhờ và tin? Lại nữa, tại sao là “chịu lời” mà không phải là “nhận lời”, tại sao “chịu lời” trước rồi mới “thưa” sau? Nếu Kiều trình bày sự việc trước thì chắc gì Vân đã chịu lời. Nói “nhận lời” là đã có ý kiến của người nhận, là có sự tự nguyện của Vân. Nhưng Vân nào đã biết chuyện gì mà tự nguyện hay không tự nguyện. Do vậy phải là “chịu lời”, vì đây là việc Kiều chủ động nài ép Vân, đưa Vân vào hoàn cảnh không nhận không được. Ở đây Kiều hiểu hoàn cảnh khó xử của mình và càng hiểu hoàn cảnh khó xử của cô em gái. Cũng qua đây có thể thấy Nguyễn Du là thi sĩ thật “sâu sắc nước đời”.

Thúy Kiều đã không quá dài lời về hoàn cảnh của mình. Những việc vừa xảy ra ai chẳng rõ. Nhưng bất hạnh của Kiều thì chỉ Vân mới là người thấu hiểu. Bởi chính Vân là người chứng kiến cả hai biến cố của đời Kiều: “Khi gặp chàng Kim” và khi “sóng gió bất kì”. Các mâu thuẫn lớn trong tâm trạng Thúy Kiều lúc này không phải là giữa hiếu và tình. Giải quyết mâu thuẫn giữa hiếu và tình, Kiều đã làm xong, tuy khó khăn nhưng dứt khoát và có phần thanh thản: “Làm con trước phải đền ơn sinh thành”. Vả lại, nếu là chuyện chữ hiếu thì Kiều đâu phải “cậy”, phải “lạy”, phải “thưa” với cô em gái của mình; việc gá duyên, với Vân là trách nhiệm và nghĩa vụ. Mâu thuẫn chính được thể hiện qua đoạn trích là “mâu thuẫn giữa tình yêu lứa đôi và hạnh phúc bị tan vỡ”. Sự dở dang, tan vỡ này được thể hiện qua một câu thơ mang sắc thái thành ngữ: “Giữa đường đứt gánh tương tư”. Hình ảnh ẩn dụ “giữa đường đứt gánh” ta đã từng gặp trong ca dao. Thì ra, những đau khổ của Thúy Kiều nào có xa lạ gì với những số phận của người phụ nữ xưa. Tuy nhiên, bi kịch tình yêu tan vỡ của Kiều vẫn là đau đớn hơn bất cứ thiên tình sử nào trong văn học trước đó.

Sau tám câu mở đầu Kiều nói với Vân về nỗi bất hạnh của mình, về sự thấu hiểu hoàn cảnh khó xử của em, Kiều tiếp tục thuyết phục Vân thay nàng trả nghĩa cho Kim Trọng. Kiều nói với Vân bằng những lời tâm sự biểu hiện qua các câu thơ mang phong cách thành ngữ: “tình máu mủ”, “lời nước non”, “thịt nát xương mòn”, “ngậm cười chín suối”. Những lời tâm sự có tác dụng thuyết phục. Kiều ràng buộc Vân bằng tình máu mủ, lại khẩn cầu em cho mình chút vui, chút ơn, chút thơm lây vì đức hi sinh cao đẹp của em:

“Chị dù thịt nát xương mòn,
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây.”

Vừa thuyết phục vừa ràng buộc, ràng buộc nhưng vẫn khẩn cầu, Kiều đã đạt được mục đích: nhờ Vân thay mình trả nghĩa cho Kim Trọng. Nhưng chính lúc mục đích đạt được là lúc bi kịch tình yêu của Kiều lên tới đỉnh cao. Kiều biết Thúy Vân lấy Kim Trọng là để trả nghĩa, là do “xót tình máu mủ” chứ không phải vì “lời nước non” cho nên Kiều chỉ có thể trao duyên cho Vân, còn tình yêu, nàng đâu có dễ trao. Với tình yêu, Kiều là “người mệnh bạc”. Nàng tìm cách trở về với tình yêu bằng hai con đường: để lại kỉ vật, linh hồn bất tử.

Kiều đã trao lại Vân những kỉ vật. Nàng những mong, bằng kỉ vật, nàng sẽ hiện diện trong tình yêu. Những kỉ vật thiêng liêng và đẹp đẽ: “Chiếc thoa với bức tờ mây”, “phím đàn với mảnh hương nguyền”. Kỉ vật đẹp đẽ bởi nó gắn liền với những ngày đẹp nhất của đời Kiều. Kỉ vật thiêng liêng bởi nó là riêng – chỉ riêng cho Kiều và Kim Trọng. Kiều không muốn trao cho người thứ ba, dù đó là em mình. Bao xót xa trong một từ “của chung”: “Duyên này thì giữ, vật này của chung”. Bao đớn đau trong một từ “ngày xưa”: “Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa”. Hiện thực đẹp đẽ, rực rỡ vừa mới đây thôi đã trở thành quá vãng. Thời gian khách thể bị phá vỡ, nhường chỗ cho thời gian của tâm trạng. Kỉ vật còn đó mà đối với tình yêu, Kiều không hiện diện. Có nghĩa gì đâu khi “chút của tin” còn mà người thì đã mất. Con đường trở về bằng kỉ vật đã không giúp được Kiều.

Kiều tìm đến con đường thứ hai, con đường trở về với tình yêu bằng linh hồn bất tử: “Thấy hiu hiu gió thì hay chị về”. Kiều những mong bằng sự trở về ấy nàng có thể trả nghĩa Kim Trọng, nàng sẽ nhận được sự đồng cảm của người thương “Rưới xin giọt nước cho người thác oan”. Thế nhưng, như có người đã nói, nếu trong thiên tình sử xưa, giọt lệ Mị Nương rơi xuống chén trà và oan hồn Trương Chi được giải tỏa thì trong “Đoạn trường tân thanh”, giọt lệ của chàng Kim không thể làm tan mối tình oan khuất của nàng Kiều. Bởi sự trở về bằng linh hồn bất tử là sự trở về không có gặp gỡ.

Kết thúc đoạn thơ, yếu tố bi kịch không những không giảm mà còn được đẩy lên mức cao hơn. Ấy là lúc sự trở về bằng linh hồn, sự trở về siêu hình bất lực trước những cảm nhận thực tế của người con gái họ Vương. Kiều ý thức rất rõ về cái hiện sinh, cái “bây giờ”: “Trâm gãy gương tan”, “Tơ duyên ngắn ngủi”, “phận bạc như vôi”, “nước chảy hoa trôi”.

Kiều ý thức về cái hiện hữu, cái “bây giờ” và Kiều càng thương mình. Ai nỡ trách nàng sau khi thương người, vì người, nàng đã tự thương mình. Nàng có một chút vì mình cũng không phải là vị kỉ mà vẫn là rất mực vị tha. “Vì người” thì hoàn toàn không chút bóng dáng của đau thương cá nhân. Chỉ khi mọi sự “đối với người” đều xong xuôi, bây giờ mới nhìn lại tấm lòng mình, tình cảnh mình. Nỗi đau của nàng sâu nặng biết bao” (Lê Trí Viễn). Tâm trạng bi kịch của Kiều càng sâu sắc khi trước sự chà đạp của số phận nàng vẫn không thôi khát vọng về một tình yêu thiết tha, vĩnh viễn: “Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân”, “Trăm nghìn gửi lạy tình quân”. Sự hiện hữu của tình yêu làm Kiều quên đi sự hiện hữu của người em gái. Đang từ đối thoại với Vân, Kiều trở về độc thoại nội tâm và rồi nàng như hướng tất cả về Kim Trọng:

“Ôi Kim lang! Hỡi Kim lang!
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!”

Trong một câu thơ, tên Kim Trọng được gọi đến hai lần, kèm theo là những thán từ chỉ sự đớn đau, tuyệt vọng “ôi”, “hỡi”. Câu thơ trên ngắt nhịp 3/3 đọc lên như tiếng nấc, để rồi đến câu thơ dưới nhịp thơ dài ra như một lời than. Lời trao duyên kết thúc bằng một lời than, bằng tiếng kêu đớn đau, tuyệt vọng. Tuy nhiên, tình yêu tan vỡ nhưng khát vọng tình yêu được khẳng định. Đó là nét đẹp cao quý của tâm hồn Kiều, là giá trị nhân văn bền vững của “Truyện Kiều”. Đoạn thơ có bi kịch, đau thương nhưng không thê lương, đen tối, trái lại vẫn ngời lên ánh sáng niềm tin vào tình yêu, vào con người.

Câu hỏi 4. 

“Trăm nghìn gửi lạy tình quân
….……………………………..
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!”

Sau khi trao duyên cho Thúy Vân, Kiều âm thầm nhắn nhủ đến Kim Trọng: nàng đã phụ tình chàng từ đây. Đó không chỉ là câu nói đau xót khi phải chia tay người yêu khi tình cảm vẫn còn mặn nồng sâu sắc mà còn là suy tư về cuộc sống tăm tối phía trước đang chờ đón Kiều.

Câu hỏi 5. 

Vẻ đẹp ngôn từ trong đoạn trích được thể hiện qua tính hình tượng, gợi lên những hình ảnh khiến nhân vật và sự kiện như hiện hữu ngoài đời thực. Tính Hình tượng mang đến sức thuyết phục, đồng thời khơi gợi sự đồng cảm, tri âm từ phía độc giả đối với người nghệ sĩ cũng như những nhân vật trong tác phẩm. Hai câu thơ:

Cậy em em có chịu lời

Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa

Thúy Kiều xét theo vai vế là bậc chị lớn trong nhà, nhưng khi nhờ đến em lại phải "cậy", hỏi ý kiến em qua "chịu lời". Vì nàng biết, điều mà nàng khẩn khoản nhờ em tới đây thật khó chấp nhận, nhưng Thúy Vân sẽ chẳng có cách nào từ chối. "Lạy" rồi "thưa", Nguyễn Du đã để cho Thúy Kiều tự kể lại câu chuyện tình yêu bi kịch của chính mình trong tâm thế một kẻ bề dưới, nhọc lòng mong mỏi người khác giúp đỡ nàng. Những từ ngữ đắt giá không chỉ thể hiện hoàn cảnh khốn cùng của Thúy Kiều mà còn bộc lộ sự mong chờ, tha thiết của nàng, những mong em gái chấp nhận lời cầu xin.

Đi vào thẳng vấn đề, Thúy Kiều bày tỏ, tâm sự với Thúy Vân về mối tình mặn nồng của mình và Kim Trọng. "Quạt ước", "chén thề", những vật làm tin bí mật giữa Kim và Kiều. Vào đêm hôm ấy, có đất, có trời, có trăng, có sao và có tấm lòng son sắt, hai người đã trao cho nhau chiếc quạt đính ước, ly rượu phu thê thề nguyền. Rồi còn có cả "chiếc vành với bức tờ mây", "phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa", những kỉ vật tình yêu được Thúy Kiều trang trọng cất giữ, giờ đây nàng trao lại cho em gái với hi vọng em sẽ thay vị trí của mình, nối tiếp mối duyên hồng với người yêu. Tuy vậy, nàng Kiều trong phút giây khổ đau đoạn tuyệt vẫn muốn níu kéo chút tình cảm lứa đôi:

Duyên này thì giữ, vật này của chung

Cái luyến tiếc những kí ức dấu yêu khiến Kiều bị dày vò tinh thần, không còn đủ tỉnh táo. Rõ ràng là duyên đã trao, lại mang thân phận cậy nhờ, nhưng nàng vẫn muốn "vật này của chung", vẫn muốn lưu giữ lại những kỉ niệm đáng nhớ giữa nàng và người yêu. Dễ hiểu thôi cho một người con gái, người con gái mới biết yêu lần đầu, chẳng thể nào cam tâm cắt bỏ hoàn toàn mối duyên tình, chỉ mong muốn được gìn giữ lại cho bản thân chút hình bóng nhỏ bé. Cảm xúc chân thật của Thúy Kiều gợi trong lòng người đọc nỗi đồng cảm, thấu hiểu cho những day dứt của nàng, thấu hiểu vì sao nàng lại muốn giữ làm của chung như vậy. Tình yêu còn nồng cháy như vậy, chẳng thể nào đành lòng ra tay chấm dứt.

Một chi tiết đắt giá thể hiện tính hình tượng của vẻ đẹp ngôn ngữ nghệ thuật là khi Kiều nghĩ đến cái chết. Người con gái tuổi mới trăng tròn còn mơn mởn sức sống như vậy, nhưng đứng trước hoàn cảnh chia li, trong đầu chỉ quanh quẩn đến kết thúc bi kịch, cái chết.

Hồn còn mang nặng lời thề

Nát thân bồ liễu đền nghi trúc mai

"Bồ liễu", "trúc mai" vốn là những hình ảnh tượng trưng quen thuộc trong văn thơ, mang tính biểu tượng hàm súc, gợi tả dáng vẻ mong manh, liễu yếu đào tơ của người con gái. Với Thúy Kiều, không chỉ là thân phận long đông, không sức chống cự, mà "bồ liễu", "trúc mai" còn là tiếng than cho duyên phận lỡ làng, phúc phần mỏng manh mà nàng phải gánh chịu. Ra đi không mong ngày trở về, trước mắt nàng là tương lai đen tối, mịt mù, là cái chết vĩnh hằng, bị chà đạp, rẻ rúng đến chết. Xót xa thay cho một kiếp người, còn trẻ, còn biết yêu, biết rung động mà đã tự đặt ra cho mình cái chết cận kề. Tác giả không nói về sự đau khổ, không đề cập trực tiếp đến tình yêu thiết tha của Thúy Kiều và Kim Trọng, nhưng câu thơ cuối bài, tiếng kêu của Kiều đã thể hiện rất rõ những bi kịch mà nàng gặp phải:

Ôi Kim Lang! Hỡi Kim Lang!

Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây

Kiều gọi Kim Trọng là "lang", là cách gọi của người phụ nữ xưa đối với chồng. Đối với Kiều, chàng Kim không còn đơn thuần chỉ là người yêu, mà đó là chồng, là đức lang quân mà nàng trao gửi số phận. Vị trí của Kim Trọng trong tim nàng quả thực to lớn. Nhưng giờ đây, nàng đành chấp nhận xa rời, chấp nhận từ bỏ mối tình còn đang nồng cháy với chàng, vì chữ hiếu, vì phải bán mình để đổi lấy hạnh phúc cho người thân. Nàng phụ lòng chàng Kim, chỉ biết thốt lên một câu đầy ai oán. Bi kịch tình yêu tan vỡ, những trái tim còn thổn thức yêu nhau bị chia rẽ. Ngôn ngữ nghệ thuật đã bao hàm toàn vẹn cảm xúc của nhân vật Kiều, người đọc dường như có thể thấu cảm được những diễn biến tâm trạng của nàng, từ cam chịu đến luyến tiếc rồi đau khổ tột cùng nhưng vẫn phải đối mặt với sự thật phũ phàng. Tác giả đã chạm đến trái tim và lòng trắc ẩn của bạn đọc để cùng tri âm, sẻ chia sự đau xót đối với nhân vật.

Vẻ đẹp ngôn ngữ nghệ thuật trong "Trao duyên" còn được thể hiện ở tính cá thể hóa, qua đó, Thúy Kiều bộc lộ được cá tính riêng biệt, không hòa lẫn của mình. Từng câu chữ trong tác phẩm đều tập trung gợi tả thân phận tội nghiệp của nàng Kiều hồng nhan bạc mệnh, từng trang thơ là từng trang nước mắt khóc thương cho người phụ nữ kém may mắn. Thúy Kiều hiện lên qua trang viết của Nguyễn Du là người con gái biết điều, biết nghĩ, hiếu thảo với cha mẹ, sẵn sàng hi sinh hạnh phúc của bản thân nhưng cũng vô cùng sắc sảo, chủ động trao duyên cho em gái vì muốn giữ trọn lời thề. Đặc biệt, cá tính của Kiều thể hiện ở chỗ, trao duyên cho Thúy Vân nhưng nàng vẫn đề cập đến việc được giữ lại chút ít kỉ vật giữa nàng và Kim Trọng, bộc lộ tính cách của một cô gái mạnh mẽ, thông minh. "Trao duyên" thực chất là lời bộc bạch của Thúy Kiều trên những cung bậc cảm xúc lẫn lộn, giằng xé. TUy đau là thế, tiếc là thế, đứng giữa những hồi ức hạnh phúc và tương lai bi kịch, nhưng cái tinh tế, sắc sảo mà ý nhị của người con gái ấy vẫn được thể hiện khéo léo. Qua đoạn trích, ta cũng thấy được phong cách nghệ thuật mang tính nhân văn cao cả Nguyễn Du, yêu thương con người, trân trọng và cảm thông cho những số phận cơ cực, bất hạnh.

Vẻ đẹp ngôn ngữ nghệ thuật qua "Trao duyên" đã làm nên kiệt tác Truyện Kiều, tạo nên tên tuổi của Nguyễn Du không chỉ trong nước mà còn có sức ảnh hưởng tầm cỡ thế giới. Ngôn từ trong sáng, chọn lọc, mang nhiều tầng nghĩa, gợi tả, gợi cảm cùng đảm bao ba chức năng chính: thông tin, hình tượng và cá thể hóa đã đưa Truyện Kiều trở thành chuẩn mực ngôn từ trong làng văn học thơ Nôm. Với tác phẩm này, thơ chữ Nôm đã tạo nên thành công vang dội, đưa chữ quốc ngữ của Việt Nam thời bấy giờ lên tầm văn hóa, bản sắc đặc trưng riêng biệt của dân tộc.

Xem thêm các môn học

Soạn bài ngữ văn 11 KNTT mới

NGỮ VĂN 11 KẾT NỐI TRI THỨC TẬP 1

BÀI 1. CÂU CHUYỆN VÀ ĐIỂM NHÌN TRONG TRUYỆN KỂ

BÀI 2. CẤU TỨ VÀ HÌNH ẢNH TRONG THƠ TRỮ TÌNH

BÀI 3. CẤU TRÚC VĂN BẢN NGHỊ LUẬN

NGỮ VĂN 11 KẾT NỐI TRI THỨC TẬP 1

BÀI 6. NGUYỄN DU - "NHỮNG ĐIỀU TRÔNG THẤY MÀ ĐAU ĐỚN LÒNG"


Đia chỉ: Tòa nhà TH Office, 90 Khuất Duy Tiến, Thanh Xuân, Hà Nội
Điện thoại hỗ trợ: Fidutech - click vào đây
Chúng tôi trên Yotube
Cùng hệ thống: baivan.net - Kenhgiaovien.com - tech12h.com