[toc:ul]
Bài làm
Khi đọc bài thơ “ Lời của cây” của tác giả Trần Hữu Thung mỗi người đọc như được cuốn vào câu chuyện kể về quá trình trưởng thành của cây. Khi nói đến quá trình phát triển của cây người ta thường nghĩ ngay đến một quá trình được miêu tả bằng những thuật ngữ khoa học khô khan. Đến với “ Lời của cây” mỗi người đọc sẽ nhận được những ngôn từ đậm chất nhận thưc và cảm xúc trong văn bản. Khổ thơ thứ nhất chính là khởi đầu của cây khi còn là mầm và nằm lăng thinh trong tay nhân vật trữ tình. Hạt lúc này còn đang nằng nặng thinh thì đến với những khổ thơ sau hạt đã có tiếng nói đã nảy mầm và trở thành cây. Khổ thơ thứ hai sử dụng biện pháp nghệ thuận nhân hóa “Mầm đã thì thầm” mầm lúc này đã cất lên tiếng nói đầu tiên của sự sống. Không chỉ vật mầm còn gây ấn tượng với người đọc bới những từ ngữ giàu chất biểu đạt “nhú”, “giọt sữa”. Tiếp theo khi hạt phát triển thì chiếc vỏ hạt lúc này như chiếc nôi xinh xắn ôm ấp mầm cây ở giữa, mầm cây được chăm sóc như em bé vậy. Đến khổ thơ thứ tư, mầm cây đã lớn thêm một chút. Nhà thơ đã lắng nghe được tiếng “bập bẹ” từ lá, từ láy “bập bẹ” đặt trong phép nhân hóa khiến ta liên tưởng đến giai đoạn tập nói. Bài thơ kết thúc bằng hình ảnh của ngày mai – một ngày mai tràn đầy màu xanh tươi mới của cây gợi lên một sự sống trường tồn, bất diệt. Bài thơ không chỉ thú vị ở lời thơ, hình ảnh trong bài mà còn là thông điệp mà tác giả muốn gửi đến người đọc: Hãy yêu cây xanh bởi cây xanh tạo nên một cuộc sống tươi mới, tràn đầy sức sống.
Bài làm
Mùa thu – mùa đẹp nhất trong năm – đã trở thành nguồn cảm hứng bất tận trong thơ ca. Nếu như văn học trung đại có Nguyễn Khuyến với ba bài thơ thu nổi tiếng, văn học cận đại có Xuân Diệu với “Đây mùa thu tới”, Lưu Trọng Lư với “Tiếng thu” thì văn học hiện đại cũng có Hữu Thỉnh với bài “Sang thu”. Bằng cảm nhận tinh tế và những hình ảnh giàu sức biểu cảm, bài thơ đã thể hiện những biến chuyển của đất trời và tâm hồn con người từ cuối hạ sang đầu thu.
Nhà thơ Hữu Thỉnh tên đầy đủ là Nguyễn Hữu Thỉnh, sinh năm 1942 ở một làng quê tỉnh Vĩnh Phúc. Năm 1963, ông nhập ngũ, vào binh chủng Tăng – Thiết giáp rồi trở thành cán bộ văn hóa, tuyên huấn trong quân đội và bắt đầu sáng tác thơ. Bài thơ “Sang thu” được ông sáng tác năm 1977, sau khi chiến tranh đa kết thúc, thể hiện những cảm nhận tinh tế của tác giả trước mùa thu trong hòa bình. Thể thơ năm chữ đã giúp miêu tả tinh tế và sâu sắc những biến chuyển của đất trời vào buổi giao mùa từ hạ sang thu.
“Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se”
Khổ thơ, và cả bài thơ, được mở ra bằng một chữ “bỗng”, gợi nên cảm giác bất ngờ, đột ngột, đầy ngỡ ngàng của tác giả khi nhận thấy những dấu hiệu báo mùa thu tới. Thơ ca tự cổ chí kim đã viết rất nhiều về những dấu hiệu ấy, từ sắc vàng hoa cúc cho tới lá khô rải thảm, ngô đồng nhất diệp lạc… Hữu Thỉnh không đi theo lối mòn ấy, mùa thu trong ông bắt đầu với “hương ổi” – mùi hương vô cùng giản dị và gần gũi của vùng nông thôn miền Bắc quê ông. Nếu như cậu bé Trần Đăng Khoa ngày nào đã nhận ra mùa thu tới chỉ bởi hình ảnh “Sáng ra vại nước rụng đầy hoa cau” thì bây giờ Hữu Thỉnh nhờ đến hương ổi để nhận ra điều đó. Phải là một người yêu quê hương tha thiết mới có thể viết được như thế ! Từ “phả” ở đây được dùng rất chính xác, động từ ấy đã gợi lên hương ổi thơm đậm đà, hòa quyện và sánh lại trong gió. Những cơn gió se hơi khô, hơi lạnh đặc trưng của mùa thu ấy lại càng tinh lọc, cô đặc thêm mùi hương. Chúng đem hương ổi, hương thu tới từng ngõ ngách, đánh thức tâm hồn thi sĩ. Từ “se” là đang tả gió, hay là tả cái co mình hơi run của vạn vật khi gió lướt qua ? Từ gió, tác giả nhận ra sương.
"Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về"
Sương giăng mắc khắp không gian như một tấm màn hơi nước mỏng. Từ láy “chùng chình” như vừa tả sự khoan thai, chậm rãi của màn sương, lại vừa như tả những bước chân nhẹ nhàng của nàng Thu đang rón rén bước vào không gian. Hay sự “chùng chình” ấy cũng chính là cảm giác bâng khuâng, lưu luyến ủa nhà thơ khi thu tới. Ngay cả cái ngõ mà sương đang ngập ngừng đi qua ấy cũng là một ẩn dụ rất thơ, rất tinh tế. Nó vừa là cái ngõ quê trong thực tại, lại vừa là cửa ngõ thời gian thông giữa hai mùa. Ở đó có hương trong gió, có gió trong sương, những dấu hiệu đặc trưng của mùa thu đều hiện diện. Thế nhưng, dù đã cảm nhận được mùa thu qua ba giác quan khứu giác, tác giả vẫn chưa hết sững sờ, vẫn chưa dám tin là thu đã về nên thầm hỏi lại mình trong câu thơ cuối. Sự bâng khuâng, mơ hồ ấy được lột tả qua hai chữ “hình như”, càng tạo thêm vẻ khói sương lãng đãng lúc thu sang. Bằng những cảm nhận tinh tế và sự điêu luyện trong ngôn từ, Hữu Thỉnh đã gợi lên cảm xúc lưu luyến, bâng khuâng trong lòng người khi nhận ra thu về.
Sau cảm giác ngỡ ngàng ấy, nhà thơ mới bắt đầu xem xem “thu đã về” có là thật hay không.
“Sông được lúc dềnh dàng
Chim bắt đầu vội vã”
Không gian của ý thơ được mở rộng. Bức tranh thu không còn chỉ gói gọn trong không gian nhỏ hẹp của “ngõ” với những nét vô hình như “hương”, “gió” mà trở nên rộng hơn, cao hơn với những thứ hữu hình, cụ thể như “sông”, “chim”, “mây”. Vế đối ở hai câu đầu rất chặt chẽ, rất thực nhưng vẫn rất đẹp, rất thơ. Dòng sông không còn chảy cuồn cuộn, dữ dội, gấp gáp như những ngày mưa lũ mùa hạ. Từ láy “dềnh dàng” đã tả được hết êm ả, lững lờ như thể sông đang lắng lại, đang trầm tư, suy ngẫm. Nhịp chảy chậm rãi, thư thả ấy kết hợp với từ “được lúc” đệm vào như gợi lên sự tranh thủ nghỉ ngơi của sông vào mùa thu. Phải chăng dòng sông ấy cũng chính là dòng sông “Dùng dằng hoa quan họ / Nở tím bên sông Thương” trong bài “Chiều sông Thương” cùng tác giả ?
Tương phản với sông là sự vội vã của chim. Khi khí trời chuyển lạnh cũng là lúc các loài chim chuẩn bị cho chuyến di cư về phương Nam tránh rét trong mùa đông. Chúng “vội vã” vì mùa thu tới báo hiệu một mùa đông lạnh giá cũng sắp đến gần. Và mới chỉ “bắt đầu vội vã” thôi, chứ chưa phải là đang vội vã, tức là mới chỉ là “sang thu” thôi chưa hẳn là đã thu.
"Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu"
Vì chưa hẳn vào thu nên mới có một “đám mây mùa hạ” duyên dáng “vắt nửa mình sang thu”. Đám mây ấy cũng có nét gì đó giống “Đám mây trên Việt Yên / Rủ bóng về Bố Hạ” trong “Chiều sông Thương” nhưng ở “Sang thu” vẫn đẹp hơn, thơ hơn vì nó là đám mây chuyển mùa. Bầu trời lúc ấy như một bức tranh tuyệt đẹp về màu sắc, trải từ sắc hạ sang sắc thu. Nếu như ở khổ đầu tiên, cần có một cái ngõ thực để gợi lên ngõ thời gian thông giữa hai mùa thì ở khổ thứ hai, chỉ cần một áng mây lơ lửng cũng gợi ra được ranh giới rất nhẹ giữa hai mùa. Có cảm giác như đám mây là chiếc khăn voan đang được mùa hạ trao cho mùa thu, nó vẫn là của mùa hạ đấy, nhưng đã nhuốm sắc thu rồi. Phải rất nhạy cảm và tinh tế mới thấy được, mới sáng tạo được một hình ảnh thơ đẹp như thế ! Hữu Thỉnh đã tạo nên được những hình ảnh rất đẹp và giàu sức gợi cảm bằng cảm nhận tinh tế và sự sáng tạo của mình.
Nếu như cái hay của khổ đầu tiên là ở những từ ngữ gợi nên nhiều ẩn ý, cái đẹp của khổ thứ hai là ở những hình ảnh thơ đẹp và tinh tế thì khổ ba nổi bật lên nhờ ý nghĩa triết lí trong đó. Mùa thu không còn được cảm nhận trực tiếp nữa mà qua kinh nghiệm, bằng sự suy ngẫm của nhà thơ.
Bài làm
Nhà văn Vũ Hùng từng là cựu học sinh tại trường Chu Văn An và Đại học Bách khoa Hà Nội, năm 1950 ông nhập ngũ, phụ trách Đài trưởng Đài Vô tuyến điện của Trung đoàn. Với phong cách sáng tác: các tác phẩm của ông viết về chủ đề thiên nhiên, động vật, rừng núi, quãng thời gian quân ngũ với những cuộc hành quân đã mang lại nhiều khám phá về thiên nhiên, đất nước, phong tục tập quán của các dân tộc Việt, Lào chung sống trên dải đường Trường Sơn. Trong đó có lẽ để lại ấn tượng với tôi nhất là đoạn trích “Ông Một”.
Đoạn trích được trích từ Phía Tây Trường Sơn, in trong Những truyện hay viết cho thiếu nhi - Vũ Hùng, tập truyện gồm bốn truyện: Sao sao, Các bạn của Đam Đam, Phía Tây Trường Sơn, Ngày hè. Phía Tây Trường Sơn kể về chuyến đi của ba chiến sĩ trẻ ở Trung đoàn quân tình nguyện Việt Nam đến vùng Nam Lào vào năm 1947. Thời điểm đó, bộ đội Lào tặng cho bộ đội Việt Nam ba con voi để vận chuyển hàng hóa, vũ khí trên dãy Trường Sơn.
Tác phẩm Phía Tây Trường Sơn: Ba chiến sĩ Hưng, Sơn, Đức được giao nhiệm vụ vượt dãy Trường Sơn, đến bản Bun Mi, làng Vông Xay để học làm quản tượng rồi dong voi về. Trong chuyến đi kéo dài hơn một năm, họ được khám phá thế giới tự nhiên, học hỏi được nhiều điều mới lạ và thú vị về loài voi, những con vật thông minh, dũng cảm, trung thnafh và rất tình nghĩa với con người. Đồng thời, họ được trải nghiệm những phong tục tập quán, văn hóa của “đất nước” triệu voi như tục phóng sinh, ăn Tết, té nước, lễ chào đón một em bé ra đời, cách săn voi,... Chuyến đi đã để lại cho họ nhiều bài học về cách sống hài hòa với thiên nhiên, về thái độ trân trọng sự sống của muôn loài
Đoạn trích trong “Ông Một” nằm trong phần đầu của Phía Tây Trường Sơn. Ba chiến sĩ cùng với ông Cao - người dẫn đường cho họ vượt Trường Sơn - tình cờ gặp con voi (mà ông trân trọng gọi là ông Một) của Đề đốc Lê Trực, một lãnh tụ của nghĩa quân trong thời kì kháng chiến chống Pháp vào cuối thế kỉ XIX. Sau khi bị giặc vây hãm, nghĩa quân dần tan tác, Đề đốc Lê Trực buộc phải về quê, ông đã tặng con voi cho người quản tượng thân tín của mình chăm sóc. Ông Cao đã kể cho ba chiến sĩ nghe câu chuyện về con voi và người quản tượng.
Con voi được dân làng thân thương gọi cho cái tên Ông Một và đối với người quản tượng con voi như một người chiến hữu, một người thân của ông. Người quản tượng hiểu cho nỗi lòng nhớ rừng của voi nên ông đã để voi về với rừng già. Không ai biết voi đi đâu hay đến đâu nhưng hễ cứ đến mùa thu thì voi lại quay về nhà cũ và thăm người quả tượng.
Cứ như vậy được mười năm thì người quản tượng mất, khi voi về không thấy chủ cũ đâu nó đã về nhà cũ quỳ xuống, rống gọi, rên rỉ mãi mà không thấy người quản tượng đi ra. Con voi như một gười thể hiện niềm chua xót của mình khi mất người thân nó chạy quanh làng để tìm ông rồi những tiếng rên rỉ nghe buồn não lòng. Cứ như vậy cách vài năm voi lại quay về thăm làng một lần.
Đối với người quả tượng voi như người thân trong gia đình của ông thì đối với voi có lẽ người quả tượng không còn là chủ nữa mà là người thân ruột thịt của mình. Họ đối xử với nhau bằng sự chân thành, tình yêu thương tha thiết và sự thấu hiểu vậy nên trong lòng người quản tượng hay chú voi thì họ chính là ruột thịt của nhau.
Qua đoạn trích “Ông Một”, em thấy được thái độ và hành vi của con người sẽ tác động không nhỏ trong mối quan hệ với thế giới tự nhiên. Chúng ta cần tôn trọng, có cách cư xử thân thiện, xây dựng một mối quan hệ qua lại đối với giới tự nhiên. Đó chính là cốt lõi về lối ứng xử biết ơn đối với tự nhiên mà con người cần hướng đến. Hãy coi động vật cũng như là một người bạn, giúp ích mình trong cuộc sống.
Bài làm
Chim sơn ca hay còn gọi là chim chiền chiện, loài chim nhỏ bé nhưng kiêu hãnh này khi giá đông rét mướt, lúc nắng gắt đổ lửa hay mưa bão chết cò. Nó chỉ bay lên khi trời xanh trong, nắng vàng nhẹ, những bãi cỏ xanh thênh thênh nắng gió, đó đây những vạt lúa đang độ đông sữa mơn mởn xanh, tỏa mùi thơm thoang thoảng dịu nhẹ khắp cánh đồng. Trong đám cỏ nào đó, chim chiền chiện đột ngột bay vút lên cao, đến lưng chừng trời, nó sững lại, treo mình lơ lửng như một giọt mật và thả xuống từng chuỗi tiếng hót cũng trong veo như thế. Với loài chim này Huy Cận đã ưu ái mà dành riêng một bài thơ cho chúng là bài “Con chim chiền chiện”
Con chim chiền chiện bay lượn giữa khung cảnh thiên nhiên mênh mông, bao la rất đẹp. Có lúc tưởng như cánh chim đang đập trên tầng "cao vợi" của trời xanh:
"Cánh đập trời xanh
Cao hoài, cao vợi".
Hình ảnh con chim chiền chiện bay lượn, đang đập trên tầng “cao vợi” của trời xanh, giữa khung cảnh thiên nhiên mênh mông, bao la rất đẹp. Cùng với đó, là tiếng hót "long lanh" đầy ngọt ngào của chim, càng bay cao tiếng hót càng trong veo. Những hình ảnh đó khiến em vô cùng thích thú và liên tưởng đến cánh chim chiền chiện tung bay là cánh chim tự do tung hoành.
Có lúc, chim bay "sà" xuống, bay trên đồng lúa đang "ngậm sữa":
“Chim bay, chim sà
Lúa tròn bụng sữa
Đồng quê chan chứa
Những lời chim ca”.
Đoạn thơ tả chim chiền chiện tự do bay lượn và ca vang trên cánh đồng lúa đẹp Hình ảnh cánh đồng “chan chứa những lời chim ca” gợi vẻ đẹp của niềm vui và sự ấm no của đồng quê Việt Nam.
Có lúc, chim chiền chiện “biến mất” giữa màu xanh da trời, và chỉ còn nghe tiếng hót:
"Bay cao, cao vút
Chim biến mất rồi
Chỉ còn tiếng hót
Làm xanh da trời".
Đoạn thơ tả chim chiền chiện bay cao, cao mãi như biến vào bầu trời, chỉ để lại tiếng hót “làm xanh da trời”. Đó là hình ảnh gợi cho ta nghĩ đến một không gian cao rộng, tràn ngập vẻ đẹp thanh bình của đồng quê Việt Nam.
Hình ảnh con chim chiền chiện tự do bay lượn , ca hát giữa không gian cao rộng , trong khung cảnh thiên nhiên thanh bình là hình ảnh của cuộc sống ấm no , hạnh phúc , reo trong lòng người đọc cảm giác yêu đời , yêu cuộc sống .
Tiếng hót của chim chiền chiện thanh cao, trong trẻo đi sâu vào lòng tôi như lời ru của mẹ. Đúng thật, ngày tháng tuổi thơ tôi được nuôi dưỡng bằng lời ru ngọt ngào sâu lắng bên nôi của mẹ và giọng ca trong trẻo ngất trời của chim chiền chiện trên cánh đồng quê.
Chiền chiện là cánh chim của bầu trời cao xanh, là chim của đồng quê mang tình thương mến, chim càng bay cao tiếng hót càng trong veo. Sâu xa hơn nữa: cánh chim chiền chiện tung bay là cánh chim tự do trên bầu trời quê hương đất nước.
Huy Cận đã lấy khung cảnh thiên nhiên bao la xinh đẹp để làm cánh chim bay cao vút và tiếng hót ngọt ngào long lanh của chim chiền chiện.
Chiền chiện là cánh chim của bầu trời cao xanh, là chim của đồng quê mang tình thương mến, chim càng bay cao tiếng hót càng trong veo. Sâu xa hơn nữa: cánh chim chiền chiện tung bay là cánh chim tự do trên bầu trời quê hương đất nước.
Hình ảnh con chim chiền chiện tự do bay lượn giữa không gian cao rộng được vẽ lên qua những từ ngữ, hình ảnh đầy ấn tượng: “Bay vút, vút cao”, “Cánh đập trời xanh - Cao hoài, cao vợi”, "Chim bay, chim sà", "Bay cao, cao vút - Chim biến mất rồi"... Tiếng hót "ngọt ngào" của chim chiền chiện gợi cho ta nhiều xúc động. Nghe chim hót mà dào dạt tình yêu mến:
"Lòng đầy yêu mến
Khúc hát ngọt ngào?"
Có lúc tưởng như nghe “chim nói” mà lòng ta thêm "bối rối" bâng khuâng trước vận hội mới tốt đẹp đang đến với đất nước và dân tộc:
"Lòng đầy bối rối
Đời lên đến thì".
Chim hót gợi lên cảm giác một vụ lúa bội thu, đồng quê no ấm, yên vui:
"Đồng quê chan chứa
Những lời chim ca".
Chim hót làm cho da trời xanh thêm, một cảnh tượng đất nước thanh bình tươi đẹp, làm say mê lòng người:
"Bay cao, cao vút
Chim biến mất rồi
Chỉ còn tiếng hót
Làm xanh da trời".
Huy Cận quả là nhà thơ của tiếng chim, là nhà thơ của bầu trời, của đồng quê yêu dấu. Bài thơ Con chim chiền chiện đó là hình ảnh con chim chiền chiện tự do bay lượn, hát ca giữa không gian cao rộng, trong khung cảnh thiên nhiên thanh bình là hình ảnh của cuộc sống ấm no, hạnh phúc, gieo vào lòng người cảm giác thêm yêu đời, yêu cuộc sống.