Câu 1. Tác giả đưa ra tiêu chí nào để so sánh giữa thơ cũ và thơ mới?
Hướng dẫn trả lời:
Câu 2. Câu văn nào cho thấy luận điểm khái quát của Hoài Thanh?
Hướng dẫn trả lời:
Câu 3. Vì sao khi xuất hiện trên thi đàn Việt Nam, chữ tôi lại "bỡ ngỡ" và "như lạc loài"?
Hướng dẫn trả lời:
Câu 4. Đoạn văn cho biết điều gì về đặc điểm hồn thơ của các nhà thơ mới?
Hướng dẫn trả lời:
Câu 5. Các nhà thơ lãng mạn đã giải tỏa bi kịch đời mình bằng cách nào?
Hướng dẫn trả lời:
Câu 1. Từ nội dung văn bản, em hiểu nhan đề của bài viết thế nào?
Hướng dẫn trả lời:
Câu 2. Trong phần 1, để thuyết phục người đọc về sự chiến thắng của thơ mới đối với thơ cũ, tác giả đã lập luận như thế nào?
Hướng dẫn trả lời:
Tiêu chí được nêu ra để phân biệt thơ mới và thơ cũ không được nêu ra rõ ràng bởi mỗi thời đại đều có những nhà thơ theo trường phái nhất định vì vậy họ mới có thể viết ra những câu thơ cũ trong thời đại mới và những câu mới trong thời đại cũ. Cách duy nhất để hiểu được tinh thần thơ cho đúng là phải so sánh các bài thơ với nhau.
Câu 3. Hãy làm rõ mối quan hệ giữa luận điểm và lí lẽ, dẫn chứng ở phần 2 theo gợi ý sau:
Hướng dẫn trả lời:
Lí lẽ
- Ngày thứ nhất - ai biết đọc ngày nào - chữ tôi xuất hiện trên thi đàn Việt Nam, nó bỡ ngỡ. Nó như lạc loại nơi đất khách...
- Bởi vậy cho nên, khi chữ tôi, với các nghĩa tuyệt đối của nó, xuất hiện giữa thi đàn Việt Nam, bao nhiêu con mắt nhìn nó một cách khó chịu
- Thi nhân ta cơ hồ đã mất hết cái cốt cách hiện ngang ngày trước.
- Đời chúng ta đã nằm trong vòng chữ tôi.
Dẫn chứng:
- Câu thơ của Xuân Diệu:
"Người giai nhân: bến đợi dưới cây già;
Tình du khách: thuyền qua không buộc chặt."
Câu thơ của một nhà thơ cũ:
"Ô hay! Cảnh cũng ửa người nhỉ!
Ai thấy ai mà chẳng ngẩn ngơ?"
- Thơ Lí Thái Bạch:
"Nỗi cay cực đang giơ vuốt,
Cơm áo không đùa với khách thơ"
- Đặc điểm thơ của các nhà thơ như Xuân Diêu, Thế Lữ, Hàn Mặc Tử...
Câu 4. Nội dung chính của phần 3 là gì? Có thể khái quát nội dung ấy bằng một luận điểm như thế nào?
Hướng dẫn trả lời:
Nội dung chính của phần 3 là: Bi kịch của cái tôi.
Có thể khái quát nội dung ấy bằng một luận điểm: Bi kịch không chỉ diễn ra ở con người mà nó còn thấm vào cả thơ ca cùng đất nước khi ấy.
Câu 5. Đoạn văn sau cho thấy sự kết hợp của các phương thức biểu đạt nào? Tác dụng của sự kết hợp này trong việc bộc lộ quan điểm, thái độ của người viết là gì?
“Ta thoát lên tiên cùng Thế Lữ, ta phiêu lưu trong trường tình cùng Lưu Trọng Lư, ta điên cuồng với Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, ta đắm say cùng Xuân Diệu. Nhưng động tiên đã khép, tình yêu không bền, điên cuồng rồi tỉnh, say đắm vẫn bơ vơ. Ta ngơ ngẩn buồn trở về hồn ta cùng Huy Cận.”.
Hướng dẫn trả lời:
Câu 6. Văn bản Một thời đại trong thi ca có đoạn:
“Chưa bao giờ người ta thấy xuất hiện cùng một lần một hồn thơ rộng mở như Thế Lữ, mơ màng như Lưu Trọng Lư, hùng tráng như Huy Thông, trong sáng như Nguyễn Nhược Pháp, ảo não như Huy Cận, quê mùa như Nguyễn Bính, kì dị như Chế Lan Viên,... và thiết tha, rạo rực, băn khoăn như Xuân Diệu.”.
Đoạn văn trên giúp em có thêm những hiểu biết gì về:
- Đặc điểm ngôn ngữ trong văn bản nghị luận văn học (phê bình văn học) của Hoài Thanh?
- Phong trào Thơ mới 1932 – 1945?
Hướng dẫn trả lời:
_ Đặc điểm ngôn ngữ trong văn bản nghị luận văn học (phê bình văn học) của Hoài Thanh:
+ Cách dùng từ ngữ giàu hình ảnh (mất bề rộng, tìm bề sâu, càng đi sâu càng lạnh, phiêu lưu trong trường tình, động tiên đã khép, ngơ ngẩn buồn trở về hồn ta…)
+ Câu văn ngắn dài linh hoạt, nhịp nhàng, thể hiện cảm xú của người viết. Hình thức điệp cú pháp thể hiện ở một loạt vế câu tạo nên ấn tượng mạnh ở người đọc.
- Phong trào Thơ mới 1932 – 1945: Còn có tên gọi khác là Thơ mới lãng mạn, đây là dòng thơ ca ra đời trong những năm đầu thập kỷ thứ ba của thế kỷ trước, mở đầu cho sự phát triển của thơ ca Việt Nam hiện đại.
Câu 1. Em hãy nêu giá trị nội dung, nghệ thuật của bài Một thời đại trong thi ca
Hướng dẫn trả lời:
- Giá trị nội dung
- Giá trị nghệ thuật
Câu 2. Em hãy nêu nội dung chính của văn bản Một thời đại trong thi ca.
Hướng dẫn trả lời:
Tác phẩm đã nêu rõ nội dung cốt yếu của tinh thần Thơ mới: Lần đầu tiên chữ tôi với cái nghĩa tuyệt đối của nó, xuất hiện trong thi ca đồng thời cũng nói lên sự bế tắc trong hồn người thanh niên lúc bấy giờ. Đoạn trích là phần cuối của bài tiểu luận với lập luận chặt chẽ, tác giả đã thể hiện rõ đặc trưng tinh thần của thơ mới là cái tôi cá nhân phóng khoáng, thể hiện màu sắc riêng đặc trưng.
Câu 3. Nêu tác giả, tác phẩm, bố cục của văn bản Một thời đại trong thi ca.
Hướng dẫn trả lời:
1. Tác giả
- Hoài Thanh (1909 – 1982), tên khai sinh Nguyễn Đức Nguyên.
- Quê ở Nghi Trung, Nghi Lộc, Nghệ An, xuất thân trong một gia đình nhà Nho nghèo.
- Các tác phẩm chính: Văn chương và hành động (1936), Thi nhân Việt Nam (1942), Nói chuyện thơ kháng chiến(1950)…
- Phong cách phê bình:
- Năm 2000 ông được nhận giải thưởng HCM về văn học nghệ thuật.
2. Tác phẩm
- Đoạn trích thuộc quyển Thi Nhân Việt Nam,
- Giá trị văn bản: tổng kết một cách sâu sắc toàn diện của phong trào thơ Mới.
3. Bố cục
+ Phần 1: Cung chiêu anh hồn Tản Đà và Tiểu luận một thời đại trong thi ca (Nguồn gốc quá trình phát triển của thơ mới; sự phân hóa của thơ mới; định nghĩa thơ mới và sự phân biệt thơ mới với thơ cũ).
+ Phần 2: 169 bài thơ của 46 nhà thơ (1932 – 1941)
+ Phần 3: Nhỏ to – lời tác giả.
Câu 4. Phân tích tác phẩm Một thời đại trong thi ca.
Hướng dẫn trả lời:
Hoài Thanh được đánh giá là một nhà nghiên cứu, nhà phê bình văn học xuất sắc nhất. Cuốn sách “một thời đại trong thi ca” là tiểu luận mở đầu cho cuốn Thi nhân Việt Nam,là một trong những công trình xuất sắc nhất trong sự nghiệp văn chương của tác giả. Nội dung của cuốn sách này đề cập đến rất nhiều vấn đề như nguồn gốc của thơ mới, cuộc tranh luận,so sánh giữa thơ mới- thơ cũ, vài nét về con đường phát triển Thơ mới, đặc điểm về hình thức thể loại và triển vọng trước mắt của Thơ mới; tinh thần cốt lõi của Thơ mới và hình ảnh cái tôi trong mỗi tác phẩm. Ở mỗi góc cạnh của vấn đề, tác giả lại có những nhận định với những khía cạnh rất riêng kèm theo những ý kiến sắc sảo và tinh tế.
Mở đầu cho đoạn trích thì tác giả đưa ra để xác định cho thơ mới, và theo như Hoài Thanh thì muốn hiểu được thời đại thi ca thì phải có sự so sánh. Cách xác định của tác giả luôn mang tính khoa học bởi vì chỉ những câu hay mới được trở thành thước đo để tính giá trị sản phẩm mà thôi. Thứ hai, căn cứ vào tổng thể chứ không thể nhìn vào tiểu tiết. Nghĩa là phải dựa vào cái chung nhất.
Tinh thần thơ mới là sự khẳng định của cái “tôi”. Để khẳng định được tinh thần Thơ mới tác giả đã đưa ra những biện luận cụ thể về nội dung của chữ “ tôi”trong quá trình phân biệt chữ “tôi” với “ta”. Nét chung của thơ cũ là thiên về cái “ta”, thiên về ý thức cộng đồng và để làm rõ ý thức này, Hoài Thanh đã nhìn trong lối sống nói chung và nhìn trong văn học nói riêng. ” Xã hội Việt Nam từ xưa không có cá nhân chỉ có đoàn thể lớn thì quốc gia nhỏ thì gia đình. Còn cá nhân, bản sắc của cá nhân chìm đắm trong gia đình, trong quốc gia như giọt nước trong biển cả”. Như vậy nhìn qua tất cả thì thơ cũ gồm cả chữ” ta”, họ cầu cứu đoàn thể để chống lại sự cô đơn.
Thơ mới lại nghiêng về “cái tôi” và “ý thức cá nhân,“dựa trên đại thể tất cả tinh thần thời nay hay tinh thần của thơ mới gồm hai trong chữ “tôi”- ý thức cá nhân của mỗi người” và khi thơ mới xuất hiện nó mang một quan niệm chưa từng thấy ở xứ sở này “ đó là quan niệm cá nhân”.
Thứ ba là biểu hiện và ý nghĩa của cái tôi. Đầu tiên là sự xuất hiện và tiếp nhận của cái “tôi”. Trước tiên khi cái tôi xuất hiện trên văn đàm thì còn có rất nhiều sự bỡ ngỡ. Nó giống như một kẻ lạc loài ở nơi đất khách bao nhiêu con mắt nhìn nó một cách khó chịu. Vì chúng ta đã quen nhìn cuộc sống trong mình có cái “ta”. Bây giờ, nó xuất hiện thì làm sao lại tránh khỏi sự bỡ ngỡ. Nhưng theo thời gian, chữ “tôi” đó dần dần được chấp nhận và đã làm cho nó đã mất dần đi vẻ bỡ ngỡ của ban đầu.
Cuối cùng tác giả đã chỉ ra một hướng lớn trong phong trào thơ mới. Đi sâu vào cái “tôi”:” đời của chúng ta nằm trong vòng cái “tôi”, mất bề rộng ta lại đi tìm bề sâu”. “mất bề rộng” là không còn thiên về cái chung, cái cộng đồng của thơ cũ, còn đi tìm bề sâu chính là đi tìm cái tôi, đi sâu vào ý thức cá nhân của mỗi người. Tâm hồn của các nhà thơ thu mình trong chữ “tôi” nên luôn cảm thấy cô đơn, lạnh lẽo cho nên thường gọi đó là “cái tôi tội nghiệp”. Xuân Diệu là một nhà thơ đầy đủ nhất của thời đại ấy vậy mà chỉ nói tới cái cô đơn, khổ sở, thảm hại của cái ta trong những vần thơ của mình. Từ đó Hoài Thanh đã khái quát: “ chưa bao giờ thơ Việt Nam buồn mà nhất là xôn xao đến thế”. Cách dẫn dắt và lập luận của tác giả càng trở nên chặt chẽ hơn khi đưa ra các ví dụ cụ thể, so sánh liên tưởng và nhất là dẫn ra những câu chuyện về Cao Bá Nha, của cô Phụ trên bến Cầm Dương có tính chất đòn bẩy để xác định nỗi thương không nơi nương tựa của những nhà thơ mới. Thế đấy, nỗi buồn của thơ mới được hiện lên như một bi kịch diễn ra ngấm ngầm.
Bài tiểu luận có tính chặt chẽ, lập luận rất khoa học, lời văn của Hoài Thanh vừa sắc sảo, vừa rất tinh tế với giọng văn của người trong cuộc cùng những chia sẻ đúng như quan niệm thi nhân “ lấy hồn tôi để hiểu hồn người”. Đặc biệt những khái niệm đó vốn khô khan, qua những trình bày, giải thích của tác giả đã được chuyển thành những hình ảnh biểu cảm. Các câu văn được cân chỉnh, hợp lí với giọng văn cuốn hút người đọc. Chính điều này đã mang được tính nhạc cho bài văn. Cách dẫn dắt đoạn văn thật hợp lí, logic,ngôn ngữ đặc sắc, dung dị dễ hiểu mà vẫn súc tích là một trong những điều mà hiếm có bài phê bình nào có thể làm được.
Đoạn trích đã đi sâu tập trung giải thích cho sự ra đời và phát triển của thơ mới. Qua đó, chúng ta cũng có thể nhìn thấy thái độ trân trọng cổ vũ của tác giả,cho thấy sự xuất hiện ý thức cá nhân trong thơ ca và tấm lòng của nhà thơ mới đối với toàn dân tộc ta.