Có thể nói là trong toàn bộ bài Tự tình (bài 2) tác giả đã thể hiện sự đối lập “oái ăm” giữa cảnh và tình. Nhưng trong đó tiêu biểu hơn cả là các hình ảnh ở hai câu để, hai câu thực và hai câu kết:
- Hai câu đề thể hiện sự đối lập giữa cảnh và tình: Đêm đến đáng sẽ là phải ngủ yên giấc thì chủ thể trữ tình lại thao thức không thể ngủ nổi bởi những nỗi niềm riêng tư. Tiếng trống oái ăm giữa lúc oái ăm ấy càng làm “trơ” ra, thừa ra cái “vô duyên” của người con gái đang mong chờ hạnh phúc.
- Hai câu thực: Hai câu tiếp theo thể hiện nỗi buồn ập đến, người phụ nữ mượn rượu để quên sâu nhưng càng uống lại càng tỉnh, bóng trăng xế như cũng đang trêu chọc con người.
- Ở hai câu kết, thể hiện rõ nỗi chán chường của chủ thể trữ tình trước tình cảnh của mình. Người phụ nữ đang ở tuổi xuân, đang khao khát hạnh phúc thì đáp lại sự chờ đợi đó chỉ có được một chút “tí con con”, cho thấy hoàn cảnh bạc bẽo mà người phụ nữ phải gánh chịu. Mùa xuân thì cứ xoay vần, còn tuổi xuân của con người sẽ dần vơi đi, sẽ đến lúc không quay trở lại nữa.
Bài thơ là sự đối lập giữa cảnh và tình.