[toc:ul]
Những nét cơ bản về tình hình Việt Nam sau năm 1867:
Thực dân Pháp đã tiến hành kế hoạch đánh chiếm Bắc Kì theo những kế hoạch đã vạch ra từ trước.
Cuối 1872, chúng cho người gây rối ở Hà Nội nhằm tạo cơ hội can thiệp sâu vào vấn đề Bắc Kì.
Lấy cớ đó, Gác-ni-ê đã đưa hơn 200 quân Pháp ra Bắc.
Sau đó, Pháp cho quân đánh thành Hà Nội ngày 20/11/1873. Sau khi chiếm được thành, chúng cho quân đánh các tỉnh Hưng Yên, Phủ Lý, Hải Dương,, Ninh Bình và Nam Định.
Quân triều đình ở Hà Nội đông mà vẫn không thắng được giặc vì quân ta vũ khí thô sơ, triều đình chưa từng tổ chức kháng chiến cho nhân dân. Vì vậy, cuộc chiến đấu do Nguyễn Tri Phương chỉ huy chỉ diễn ra đơn lẻ và không nhận được sự hỗ trợ từ các nơi khác.
Diễn biến trận Cầu Giấy:
Khi thấy lực lượng của địch ở Hà Nội yếu, quân ta đã khép chặt vòng vây.
Ngày 21/12/1873, quân Pháp phải phá vòng vây đánh ra Cầu Giấy.
Chớp thời cơ quân đội của Hoàng Tá Viêm và quân cờ đen của Lưu Vĩnh Phúc phục kích.
Kết quả: Gác –ni-ê và nhiều sĩ quan thực dân, binh lính của Pháp bị giết tại trận.
Ngày 15/3/1874, triều đình Huế kí hiệp ước Giáp Tuất với thực dân Pháp.
Nguyên nhân triều đình Huế kí hiệp ước là do triều đình muốn bảo vẹ quyền lợi của giai cấp và dòng họ nên triều đình Huế đã trượt dài trên con đường đi đến đầu hàng hoàn toàn thực dân Pháp. Tuy nhiên, đó là một sự tính toán thiếu cẩn thận của triều đình Nguyễn khiến cho chủ quyền dân tộc bị xâm phạm nhiều hơn, tạo điều kiện để Pháp thực hiện âm mưu xâm lược tiếp theo.
Âm mưu của Pháp là sau 1874, Pháp quyết tâm chiếm bằng được Bắc Kì, biến nước ta thành thuộc địa. Do đó, lấy cớ triều đình Huế vi phạm Hiệp ước 1874, tiếp tục giao thiệp với nhà Thanh, Pháp đem quân xâm lược Bắc Kì lần hai vào năm 1882.
Diễn biến:
Mặc dù, Ri-vi-e bị giết tại trận Cầu Giấy năm 1883 nhưng Pháp vẫn không nhượng bộ triều đình Huế vì: lúc đó triều đình Huế lại chủ trương thương lượng với Pháp, hi vọng nhờ chiến thắng này mà địch sẽ rút quân. Nhân cơ hội vua Tự Đức mất, triều đình Huế đang lục đục, thực dân Pháp cho thêm viện binh tấn công thẳng vào Thuận An – cửa ngõ kinh thành Huế.
Thái độ của nhân dân ta khi triều đình Huế kí hiệp ước đầu hàng thực dân Pháp là vô cùng căm phẫn cả triều đình Huế lẫn bọn thực dân Pháp. Từ đó, khiến cho các phong trào kháng chiến chống Pháp được nổ ra liên tục và mạnh mẽ hơn. Các quan lại triều đình ở các địa phương đã phản đối lệnh bãi binh để phái chủ chiến trong triều đình đẩy mạnh hoạt động.
Hiệp ước 1883 | Hiệp ước 1884 |
|
|
Từ khi thực dân Pháp nổ súng tấn công xâm lược nước ta năm 1858 đến năm 1884, triều đình Huế đã kí với chúng tất cả 4 bản hiệp ước để thỏa hiệp.
Bản hiệp ước đầu tiên là hiệp ước Nhâm Tuất năm 1862, triều đình Huế đã thừa nhận sự cai quản của Pháp ờ 3 tỉnh Nam Bộ (Gia Định. Định Tường, Biên Hoà) và đảo côn Lôn ; mở 3 cửa biển cho Pháp vào buôn bán...
Tiếp đến, bản hiệp ước Giáp Tuất 1874, triều đình thừa nhận 6 tỉnh Nam Kì hoàn toàn thuộc Pháp...
Đến hiệp ước Hác-măng 1883, triều đình Huế chính thức thừa nhận nền bảo hộ của Pháp ờ Bắc Kì và Trung Kì...; mọi việc giao thiệp với nước ngoài (kể cả với Trung Quốc) đều do Pháp nắm.
Cuối cùng, đến hiệp ước Pa-tơ-nốt 1884, triều đình thừa nhận sự bảo hộ của nước Pháp.
Như vậy, qua mỗi một hiệp ước, chúng ta điều lần lượt nhượng bộ cho Pháp. Từ chỗ cắt từng bộ phận lãnh thổ rồi đi đến thừa nhận nền thống trị của Pháp trên toàn bộ lãnh thổ nước ta.