Soạn văn 12 cực chất bài: Vợ chồng A Phủ

Soạn bài: “ Vợ chồng A Phủ” - ngữ văn 12 tập 2 siêu chất. Nhằm giúp học sinh giảm bớt thời gian soạn bài nhưng vẫn đảm bảo nắm đủ ý, baivan giới thiệu các em tổ hợp bài soạn cực chất: cực ngắn, siêu ngắn và ngắn nhất. Từ đó, học sinh có thêm lựa chọn bài soạn phù hợp với của mình. Soạn “ Vợ chồng A Phủ” cực chất - baivan

[toc:ul]

I. Câu hỏi trong bài học

Bài tập 1: Trang 14 sgk ngữ văn 12 tập 2

Tìm hiểu số phận và tính cách nhân vật Mị qua:

  •  Cảnh ngộ bị bắt về làm dâu gạt nợ, cuộc sống bị đọa đày tủi cực ở nhà thống lí Pá Tra.
  •  Diễn biến tâm trạng và hành động

Bài tập 2: Trang 15 sgk ngữ văn 12 tập 2

Ấn tượng của anh (chị) về tính cách nhân vật A Phủ (qua hành động đánh nhau với  Sử, lúc bị xử kiện và khi về làm công gạt nợ nhà thống lí Pá Tra). Bút pháp của nhà văn khi miêu tả nhân vật Mị và A Phủ có gì khác nhau?

Bài tập 3: Trang 15 sgk ngữ văn 12 tập 2

Những nét độc đáo trong quan sát và diễn tả của tác giả về đề tài miền núi (nếp sinh hoạt, phong tục, thiên nhiên, con người, xây dựng tình huống, cốt truyện, nghệ thuật dẫn truyện)

Luyện tập: Trang 15 sgk ngữ văn 12 tập 2

Qua số phận của cả hai nhân vật Mị và A Phủ, hãy phát biểu ý kiến của anh (chị)  về giá trị nhân đạo của tác phẩm. 

Đề bài: Phân tích tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” của nhà văn Tô Hoài

Đề bài: Anh chị hãy phân tích diễn biến tâm trạng của Mị trong đêm cởi trói cho A Phủ.

Đề bài: Cảm nhận của anh chị về hành động Mị chạy theo A Phủ trong “Vợ chồng A Phủ” của Tô Hoài.

Đề bài: Phân tích sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị được thể hiện trong cảnh ngộ khi bị bắt làm dâu gạt nợ trong nhà thống lí Pá Tra đến khi thoát khỏi Hồng Ngài.

Đề bài: Anh chị hãy nêu cảm nhận về nhân vật A Phủ trong truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” (Tô Hoài).

Đề bài: Phân tích giá trị nhân đạo trong truyện ngắn "Vợ chồng A Phủ" (Tô Hoài)  qua số phận hai nhân vật Mị và A Phủ.

Đề bài: Những đặc sắc về nghệ thuật trong truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” (Tô Hoài).

Giá trị nội dung và nghệ thuật trong Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài

II. Soạn bài siêu ngắn: Vợ chồng A phủ

Bài tập 1: 

Hình ảnh Mị qua cảnh ngộ bị bắt về làm dâu để gạt nợ, cuộc sống bị đọa đày tủi cực ở nhà thống lí Pá Tra.

  •  Mị xuất hiện trong lời kể về thời qúa khứ của cô là cô gái Mèo hoàn thiện. Mỗi ngày sống, trái tim cô như tràn căng hồi hộp sung sưởng chờ nghe âm thanh tiếng sáo quen thuộc của người yêu. Bố Mị  vay tiền của Pá Tra. Mị  đã trở thành vật thế gán nợ và thành nô lệ trong hoàn cảnh khắc nghiệt như thế. 
  • Phản ứng của Mị những ngày đầu là mấy tháng ròng, đêm nào Mị  cũng khóc và định tự tử. Đã bao lần Mị định chết, thế nhưng điều đó thật xót xa. Mị muốn chết cũng không được chết. Bởi cô chết món nợ đó vẫn còn, và đương nghiên cha cô là người phải chịu món nợ đó. Vì thương cha, Mị đành tiếp tục sống. 
  •  Những năm tháng sống  trong nhà thống lí Pá Tra  là chuỗi ngày địa ngục, Mị  xuất hiện trong không gian ấy như một cái bóng, suốt ngày cúi mặt im lặng. Đó vẫn chưa phải nỗi đau đớn thật sự, quanh quẩn một vòng tròn nặng nề không lối thoát: " Mỵ cúi mặt không nghĩ nữa, mà lúc nào cũng chỉ nhớ đi nhớ lại những việc giống nhau, tiếp nhau vẽ ra trước mắt … con ngưạ, con trâu làm còn có lúc nghỉ ..đàn bà con gái nhà này thì vùi đầu làm việc cả đêm cả ngày".
  •  Cùng với công việc nặng nhọc triền miên là sự hành hạ trực tiếp của cha con thống lí trên thân xác, bản thân Mị bị đánh, trói và từng chứng kiến không biết bao nhiêu người bị hành hạ đến chết .Cô tự rút ra kết luận: mình không bằng con ngựa. Và rồi hành động của cô tê liệt : lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa.
  •  Tuy nhiên nỗi đau khổ tinh thần mới là thật sự là nỗi đau tê tái, nó biến Mị  thực sự trở thành “con vật”mang tên người. Mất tình yêu đầu là nỗi đau tinh thần quá khứ, nhưng đau hơn, xót hơn là Mị không được phép nghĩ về nó; bởi mỗi ý nghĩ về tình xưa ở nơi cô đồng nghĩa với sự phạm tội ghê gớm. Chúa đất miền núi và tập tục cúng ma do chúng lập nên, đã ràng buộc một cô gái có chồng và Mị sống song tồn với một ý nghĩ : Mình đã " trình ma nhà thống lý thì chỉ có còn cách chết rũ xương ở đây.
  • Mị bị cấm đoán trong việc hoà nhập cộng đồng. A sử trói Mi , dùng bạo lực quyết liệt tách Mị ra khỏi thế giới con người . Thể xác ấy, tâm hồn ấy bị giam hãm trong không gian chật hẹp tù đọng, làm cho nỗi đau thêm chồng chất, sự bất lực đến cực cùng. 
  •  Trong không gian oi ngạt ấy, thời gian như ngưng đọng. Trước mắt  Mị chỉ là sắc màu hoàng hôn dài đằng đẵng buồn tẻ, tê tái. Mị thực sự không còn sống nữa mà chỉ còn là một sinh thể tồn tại chậm chạp bước về cõi chết. 

Diễn biến tâm trạng và hành động

  •  Mị là cô gái có sức sống mãnh liệt. Ngọn lửa ấy bùng cháy trong đêm tình mùa xuân. Và cuối cùng Mị quyết định đi chơi. 
  •  Sau cuộc nổi loạn trong đêm tình mùa xuân. Thế nhưng vì lòng thương người, Mị cứu A Phủ và vì sợ chết Mị chạy theo A Phủ và giải thoát cho mình 
  •  Như vậy, Mị là cô gái có sức sống tiềm tàng mãnh liệt, cô gái có lòng thương người. 

Bài tập 2: Ấn tượng về tính cách nhân vật A Phủ 

Tính cách nhân vật A Phủ qua các tình huống:

  • A Phủ xuất hiện trong cuộc đối đầu với A Sử:  A Phủ là người tự do, hồn nhiên chất phác, bảo vệ lẽ phải, tính cách mạnh mẽ, gan góc, một khát vọng tự do được bộc lộ quyết liệt, là đứa con của núi rừng, tự do, hồn nhiên, chất phác.
  •  Cuộc xử kiện: A Phủ gan góc quỳ chịu đòn chỉ im như tưọng đá
  •  Khi về nhà thống lí Pá Tra làm công gạt nợ:   chăm chỉ,và A Phủ là một người trung thực. 

Bút pháp của Tô Hoài khi miêu tả nhân vật Mị có những nét khác với khi miêu tả nhân vật A Phủ. Tác giả dành cho Mị những trang văn buồn thương, đau xót; còn với A Phủ, tác giả dùng những lời văn mạnh mẽ, rắn rỏi (bên những câu buồn thương, đau xót xuống nhân vật Mị).

Bài tập 3: Nét đọc đáo trong quan sát và diễn tả của Tô Hoài về đề tài miền núi. 

  •  Nghệ thuật miêu tả phong tục tập quán của Tô Hoài rất đặc sắc với những nét riêng.
  •  Nghệ thuật miêu tả thiên nhiên miền núi với nhũng chi tiết, hình ảnh thấm đượm chất thơ. 
  •  Nghệ thuật kể chuyện tự nhiên, sinh động, hấp dẫn
  •  Ngôn ngữ tinh tế mang đậm màu sắc miền núi. 

Luyện tập: Giá trị nhân đạo của tác phẩm. 

  •  Qua tác phẩm ta thấy xót thương cho Mị cô gái xứng đáng có được hạnh phúc, thấy được sự bạo ngược của bọn thống trị, chà đạp số phận con người.
  •  Gía trị  nhân đạo của tác phẩm còn được thể hiện khi qua hành động đối xử tàn bạo của cha con nhà thống lí với Mị và A Phủ chẳng khác gì con vật biết nói. 
  •  Như vây, tác phẩm Vợ chồng A Phủ mang giá trị nhân đạo và ý nghĩa nhân văn sâu sắc. Nó được tạo bởi niềm cảm thông sâu sắc nỗi đau của con người. Sự nâng niu nét đẹp tâm hồn và hơn cả là sự giải phóng số phận của con người. 

 Đề bài: Phân tích tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” của nhà văn Tô Hoài

Bài tham khảo

    “Vợ chồng A phủ” là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của nhà văn Tô Hoài. Truyện ngắn là kết quả của 8 tháng tham gia chiến dịch Tây Bắc, sống và gắn bó nghĩa tình với đồng bào dân tộc của nhà văn. Có thể nói, “Vợ chồng A Phủ” là bức tranh chân thực về cuộc sống sinh hoạt của người dân lao động vùng núi cao dưới ách thống trị tàn bạo của bọn thực dân phong kiến miền núi.

    Về nội dung, “Vợ chông A Phủ” chính là lời tố cáo đanh thép chế độ thực dân nửa phong kiến. Truyện đã phản ánh chân thực mâu thuẫn giai cấp căng thẳng và cuộc sống tăm tối của nhân dân lao động nghèo ở miền núi Tây Bắc.

Tác phẩm mở đầu bằng lời kể về hoàn cảnh nhân vật Mị: “Ai ở xa về, có dịp vào nhà thống lí Pá Tra thường trông thấy có một cô gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tầu ngựa . Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi”. Vẻ âm thầm, buồn bã cùng công việc vất vả của Mị hoàn toàn đối lập với sự giàu sang, tấp nập của gia đình nhà thống lý. Bằng cách mở đầu đầy nghịch lí như vậy, Tô Hoài gợi được sự tò mò nơi độc giả đồng thời cũng hé mở số phận đau khổ của Mị trong nhà chồng.

Trước khi về làm dâu nhà thống lí Pá Tra, Mị là một cô gái H'mông xinh đẹp, tài hoa, hiếu thảo. Tiếng sáo của Mị khiến trai bản “đứng nhẵn cả chân vách buồng”. Nhưng, chỉ vì nghèo, không trả nổi tiền cho nhà thống lí nên Mị đã bị bắt về làm dâu gạt nợ. Từ đây, bao nhiêu hi vọng về hạnh phúc, về tương lai của cô như vụt tắt. Là con nợ, trả nợ xong là thôi nhưng đằng này Mị còn là một cô con dâu. Một cổ 2 gông, tất cả đã đẩy cuộc đời Mị vào vòng tuần hoàn của khổ đau.

Khi mới bị bắt, đêm nào Mị cũng khóc, có lần cô trốn về nhà định ăn lá ngón tự tử. Qua nhưng chi tiết này, ta thấy được tinh thần phản kháng quyết liệt, không chấp nhận số phận của Mị. Quyết định tìm đến cái chết của cô không phải là biểu hiện của sự đầu hàng, buông xuôi. Đó là tiếng nói phản kháng đầy mạnh mẽ của một con người luôn khát khao tự do, khát khao hạnh phúc. Đối với Mị, làm dâu nhà thống lí Pá Tra còn đáng sợ hơn cái chết, bởi vì ở đó, cô không được đối xử như một con người, không được lên tiếng quyết định cuộc đời mình, không có tự do cũng như hạnh phúc. Nhưng vì cha, Mị lại chấp nhận tiếp tục sống và chịu đựng: “Ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi. Bây giờ thì Mị tưởng mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa...”. Từ một người con gái đầy sức sống, Mị giờ đây “lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”. Hình ảnh căn buồng Mị nằm với chiếc “cửa sổ một lỗ vuông bằng bàn tay. Lúc nào trông ra cũng chỉ thấy trăng trắng, không biết là sương hay là nắng” như một nhà giam không những giam hãm thân xác mà còn vây khốn tâm hồn Mị. Đó cũng là hiện thực đầy tàn khốc của những người dân nghèo dưới ách thống trị của bọn địa chủ phong kiến. Họ không chỉ bị tước đoạt tự do thân thể, mà tinh thần họ cũng vướng phải gông xiềng của lề thói, hủ tục. 

Giữa bức tranh tăm tối ấy, đêm tình mùa xuân cùng tiếng sáo gọi bạn réo rắt như thổi một làn gió mới làm bùng lên ngọn lửa yêu thương, khát vọng sống tiềm tàng ngỡ đã vụt tắt. Tiếng sáo được Tô Hoài miêu tả nhiều lần với nhiều tầng bậc khác nhau: “Ngoài đầu núi…thổi”, “Tai Mị… gọi bạn”, “Trong đầu… sáo”, “Tiếng sáo… chơi”. Tiếng sáo gợi nhớ về kỉ niệm, tiếng sáo thôi thúc Mị tìm đến niềm hạnh phúc yêu thương. Thế nhưng, A Sử xuất hiện và giết chết khát vọng sống trong Mị, hắn “lấy thắt lưng trói hai tay Mị. Nó xách cả thúng sợi đay ra trói đứng Mị vào cột nhà. Tóc Mị xoã xuống. A Sử quấn luôn tóc lên cột, làm cho Mị không cúi, không nghiêng được đầu nữa”. Sự lạnh lùng, tàn ác của A Sử đối với Mị không phải là một trường hợp cá biệt, trước đó, có người đàn bà cũng đã bị trói đến chết trong nhà này. Đến đây, bức tranh về tội ác dã man của bọn địa chủ phong kiến được hiện lên rõ nét. Đối với chúng, mạng sống con người chẳng khác gì con trâu, con ngựa. 

Bên cạnh hình tượng nhân vật Mị là A Phủ, một thanh niên mồ côi cha mẹ từ nhỏ, lao động giỏi “chạy nhanh như ngựa, con gái trong làng nhiều người mê”. Vì đánh con quan, A Phủ bị phạt vạ và từ đó trở thành nô lệ cho nhà thống lí. Có thể thấy, dù là một chàng trai gan góc, mạnh mẽ, nhưng cuối cùng, A Phủ cũng như Mị, không thể thoát khỏi bàn tay tội ác của bọn địa chủ phong kiến, ở đây đại diện là nhà thống lí Pá Tra.

Ở trong nhà thống lí Pá Tra, sinh mạng người dân nghèo không bằng cả súc vật. Chỉ vì làm mất bò, A Phủ bị trói đứng giữa trời đông lạnh lẽo. Và giọt nước mắt của anh là giọt nước mắt của sự đắng cay, sự cô độc, bất lực và tuyệt vọng.

Đây là chi tiết vô cùng đắt giá. Giọt nước mắt ấy thể hiện tâm trạng tuyệt vọng của A Phủ đồng thời nó cũng làm dậy lên niềm đồng cảm, xót thương và sức sống ngỡ đã chai sạn trong Mị. Tình cảnh của A Phủ làm Mị nhớ lại đêm mùa xuân mà cô bị A Sử trói nơi cột nhà. Cô chợt cảm thấy xót thương cho chàng trai tội nghiệp kia, xót thương cho tình cảnh của chính mình. Dòng nước mắt của A phủ như thổi bùng khát vọng sống trong Mị mà lâu nay bị lớp tro tàn phong kiến phủ kín. Hành động Mị cắt dây trói cứu thoát A Phủ và chạy khỏi nhà thống lí Pá Tra là sự trỗi dậy của sức sống tiềm tàng, khao khát tự do hạnh phúc của con người bị áp bức

Có thể nói, bằng tài năng tuyệt vời của mình, Tô Hoài đã xây dựng nên những hình tượng nhân vật vô cùng chân thực và sống động. Nếu Mị là hình tượng tiêu biểu cho phụ nữ miền núi nước ta trong thời kì trước Cách mạng đến những năm kháng chiến chống Pháp thì A Phủ mang nét đẹp tiêu biểu cho những thanh niên dân tộc miền núi Tây Bắc: thật thà, chất phát, khoẻ mạnh tuy bị đẩy vào số phận khổ đau nhưng không nguôi khát vọng tự do. Bên cạnh bức tranh hiện thực về tội ác của giai cấp thống trị cùng cuộc sống tăm tối của nhân dân, tác phẩm còn là một bài ca về tình người, bài ca về khát vọng sống, khát vọng tự do. Hành động cắt đứt dây trói, bước chân gấp gáp chạy khỏi nhà thống lí và đứng dưới là cờ Cách mạng của Mị và A Phủ chính là sự vùng lên tất yếu của những con người không đầu hàng số phận. Tác giả bày tỏ sự đồng cảm, xót thương nhưng cũng đầy tự hào, ngợi ca khi viết về họ và cuộc đời của họ. Đó cũng chính là giá trị nhân đạo sâu sắc của tác phẩm này,

    Về nghệ thuật, tác phẩm cho thấy tài năng trong việc dẫn chuyện và miêu tả tâm lí nhân vật của Tô Hoài. Đặc biêt, dưới ngòi bút miêu tả bậc thầy, Tô Hoài cũng đã phát họa cho người đọc một cuộc xử kiện sống động và giàu sức tố cáo, từ đó vạch trần sự áp bức dã man của bọn thống trị miền núi. Qua giọng kể khi thì khách quan, khi thì nhập vào nhân vật, cùng ngôn ngữ sinh động, chọn lọc, có sáng tạo, bức tranh về thiên nhiên và cuộc sống sinh hoạt của người dân Tây Bắc đã được hiện lên vô cùng chân thật và xúc động. 

  Tóm lại, có thể khẳng định, “Vợ chồng A Phủ” là một trong những tác phẩm mẫu mực nhất khi viết về thiên nhiên và con người miền núi. Qua “Vợ chồng A Phủ”, Tô Hoài đã khẳng định tên tuổi của mình trong văn đàn đồng thời ghi dấu ấn sâu đậm trong lòng người đọc bao thế hệ. 

Đề bài: Anh chị hãy phân tích diễn biến tâm trạng của Mị trong đêm cởi trói cho A Phủ.

Bài tham khảo

Tô Hoài là nhà văn có sức sáng tạo bậc nhất trong nền văn học Việt Nam hiện đại với gần 200 đầu sách thuộc nhiều thể loại khác nhau như truyện ngắn, tiểu thuyết, kí, tự truyện… và “Vợ chồng A Phủ” được xem là truyện ngắn đặc sắc nhất trích từ tập Truyện Tây Bắc. “Vợ chồng A Phủ” đã khắc họa thành công bức tranh hiện thực của người dân miền núi dưới ách thống trị của bọn thực dân nửa phong kiến. Đồng thời, tác giả cũng thể hiện giá trị nhân đạo sâu sắc khi mở đường giải thoát cho thân phận hai kẻ nô lệ bất đắc dĩ – Mị và A Phủ. Trong đó, diễn biến tâm trạng của Mị trong đêm cởi trói cho A Phủ đã để lại cho người đọc những ấn tượng sâu đậm nhất.

Trước tiên, chúng ta cần khái quát lại nội dung của truyện. “Vợ chồng A Phủ” xoay quanh cuộc đời của hai nhân vật chính – Mị và A Phủ. Đó là hai con người trẻ trung, giàu sức sống, yêu đời và tài năng nhưng chẳng may lại trở thành nô lệ, mang lấy kiếp trâu ngựa, bị áp bức bởi bọn thực dân phong kiến mà điển hình ở đây là gia đình thống lý Pá Tra. Mị trước khi làm dâu là cô gái xinh đẹp, những ngày Tết “trai đến đứng nhẵn cả chân vách đầu buồng Mị”, hiếu thảo “Con nay đã biết cuốc nương làm ngô, con phải làm nương ngô giả nợ thay cho bố. Bố đừng bán con cho nhà giàu”, tài năng “Ngày trước, Mị thổi sáo giỏi”. Còn A Phủ tuy chịu mất mát từ nhỏ “Anh của A Phủ, em A Phủ chết, bố mẹ A Phủ cũng chết. Còn sót lại một mình A Phủ” nhưng lại có bản lĩnh hơn người “không chịu ở dưới cánh đồng thấp”. Bên cạnh đó, A Phủ còn là chàng trai khỏe mạnh, tài giỏi “đã biết đúc lưỡi cày, biết đục cuốc, lại cày giỏi và săn bò tót rất bạo”, “A Phủ khỏe, chạy nhanh như ngựa, con gái trong làng nhiều người mê”…. Mị vì món nợ gia đình mà trở thành con dâu gạt nợ. A Phủ vì tội đánh A Sử mà trở thành nô lệ. Hai con người lương thiện phải chôn vùi cuộc đời tươi trẻ của mình dưới gầm trời nhà thống lý. Trong đêm tình mùa xuân, Mị đã tỉnh lại quá khứ tươi đẹp khi xưa nhờ men rượu và tiếng sáo. A Phủ vì để mất một con bò mà bị bắt trói đứng nhiều đêm liền. Trước tình cảnh đó, ban đầu Mị dửng dưng, vô cảm. Dần dần, lòng thương người trỗi dậy, Mị quyết định cắt dây cởi trói cho A Phủ. Có thể thấy, diễn biến tâm trạng của nhân vật Mị đã được Tô Hoài miêu tả một cách sinh động, tài hoa.

Trước đêm cởi trói cho A Phủ, Mị là cô gái vô cảm. Như chúng ta đã biết, sau khi về làm dâu gạt nợ, thực chất là con ở không công nhà thống lý, Mị bị đày đoạt về thể xác và tước đoạt về linh hồn. Tô Hoài đã nhiều lần so sánh hình ảnh Mị với loài vật không hơn không kém “Bây giờ Mị tưởng mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa, là con ngựa phải đổi ở cái tàu ngựa nhà này đến ở cái tàu ngựa nhà khác, ngựa chỉ biết việc ăn cỏ, biết đi làm mà thôi”, “Con ngựa, con trâu làm còn có lúc, đêm nó còn được đứng gãi chân, đứng nhai cỏ, đàn bà con gái nhà này thì vùi vào việc làm cả đêm lẫn ngày”, “Mỗi ngày Mị càng không nói, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”… Sự chai lì cảm xúc đã in hằng lên gương mặt xinh tươi ngày trước đến mức Mị chẳng còn màng đến cái chết nữa bởi “Ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi”. Phải chi Mị còn muốn tự tử, phải chi Mị còn đau đớn bởi sự bất công, đày đọa của cuộc đời này thì ít ra, ta còn thấy Mị còn sót lại chút lí tưởng sống. Đằng này, Mị gần như từ bỏ, gần như buông xuôi, gần như chấp nhận sự phi lí, bất nhân của cuộc đời như một lẽ thường hằng. Đến đêm tình mùa xuân đến, sức sống tiềm tàng trong Mị trỗi dậy nhưng lại nhanh chóng bị dập tắt bởi sự bạo tàn của A Sử “A Sử bước lại, nắm Mị, lấy thắt lưng trói hai tay Mị”. Bị trói đứng cả đêm nhưng Mị vẫn nghe hơi rượu, nghe tiếng sáo, vẫn giật mình cựa quậy khi nhớ câu chuyện rùng rợn ngày trước “ở nhà thống lý Pá Tra có một người trói vợ trong nhà rồi đi chơi, khi về nhìn đến thì vợ chết rồi”. Ý thức về sự sống trỗi dậy nhưng có vẻ còn quá yếu ớt để đòi hỏi một sự giải thoát, một cuộc cách mạng.

Gặp A Phủ bị gia đình thống lý Pá Tra trừng phạt tàn nhẫn – trói đứng ngoài sân nhiều đêm liền nhưng Mị vẫn thản nhiên thổi lửa, hơ tay “nếu A Phủ là cái xác chết đứng đấy, cũng thế thôi”. Than ôi! Còn sự nhẫn tâm nào hơn! Mị từ cô gái vui vẻ, yêu đời nay trở thành kẻ lạnh lùng, vô cảm. Trước những người cùng cảnh ngộ, Mị chẳng còn đủ nước mắt để xót thương. Lúc ấy, chỉ còn Mị với ngọn lửa vô tri vô giác ngoài kia.

Trong lúc cởi trói cho A Phủ, tâm trạng Mị chuyển hóa từ vô cảm đến đồng cảm. Mị mơ hồ thấy tội, thấy thương cho A Phủ. Mị đặt ra nghi vấn cho kiếp nô lệ mà chàng trai bất hạnh kia phải gánh lấy. Mị nhớ đến đời mình như một điều tất yếu, một sự liên hệ giữa những người cùng gánh lấy cuộc đời bi kịch, cùng là những con người thấp cổ bé họng. Họ đã cam chịu bấy lâu nay, đã bị giày xéo thể xác lẫn linh hồn.

Chi tiết đánh dấu sự chuyển biến tâm lí của Mị là giọt nước mắt của A Phủ “Ngọn lửa bập bùng sáng, Mị lé mắt trông sang, thấy hai mắt A Phủ cũng vừa mở, một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại”. Lòng nhân đạo trong Mị bừng tỉnh, Mị nhận ra tội ác của kẻ thù, xót thương cho tình cảnh của người vô tội “Trời ơi, nó bắt trói đứng người ta cho đến chết, nó bắt mình cũng chết thôi”, “chúng nó thật độc ác”, “cơ chừng này chỉ đêm mai là người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết”, “người kia việc gì mà phải chết thế”…. Cô Mị vô cảm ngày trước giờ nhận ra sự phi lý trong kiếp đọa đày.

Từ đó, lòng thương người trong đã âm thầm mạnh mẽ lớn lên trong Mị, đưa Mị đến một quyết định táo bạo: cắt dây cởi trói cho A Phủ “Mị lấy con dao nhỏ cắt lúa, cắt nút dây mây”.

Sau khi cắt dây cởi trói cho A Phủ, Mị bắt đầu hiện thực hóa cuộc lội ngược dòng ý thức cá nhân. Sự sống và cái chết gần trong tấc gang, buộc Mị phải thực sự đối đầu với sự lựa chọn. Hoặc là trở thành cái xác thay thế cho A Phủ, hoặc là mạo hiểm làm một cuộc giải thoát “Mị đứng lặng trong bóng tối”. Cuối cùng, sức sống tiềm tàng và khao khát tự do đã chiến thắng “Rồi Mị cũng vụt chạy ra. Trời tối lắm. Nhưng Mị vẫn băng đi”. Bước chân của Mị bây giờ không có sự đàn áp nào của cường quyền, thần quyền ngăn cản nổi “Ở đây thì chết mất”. Qua hành động chạy theo A Phủ, Tô Hoài đã thể hiện giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo sâu sắc nhất, thể hiện tiếng nói cứu lấy con người từ trong tận cùng đày ải, đau thương “Người đàn bà chê chồng đó vừa cứu sống mình”.

Thông qua ba quá trình diễn biến tâm lí cơ bản: trước, trong và sau khi cắt dây cởi trói, Tô Hoài đã thể hiện được tài năng của bản thân thông qua ngòi bút khắc họa nhân vật. Từ ngoại hình đến tính cách, chân dung Mị và A Phủ hiện lên sinh động và mang đậm màu sắc của người dân lao động vùng cao Tây Bắc. Đồng thời, người đọc còn được thấy rõ sự phản kháng, tranh đấu, vượt thoát khỏi cuộc sống tăm tối để tìm đến tự do, hạnh phúc trong chặng đời về sau.

Tóm lại, diễn biến tâm trạng trong đêm cởi trói cho A Phủ mang tính chuyển biến mạnh mẽ, đánh dấu một cuộc lội ngược dòng táo bạo. Qua đó, ta thấy được con đường giải thoát, niềm tin và lí tưởng của các nhân vật trong tác phẩm của nhà văn Tô Hoài nói riêng và các nhà văn sau cách mạng nói chung.

Đề bài: Cảm nhận của anh chị về hành động Mị chạy theo A Phủ trong “Vợ chồng A Phủ” của Tô Hoài.

“Vợ chồng A Phủ” là tác phẩm được trích từ tập Truyện Tây Bắc của nhà văn Tô Hoài. Tập truyện đã được tặng giải Nhất, giải thưởng của Hội Văn nghệ Việt Nam 1945 – 1955. Trong đó, “Vợ chồng A Phủ” là một truyện ngắn hay viết về một sự đổi đời kì diệu. Xoay quanh hai nhân vật chính là Mị và A Phủ, Tô Hoài đã khắc họa hai chặng đường hoàn toàn đối lập. Chặng đường đầu tiên là những ngày ở Hồng Ngài, Mị và Phủ - hai con người xinh tươi, giỏi giang phải cam cảnh nô lệ ê chề. Chặng đường thứ hai là ở Phiềng Sa, Mị và A Phủ đã vùng lên từ bóng đêm của cường quyền, thần quyền để đến với ánh sáng của tự do. Sự kiện đánh dấu bước chuyển biến giữa hai chặng đường chính là hành động Mị cắt dây cởi trói và chạy theo A Phủ.

Hành động Mị chạy theo A Phủ trước nhất chính là hành động Mị chạy khỏi những áp bức, đày đọa của đời mình. Cuộc đời của Mị những ngày tháng ở Hồng Ngài gồm hai giai đoạn chính: trước khi làm dâu và sau khi làm dâu nhà thống lý Pá Tra. Trước khi bị bắt về cái gia đình đã giết chết tuổi xuân của mình, Mị là một cô gái trẻ trung, xinh đẹp, tài năng, yêu lao động lại hiếu thảo với cha mẹ. Mị cũng có tình yêu như bao người, cũng được bao kẻ say mê, theo đuổi “con trai đến đứng nhẵn cả vách đầu giường nhà Mị”. Tô Hoài đã miêu tả tài năng thổi sáo của Mị như sau “Mị thổi sáo giỏi, thổi lá cũng hay như thổi sáo. Có biết bao người say mê, ngày đêm thổi sáo đi theo Mị”. Đứng trước món nợ của bố, Mị nhận lấy trách nhiệm của người con, thà là vất vả lao động “Con nay đã biết cuốc nương làm ngô, con phải làm nương ngô giả nợ thay cho bố” còn hơn phải trở thành con dâu gạt nợ “Bố đừng bán con cho nhà giàu”. Thế nhưng số phận bi kịch đã không nhún nhường và buông tha cho Mị. Mị bị bắt và trở thành con dâu gạt nợ. Mị bị bắt đem cúng “trình ma” nhà thống lý. Từ đó, đoạn đời vui vẻ của Mị đặt một dấu chấm kết thúc để bắt đầu thân phận của con người lao động mịt mờ không lối thoát. Trước món nợ truyền kiếp và sự áp chế của thần quyền – Mị nghĩ rằng đã cúng “trình ma” thì mình chỉ còn biết làm thân trâu ngựa cho đến ngày chết rũ xương ở đấy mà thôi – Mị hoàn toàn tê liệt về thể xác lẫn tinh thần “Mỗi ngày Mị càng không nói, cứ lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”. Vì thế, mở đầu tác phẩm, tác giả đã vẽ nên hình ảnh bi thương cùng quẫn của kiếp người: “Ai ở xa về, có việc vào nhà thống lí Pá Tra thường trông thấy có một cô con gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa. Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước suối dưới khe lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi.” Cuộc đời A Phủ cũng như vậy, từ một, cũng là nạn nhân của cường quyền, thần quyền và chính sách cho vay nặng lãi của bọn chủ nô phong kiến miền núi. Trước khi trở thành con ở nhà thống lý, A Phủ tuy có xuất thân bất hành “không có bố mẹ, không có ruộng, không có bạc” nhưng vẫn là chàng trai yêu đời và có nhiều phẩm chất tốt đẹp. A Phủ là chàng trai tự do của núi rừng, yêu lao động, tự do, giỏi giang “biết đúc lưỡi cày, biết đục cuốc, lại cày giỏi và săn bò tót rất bạo”. A Phủ còn là niềm khát khao của bao cô gái trong làng “Lấy được A Phủ là bằng được con trâu tốt trong nhà”. Vì tội đánh con quan – A Sử mà A Phủ từ đứa con của núi rừng trở thành kẻ nô lệ với bản án chung thân “đời mày, đời con mày, đời cháu mày tao cũng bắt thế, bao giờ trả hết nợ mới thôi”. Hai con người tươi trẻ giờ trở thành hai kẻ cùng khổ, số phận họ bị quyết định bởi bàn tay tàn bạo của thống lý Pá Tra.

Những ngày tháng làm nô lệ ở nơi địa ngục trần gian của một Mị tưởng chừng không lối thoát nhưng cuối cùng, chính sức sống tiềm tàng bên trong đã khiến Mị hành động. Qúa khứ thì tươi đẹp. Hiện tại thì nhục nhã ê chề. Còn tương lai sẽ ra sao? Đêm tình mùa xuân đã khe khẽ nhen nhóm nhận thức bên trong Mị để đến đêm mùa đông, Mị quyết định cắt dây cởi trói của A Phủ. Chỉ vì để con hổ ăn mất bò mà chàng phải chịu cảnh trói đứng, gần như phải dùng mạng sống của mình thay thế. A Phủ bị bắt trói đứng ngoài sân nhiều đêm nhiều.  Một cuộc vượt ngục âm thầm diễn ra, hai con người nô lệ giờ dìu dắt nhau để thoát khỏi cảnh tù đày. Hành động cắt dây thể hiện sự can đảm tuyệt đối. Mị trân trọng giá trị con người, mạng sống con người. Lòng thương người tỉnh thức là cơ sở để Mị phát triển thành lòng thương mình, xót thương cho số phận đau thương mà bấy lâu nay nàng âm thầm chấp nhận. Mị sẽ chẳng còn phải chịu cảnh “thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa” hay bị A Sử “xách cả một thúng sợi đay ra trói đứng Mị vào cột nhà nữa”… Mị cũng sẽ chẳng còn phải vay mượn men rượu, vay mượn tiếng sáo để sống lại những ngày tự do trước nữa bởi phía trước nàng chính là cuộc đời mới, là con đường mới.

Bên cạnh đó, hành động Mị chạy theo A Phủ còn là hành động Mị hiện thực hóa khát vọng tự do, đến với ánh sáng cách mạng. Có thể nói đây là giá trị nhân đạo mới mẻ trong ngòi bút Tô Hoài nói riêng và ngòi bút các nhà văn sau cách mạng nói chung. Lí tưởng thời đại đã thay đổi, con người đã tìm ra lối thoát tinh thần của mình. Nếu như trước cách mạng, các nhân vật thường rơi vào bế tắc, vào bi kịch thì sau cách mạng, họ đến được với sự giải phóng, với ánh sáng tự do. Ta thấy cái kết của nhân vật Chí Phèo hay chị Dậu hoàn toàn đối lập với cái kết của Mị, của A Phủ. Cắt dây cởi trói cho A Phủ, Mị đã từng nghĩ đến viễn cảnh phải thay thế mạng sống mình nhưng cuối cùng, vượt qua bóng ma thần quyền và sự áp chế của cường quyền, vượt qua nỗi sợ đã gặm nhấm thể xác và tinh thần, Mị đã chạy theo A Phủ. Bước chân của Mị là bước chân đạp đổ hiện thực “A Phủ cho tôi đi! Ở đây thì chết mất”. Cuối cùng, cô Mị sau bao năm vô cảm, lùi lũi, trơ trơ cũng đã đối diện với nỗi sợ của mình. Nàng đã hồi sinh trở lại từ sự chết dần chết mòn những ngày tháng qua. Nàng đã vùng lên đấu tranh, ngọn lửa sức sống âm thầm nhưng mạnh mẽ, kết tinh thành hành động táo bạo, dứt khoát. Chính dòng nước mắt bò xuống hai hõm má xám đen lại kia đã đen đến sự hồi sinh cho Mị - một sự hồi sinh kì diệu. Thế là từ đây, Mị kết thúc cuộc đời cuộc đời con dâu gạt nợ, A Phủ kết thúc kiếp nô lệ tôi đòi. Họ dìu dắt nhau từ bóng đêm lầm than, từ áp bức của cường quyền và thần quyền để đến vùng đất Phiềng Sa – vùng đất hứa hẹn niềm tin, tự do và hạnh phúc.

Hành động Mị chạy theo A Phủ đã khép lại những tháng ngày quẩn quanh, bế tắc của Mị và A Phủ ở Hồng Ngài. Tô Hoài bằng tài năng của mình đã xây dựng tác phẩm thành công trên nhiều phương diện: đề tài, kết cấu, nhân vật… Do đó, “Vợ chồng A Phủ” trở thành một tác phẩm tiêu biểu viết về sự trỗi dậy của thân phận con người, cụ thể ở đây là người dân vùng cao dưới ách thống trị của bọn thực dân nửa phong kiến.

Đề bài: Phân tích sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị được thể hiện trong cảnh ngộ khi bị bắt làm dâu gạt nợ trong nhà thống lí Pá Tra đến khi thoát khỏi Hồng Ngài.

Bài tham khảo

Tô Hoài là nhà văn luôn hấp dẫn người đọc bởi những nét độc đáo trong việc quan sát và diễn tả về những số phận con người miền núi. Đó là những người dân lao động vùng cao Tây Bắc không chịu sự đày đọa, giam hãm trong cuộc sống tăm tối; họ vùng lên phản kháng, đi tìm cuộc sống tự do. Sức sống tiềm tàng đó được thể hiện mạnh mẽ trong tác phẩm “Vợ chồng A Phủ”, thông qua nhân vật Mị, khi cô lâm vào cảnh ngộ bị bắt làm dâu gạt nợ trong nhà thống lí Pá Tra đến khi thoát khỏi Hồng Ngài.

Trước khi bị bắt về làm dâu nhà thống lí Pá Tra, Mị là một cô gái trẻ đẹp, yêu lao động, yêu tự do. Khi bị bắt về làm dâu nhà thống lí, Mị phải chịu một cuộc sống đầy tủi nhục, thống khổ. “Lúc nào cô cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi.” Bởi cô là cô dâu gạt nợ, nạn nhân của chính sách cho vay nặng lãi. Để rồi cô bị tước đoạt tuổi trẻ, tự do, bị đối xử như nô lệ. Mỗi ngày, Mị càng không nói, cứ lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa.

Dù cuộc sống thống khổ, nhưng Mị vẫn ẩn chứa một sức sống tiềm tàng, sức sống ấy của Mị trỗi dậy vào đêm tình mùa xuân.  “Hồng Ngài năm ấy ăn tết giữa lúc cỏ gianh vàng ửng, gió và rét rất dữ dội... Trong các làng Mèo đỏ, những chiếc váy hoa đã đem ra phơi trên mỏm đá xòe như con bướm, sặc sỡ... tiếng trẻ con nô đùa...” Mùa xuân ấy rộn rã âm thanh và màu sắc, là dấu hiệu cho sự bừng tỉnh của Mị trong đêm tình mùa xuân. Đầu tiên, sức sống ấy được hồi sinh khi Mị nghe thấy tiếng sáo: “Ngoài đầu núi lấp ló đã có tiếng ai thổi sáo rủ bạn đi chơi...” Tiếng sáo ấy chạm vào tâm hồn của Mị, khiến Mị nhớ lại những ngày xuân thật đẹp của quá khứ. “Mị nghe tiếng sáo vọng lại thiết tha bổi hổi”. Tiếng sáo ấy như ngọn gió thổi vào lòng cô, khiến cô nhẩm lại lời của người đang thổi sáo:

“Mày có con trai con gái rồi

Mày đi làm nương

Ta chưa có con trai con gái

Ta đi tìm người yêu”

Đã lâu rồi Mị không hát, thế mà cô vẫn thuộc. Dường như Mị vẫn chẳng thể quên được những ngày tươi đẹp nhất, trái tim vẫn chẳng thể nguội lạnh trước cuộc đời ngoài kia. Tiếng sáo ấy khiến Mị lén lấy hũ rượu. “Cứ uống ực từng bát. Rồi say. Mị lịm mặt ngồi đấy nhìn những người nhảy đồng, người hát, nhưng lòng Mị thì đang sống về ngày trước.” Niềm vui ấy khiến Mị ý thức được rằng “Mị trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi.” Điều đó thể hiện được khát khao tự do của cô, khát khao tự do giữa hiện thực đau đớn. Để rồi cô tủi thân, khi nhớ lại rằng mình đang có một cuộc sống bất hạnh: “A Sử với Mị không có lòng với nhau mà vẫn phải ở với nhau.” Mị chợt muốn chết, mà muốn chết tức là cô đã nhận ra trong tư tưởng của mình có sự phản kháng, cô không còn muốn sống kiếp sống này nữa. Sức sống mãnh liệt còn thể hiện mạnh mẽ hơn khi Mị đi đến quyết định: Bỏ nhà đi theo cuộc chơi. Mị làm đẹp cho bản thân mà không để ý đến thái độ của A Sử, Mị hành động thản nhiên, nhưng đau đớn thay, sự độc ác tàn nhẫn của giai cấp thống trị đã dập tắt đi cái khát vọng sự trỗi dậy đó của Mị. A Sử trói Mị, nhưng lúc này đây, Mị đâu còn sống bằng tâm hồn của mình. Hồn Mị đang “đi theo những cuộc chơi những đám chơi”. Tâm hồn cô đang ngập tràn tiếng sáo, tiếng sáo ấy nhập vào hồn Mị, khiến nàng quên đi rằng mình bị trói. Nhưng rồi “tay chân đau không cựa được”, Mị đau đớn tủi nhục, quay về với cuộc đời hiện thực. Có một chi tiết đắt giá đã lóe lên trong tâm trạng của cô: Mị tỉnh dậy và nhớ lại câu chuyện của người đàn bà bị chồng trói chết trong căn nhà này. Mị sợ, Mị “cựa quậy xem thử mình còn sống hay đã chết”. Nàng vẫn còn biết sợ, và đó chính là biểu hiện của lòng ham sống. Sức sống ấy vẫn đang âm ỉ cháy trong tâm hồn nàng, dù có bị vùi dập như thế nào đi nữa.

Sức sống tiềm tàng của Mị lại bùng lên lần nữa trong đêm cởi trói cho A Phủ. Cùng là nạn nhân của chính sách cho vay nặng lãi, nếu Mị trở thành cô dâu gạt nợ, thì A Phủ trở thành trâu ngựa cho nhà Pá Tra. Họ là nô lệ, ăn đời ở kiếp cho lũ nhà giàu, để rồi khi con bò bị hổ bất mắt, A Phủ bị hành hạ, bị treo lên cột, bỏ mặc đến chết. Lúc đầu, Mị chứng kiến mọi thứ bằng đôi mắt vô cảm. Dường như Mị đã mất đi lòng nhân ái giữa người với người, Mị lạnh lùng nhìn A Phủ bị hành hạ. Sau đó, khi nhìn thấy dòng nước mắt của A Phủ chảy xuống, Mị bỗng động lòng, trái tim của nàng thức tỉnh. Mị hình dung lại chuỗi ngày dài dằng dặc của cuộc đời mình, để rồi thấy A Phủ sao mà giống mình thế, phải chịu cảnh đau khổ, tàn nhẫn, kiếp sống trâu ngựa đầy bất công, phi lí. Mị nguyền rủa: “Chúng nó thật độc ác.”

Trái tim nhân ái của Mị đã thôi thúc nàng phải cứu A Phủ, dù cho nếu A Phủ chạy thoát, thì có thể người phải chết trên cột sẽ chính là nàng. Nhưng giờ đây, sức sống tiềm tàng đã khiến Mị khao khát được tự do, để rồi Mị quyết liệt cắt đứt sợi dây trói cho A Phủ. Đó là chính là vẻ đẹp của một tâm hồn khát khao được sống, được giải phóng bản thân mình. Hành động cắt sợi dây trói cho A Phủ cũng chính là cắt sợi dây trói buộc của đời mình, giải thoát khỏi cường quyền và thần quyền. Hành động này là một bước chuyển tâm lý, một sự trỗi dậy mạnh mẽ, một quá trình hiện thực hóa nhận thức, đưa cô Mị từ sức sống tiềm tàng trở thành người tự giải thoát chính mình. Qua đó, ta thấy được giá trị nhân đạo trong ngòi bút của Tô Hoài. Ông nâng niu từng phẩm chất tốt đẹp của nhân vật, cứu vớt họ từ những bi kịch cùng quẫn, đau thương...

Về nghệ thuật, nhân vật Mị được khắc họa chân dung, tính cách thông qua ngôn ngữ giàu chất thơ cùng phong cách trần thuật hấp dẫn, xây dựng nhân vật với diễn biến nội tâm đa dạng, phong phú. Hành trình khám phá nhân vật Mị là hành trình trải nghiệm của những cung bậc cảm xúc. Đó là những điều đã làm nên một nhân vật Mị có sức sống tiềm tàng và hành động dứt khoát. Mị là một hình tượng điển hình cho những người dân nghèo vùng cao thấp cổ bé họng, sống trong cuộc sống ngột ngạt dưới ách thống trị của những người cầm quyền giàu có nhưng mất nhân tính. Tô Hoài thấu hiểu được điều đó, ông đặt tình cảm, niềm cảm thương của mình vào nhân vật Mị, với ước mong rằng những người khổ đau sẽ tìm được con đường giải phóng bản thân.

Như Maxim Gorki đã từng nói: “Văn học là nhân học”, ngòi bút của Tô Hoài thấm đẫm giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo. Ông đã lặn xuống những kiếp người cùng khổ để thấu hiểu được nỗi đau, từ đó khám phá ra sức sống tiềm tàng ẩn sâu bên trong tâm hồn của họ.

Đề bài: Anh chị hãy nêu cảm nhận về nhân vật A Phủ trong truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” (Tô Hoài).

Bài tham khảo

Trong một tác phẩm văn học, nhân vật đóng vai trò vô cùng quan trọng, đó là chiếc chìa khóa để giải mã ý nghĩa ẩn sâu bên trong mỗi tác phẩm, và cũng là nơi tác giả nhắn nhủ cảm xúc, tâm tư, trăn trở của bản thân. Nhân vật A Phủ trong truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” là một nhân vật như thế, một nhân vật có số phận nhỏ bé, khổ đau; nhưng ẩn trong đó là nghị lực sống tiềm tàng, mạnh mẽ.

A Phủ được miêu tả trước hết là một người có số phận bất hạnh, kém may mắn. A Phủ người Háng Bla. Năm mười tuổi, anh mồ côi cả cha lẫn mẹ sau một trận đậu mùa khủng khiếp, sau đó, “người làng đói bụng đã bắt A Phủ đưa xuống bán đổi lấy thóc của người Thái ở dưới cánh đồng.” Thế nhưng A Phủ không cam chịu, anh đã trốn thoát lên núi cao, để rồi lưu lạc đến Hồng Ngài. Số phận của A Phủ đại diện cho biết bao con người nghèo khổ trong xã hội, không có quyền được quyết định cuộc đời mình.

Tuy vậy, vượt lên số phận khốn khó của mình, A Phủ lại có những tính cách tốt đẹp của một người con trai miền núi. Bởi anh có sự cần cù, chăm chỉ kiếm sống, “biết đúc lưỡi cày, lại cày giỏi và đi săn bò tót cũng rất bạo.” “Công việc làm hay đi săn, cái gì cũng phăng phăng.” A Phủ rất khỏe, chạy nhanh như ngựa. Anh trở thành niềm khao khát của bao cô gái trong làng: “Lấy được A Phủ là bằng được con trâu tốt trong nhà.” Khen vậy, nhưng anh lại chẳng lấy được vợ, vì “không có bố mẹ, không có ruộng, không có bạc”. Giữa cuộc sống khắc nghiệt như thế, mà A Phủ vẫn giữ được cho mình sự lạc quan, niềm tin vào cuộc sống, vui vẻ và yêu đời. Dẫu cho không có quần áo đẹp, chỉ độc một cái vòng vía trên cổ, A Phủ vẫn cứ “cùng trai làng đem sáo, khèn con quay và quả pao đi tìm người yêu ở các làng trong rừng”. Thể hiện được một đời sống tâm hồn phóng khoáng, hồn nhiên, yêu đời và tự tin của tuổi trẻ. Nhưng không chỉ dừng ở đó, A Phủ còn là một người yêu chính nghĩa. Bất bình trước sự lộng quyền của A Sử, dẫu biết đó là con quan, A Phủ vẫn “chạy vụt ra, vung tay ném con quay vào mặt A Phủ”, “xộc tới, nắm cái vòng cổ, kẹp dập đầu xuống, xé vai áo đánh tới tấp”. Đó là sự phẫn nộ trước những cảnh bất công, phi lí cho cuộc đời, cho thấy được sự gan góc của A Phủ.

Lương thiện là thế, nhưng A Phủ lại là nạn nhân của hủ tục lạc hậu, nạn nhân của cường quyền độc ác. Vì tội đánh con quan, A Phủ bị nhà thống lý bắt về xử kiện, bị tay chân nhà Pá Tra đánh đập dã man. Nhưng anh đã chứng tỏ mình là con người bất khuất, cứng rắn gan dạ. Anh chỉ quỳ, chịu đòn, im như tượng đá. Cuối cùng, anh bị buộc nộp vạ một trăm bạc trắng, vì không có tiền nộp vạ nên A Phủ phải vay nợ. Vậy là anh phải chịu kiếp sống trâu ngựa để trừ nợ, bị trở thành nô lệ với bản án chung thân suốt đời đúng như lời tên Pá Tra đã nói “đời mày, đời con mày, đời cháu mày tao cũng bắt thế, bao giờ trả hết nợ mới thôi”. Đó là kiếp sống bị khinh rẻ, bị ngược đãi và phải gánh vác những công việc nặng nhọc, nguy hiểm nhất như “săn bò tót, bẫy hổ, chăn ngựa quanh năm một thân một mình rong ruổi ngoài gò vãi, nương rừng”. Từ một chàng thanh niên sôi nổi, yêu đời, anh trở nên nhẫn nhục, cam chịu.

Giữa kiếp nô lệ ấy, A Phủ vẫn thể hiện lòng ham sống và khát vọng tự do. Sau khi để hổ bắt mất một con bò, thống lí quát thẳng vào mặt A Phủ: “Quân ăn cướp làm mất bò tao”. A Phủ bị trói đứng vào cột bằng dây mây cuốn từ chân lên vai. Anh bị trói trong đói rét, trong đau đớn mà chẳng ai ngó ngàng, dù nhà Thống lí “kẻ ra người vào tấp nập”. Tuy vậy, với khát vọng sống mãnh liệt, anh không cam chịu chết mà tìm mọi cách tự giải thoát: “Đêm đến, A Phủ cúi xuống, nhay đứt hai vòng dây, nhích dần dây trói một bên tay.” Thế nhưng, cha con thống lý lại về và tròng thêm vào cổ anh một cái dây thòng lọng.Sau bao ngày bị hành hạ, hai hõm má anh xám lại vì tuyệt vọng và khổ đau. Còn gì đau đớn hơn khoảnh khắc ta nhận thức được rằng mình sẽ chết, mình đang dần chết đi. Những giọt nước mắt dần lăn xuống, lấp lánh, vì nỗi khát khao được sống, được tự do. Khát khao ấy đã được thể hiện mạnh mẽ hơn bao giờ hết vào lúc Mị cắt dây trói cho anh. Sau nhiều đêm bị trói, bị hành hạ, A Phủ đã quỵ xuống. Nhưng tình yêu cuộc sống đã khiến anh vùng dậy và chạy đi. Những bước chạy của anh là bước chạy của sự đấu tranh, của sự phấn đấu vươn đến tự do, giải phóng chính mình. Giữa bóng tối của cuộc đời, A Phủ đang đi tìm cho mình ánh sáng của niềm tin, của tình yêu đời. Để rồi sau này, khi A Phủ và Mị chạy trốn tới khu du kích ở Phiềng Sa, gặp cán bộ A Châu. A Phủ và Mị lần lượt trở thành chiến sĩ du kích cùng bộ đội giải phóng quê hương. 

Có thể nói, thông qua nhân vật A Phủ, chúng ta đã nhận ra được giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc. Đó là tiếng nói lên án tố cáo tội ác tày trời của giai cấp chủ nô phong kiến miền núi đang áp bức, bóc lột nhân dân Tây Bắc. Đồng thời, nhà văn cũng phát hiện và trân trọng vẻ đẹp tâm hồn của những con người lao động. Từ đó bộc lộ niềm cảm thông, yêu thương chân thành, sâu sắc đến những nhân cách đáng quý ấy.

Về nghệ thuật, nhân vật A Phủ được khắc họa chân dung, tính cách thông qua ngôn ngữ mộc mạc, giản dị, cùng phong cách trần thuật hấp dẫn, xây dựng nhân vật giữa những tình huống truyện đặc sắc. Đó là những điều đã làm nên một nhân vật A Phủ mạnh mẽ, tràn đầy sức sống. Anh là một hình tượng điển hình cho cuộc sống ngột ngạt của những người lao động hiền lành, chất phác trên vùng cao, dưới sự thống trị của những người cầm quyền giàu có nhưng mất nhân tính. Họ đẩy những người hiền lành như anh đến bước đường cùng, để rồi anh phải đấu tranh, phải giải phóng mình, vụt chạy, tìm cho mình một con đường khác, một con đường mà ở đó anh sẽ tìm thấy được hạnh phúc. Tô Hoài thấu hiểu được điều đó, ông đặt tình cảm, niềm cảm thương của mình vào nhân vật A Phủ, với ước mong rằng những người khổ đau sẽ tìm được con đường giải phóng bản thân.

Đọc một tác phẩm, cái đọng lại sâu sắc nhất trong tâm hồn người đọc thường là số phận, tình cảm, cảm xúc, suy tư của những nhân vật được nhà văn thể hiện. Vợ chồng A Phủ đã để lại trong lòng độc giả vẻ đẹp về tâm hồn, tính cách của những người vùng cao, mà nhân vật A Phủ là một hình tượng tiêu biểu như thế. Ở anh, tượng trưng cho khát vọng tự do, niềm yêu đời, vượt lên số phận để sống, để sống thật tốt, sống vượt lên những khó khăn của cuộc đời.  

Đề bài: Phân tích giá trị nhân đạo trong truyện ngắn "Vợ chồng A Phủ" (Tô Hoài)  qua số phận hai nhân vật Mị và A Phủ.

Bài tham khảo

Tô Hoài là nhà văn nổi tiếng với cảm quan hiện thực đầy tinh tế về cuộc sống đời thường cùng sự nhạy bén trong việc sử dụng ngôn từ. Không chỉ vậy, ông còn là một nhà văn với tinh thần nhân đạo sâu sắc, mới mẻ. Điều này đã được thể hiện thông qua số phận của nhân vật Mị và A Phủ trong truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ”, in trong tập “Truyện Tây Bắc”.

Giá trị nhân đạo là sự quan tâm đến con người mà biểu hiện của giá trị nhân đạo là lòng thương người, sự cảm thông, bênh vực con người. Mỗi một tác phẩm thì giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo biểu hiện ở khía cạnh khác nhau. Giá trị nhân đạo trong “Vợ chồng A Phủ” trước hết được thể hiện ở phương diện tố cáo những thế lực độc ác. Đó là thế lực phong kiến miền núi lợi dụng chính sách cho vay nặng lão nhằm đọa đày người lương thiện. Trước tiên là ở Mị, nàng bị buộc vào vòng lẩn quẩn của cái nợ từ thời ba mẹ nàng. Còn ở A Phủ là khoản nợ 100 đồng bạc trắng. Chúng trói buộc cả hai con người đáng thương vào cuộc đời đau khổ. Đến một ngày thì Mị không còn ý thức phản kháng nữa, bởi ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi. “Bây giờ thì Mị tưởng mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa... ngựa chỉ biết việc ăn cỏ, biết đi làm mà thôi... Bao giờ cũng thế, suốt năm suốt đời như thế.” Rồi đến một ngày Mị bừng tỉnh, muốn đi chơi. Mị quấn lại tóc, Mị với tay lấy cái váy hoa vắt ở phía trong vách. A Sử nhìn thấy, nắm Mị, lấy thắt lưng trói hai tay Mị. Nó xách cả một thúng sợi đay ra trói đứng Mị vào cột nhà. Mị đau đớn, nồng nàn tha thiết nhớ những ngày đã qua. Còn A Phủ, anh bị đẩy vào bước đường ở nợ, “đốt rừng, cày nương cuốc nương, săn bò tót, bẫy hổ, chăn bò, chăn ngựa, quanh năm một thân một mình bôn ba rong ruổi ngoài gò ngoài rừng. Để rồi khi anh để hổ bắt mất một con bò, Thống lí Pá Tra bắt trói anh vào một cây cột trong góc nhà bằng dây mây quấn từ chân đến vai. Những việc làm tàn bạo ấy không chỉ hành hạ về mặt thể xác, nó còn bào mòn tinh thần con người, mỗi ngày, mỗi ngày.

Tô Hoài còn thể hiện giá trị nhân đạo ở chỗ, ông thương cảm những số phận bất hạnh như Mị và A Phủ. Nỗi niềm thương xót của ông không được nói ra thành lời, mà được thể hiện thông qua những tiếng nức nở của các nhân vật. Mị được miêu tả lúc nào “cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi.”, cả cuộc đời cô dường như chỉ quanh quẩn lên núi hái thuốc phiện, giặt đay, xe đay, đi nương bẻ bắp và dù lúc đi hái củi, lúc bung ngô, lúc nào cũng gài một bó đay trong cánh tay để tước thành sợi. Khi Mị bị A Sử trói vào cột, dòng ý thức của Mị trôi qua như những dòng nước mắt. “Đời người đàn bà lấy chồng nhà giàu Hồng Ngài thì một đời con người chỉ biết đi theo đuôi con ngựa của chồng.” Mị sợ, Mị cựa quậy, xem mình còn sống còn sống hay chết. Sợ chết là vẫn còn muốn sống, ý thức khát khao ấy như ánh sáng nhỏ nhoi khiến độc giả phải xúc động cho một số phận đau khổ. Ở A Phủ, đó là nỗi thương cảm dành cho chàng trai đã khổ từ lúc nhỏ. Ngày nhỏ, “có người làng đói bụng bắt A Phủ đem xuống bán đổi lấy thóc của người Thái dưới cánh đồng”. Khi lưu lạc đến Hồng Ngài, A Phủ cũng thông thể lấy nổi vợ, chỉ vì anh không có bố mẹ, không có ruộng, không có bạc. Vận đen vẫn đi theo A Phủ, để rồi anh bị bắt nộp vạ một trăm bạc trắng, phải đi ở trừ nợ cho nhà quan thống lí Pá Tra. Tấm lòng nhân đạo của nhà văn sẽ ôm lấy Mị và A Phủ, đưa những con người lương thiện thoát ra khỏi phận đời đau khổ.

Cuối cùng, tác giả thể hiện niềm trân trọng và đồng tình với khát vọng được tự do, được hạnh phúc của Mị và A Phủ. Niềm trân trọng ấy được thể hiện trước tiên ở ý thức phản kháng và sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị. sức sống ấy của Mị trỗi dậy vào đêm tình mùa xuân. “Hồng Ngài năm ấy ăn tết giữa lúc cỏ gianh vàng ửng, gió và rét rất dữ dội... Trong các làng Mèo đỏ, những chiếc váy hoa đã đem ra phơi trên mỏm đá xòe như con bướm, sặc sỡ... tiếng trẻ con nô đùa...” Mùa xuân ấy rộn rã âm thanh và màu sắc, là dấu hiệu cho sự bừng tỉnh của Mị trong đêm tình mùa xuân. Đầu tiên, sức sống ấy được hồi sinh khi Mị nghe thấy tiếng sáo: “Ngoài đầu núi lấp ló đã có tiếng ai thổi sáo rủ bạn đi chơi...” Tiếng sáo ấy chạm vào tâm hồn của Mị, khiến Mị nhớ lại những ngày xuân thật đẹp của quá khứ. “Mị nghe tiếng sáo vọng lại thiết tha bổi hổi”. Tiếng sáo ấy khiến Mị lén lấy hũ rượu. “Cứ uống ực từng bát. Rồi say. Mị lịm mặt ngồi đấy nhìn những người nhảy đồng, người hát, nhưng lòng Mị thì đang sống về ngày trước.” Niềm vui ấy khiến Mị ý thức được rằng “Mị trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi.” Sức sống mãnh liệt còn thể hiện mạnh mẽ hơn khi Mị đi đến quyết định: Bỏ nhà đi theo cuộc chơi. Mị làm đẹp cho bản thân mà không để ý đến thái độ của A Sử, Mị hành động thản nhiên, nhưng đau đớn thay, sự độc ác tàn nhẫn của giai cấp thống trị đã dập tắt đi cái khát vọng sự trỗi dậy đó của Mị. Sức sống tiềm tàng của Mị lại bùng lên lần nữa trong đêm cởi trói cho A Phủ. Khi Mị nhìn thấy “hai mắt A Phủ cũng vừa mở, một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại”. Mị bỗng nhớ lại đêm năm trước A Sử trói Mị, Mị cũng phải trói đứng thế kia. Mị đau đớn cho đời mình, và Mị cắt dây trói cho A Phủ. Rồi Mị bừng tỉnh, vụt chạy ra. Rồi hai người lẳng lặng đỡ nhau lao chạy xuống dốc núi. Bước chân của A Phủ và Mị là bước chân phản kháng, là bước chân tìm đến hạnh phúc, vùng thoát khỏi bóng tối, đi đến một cuộc đời khác. Và bước chân ấy in đậm giá trị nhân đạo của Tô Hoài trong tác phẩm. Đó là bước chân đồng tình cho khát vọng được kiếm tìm hạnh phúc.

Bên cạnh giá trị nhân đạo sâu sắc, tác phẩm còn mang đậm giá trị nghệ thuật. Tác phẩm khắc họa chân thực những nét riêng biệt về phong tục, tập quán, tính cách và tâm hồn con người dân tộc bằng một giọng văn nhẹ nhàng, tinh tế, đượm màu sắc và phong vị dân tộc, vừa giàu tính tạo hình vừa giàu chất thơ.

Có thể nói, tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” là một tác phẩm mang giá trị nhân đạo sâu sắc. Tác phẩm đã lên tiếng tố cáo những thế lực xấu xa, đồng thời thể hiện tiếng nói thông cảm, trân trọng và đồng tình dành cho khát vọng tự do, sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị và A Phủ.

Đề bài: Những đặc sắc về nghệ thuật trong truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” (Tô Hoài).

Bài tham khảo

Tô Hoài là một trong những nhà văn lớn của nền văn học Việt Nam hiện đại. Ông luôn hấp dẫn người đọc bởi những nét độc đáo trong việc quan sát và diễn tả về những số phận con người miền núi. Tiêu biểu là truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” - tác phẩm không chỉ xuất sắc về mặt nội dung mà còn vô cùng thành công về mặt nghệ thuật. Những đặc sắc về nghệ thuật trong truyện là yếu tố quan trọng góp phần đưa “Vợ chồng A Phủ” trở thành một truyện ngắn tiêu biểu cho nền văn học thời kì này.

Nghệ thuật là hình thức của tác phẩm, là những thứ giúp cho chúng ta cảm nhận được nội dung ý nghĩa bên trong. Đặc sắc nghệ thuật của tác phẩm trước hết được thể hiện ở nghệ thuật xây dựng tình huống truyện đặc sắc. Câu chuyện mở đầu bằng hình ảnh của Mị, về quá khứ, những gì mà Mị đã trải qua. Khi Mị dần trở nên tuyệt vọng, A Phủ bỗng xuất hiện như một người cùng khổ. Hai số phận tưởng như song song mà nay lại giao nhau, bởi những khổ đau họ đã trải qua, bởi sức sống tiềm tàng ẩn giấu bên trong tâm hồn của họ. Họ cùng chạy đi, cùng hướng đến ánh sáng nơi cuối con đường. Thông qua việc xây dựng tình huống truyện mới lạ, tác phẩm đã phơi bày những sự tàn bạo, bất nhân của giai cấp thống trị miền núi. Ngoài ra, tác phẩm còn thể hiện được khát vọng sống, sống một cách đúng nghĩa, sống như một con người của những người lương thiện như Mị và A Phủ.

Đặc sắc nghệ thuật của tác phẩm còn thể hiện ở việc khắc họa hình tượng nhân vật, đặc biệt là ở phương diện miêu tả tâm lí. Cả hai nhân vật Mị và A Phủ đều thể hiện những nét tính cách của người dân lao động miền núi. Mị được miêu tả với sự lặng lẽ, âm thầm, nhẫn nhục nhưng ẩn trong đó là sức sống tiềm tàng, khao khát được tự do và hạnh phúc. A Phủ thì lại gan góc, chất phác,... Để miêu tả hai nhân vật này, tác giả đã chọn những điểm nhìn khác nhau, từ đó hình thành nên những tính cách khác nhau. Ở Mị, tác giả nhấn mạnh vào những khoảnh khắc Mị suy tưởng, Mị nghĩ đến quá khứ, hiện tại, tương lai. “Cứ uống ực từng bát. Rồi say. Mị lịm mặt ngồi đấy nhìn những người nhảy đồng, người hát, nhưng lòng Mị thì đang sống về ngày trước.” Niềm vui ấy khiến Mị ý thức được rằng “Mị trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi.” Điều đó thể hiện được khát khao tự do của cô, khát khao tự do giữa hiện thực đau đớn. Để rồi cô tủi thân, khi nhớ lại rằng mình đang có một cuộc sống bất hạnh: “A Sử với Mị không có lòng với nhau mà vẫn phải ở với nhau.” Mị chợt muốn chết, mà muốn chết tức là cô đã nhận ra trong tư tưởng của mình có sự phản kháng, cô không còn muốn sống kiếp sống này nữa. Những suy ngẫm của Mị giúp chúng ta nhận ra một tâm hồn đẹp đẽ đang chết dần chết mòn, một sức sống mãnh liệt đang trỗi dậy mạnh mẽ. Còn ở A Phủ, tác giả nhấn mạnh vào hành động, để thấy được những vẻ đẹp của một người con trai vùng cao. A Phủ là một người yêu chính nghĩa. Bất bình trước sự lộng quyền của A Sử, dẫu biết đó là con quan, A Phủ vẫn “chạy vụt ra, vung tay ném con quay vào mặt A Phủ”, “xộc tới, nắm cái vòng cổ, kẹp dập đầu xuống, xé vai áo đánh tới tấp”. Đó là sự phẫn nộ trước những cảnh bất công, phi lí cho cuộc đời, cho thấy được sự gan góc của A Phủ.Ngoài ra, có một chi tiết cho thấy được niềm khát khao được sống của anh, đó là vào lúc Mị cắt dây trói cho anh. Sau nhiều đêm bị trói, bị hành hạ, A Phủ đã quỵ xuống. Nhưng tình yêu cuộc sống đã khiến anh vùng dậy và chạy đi. Những bước chạy của anh là bước chạy của sự đấu tranh, của sự phấn đấu vươn đến tự do, giải phóng chính mình.

Một trong những thành công về nghệ thuật của tác phẩm, còn là việc tái hiện lối sống động vẻ đẹp của bức tranh thiên nhiên và phong tục, tập quán của người dân miền núi Tây Bắc. Toàn bộ khung cảnh núi rừng Tây Bắc dưới ngòi bút của nhà văn trở nên tươi đẹp, hiền hòa. Con người hòa vào thiên nhiên trong những hội xuân tưng bừng. Thiên nhiên đi vào cuộc sống, tràn ngập trong từng bước chân, từng tiếng hát. “Trên đầu núi, các nương ngô, nương lúa gặt xong, ngô lúa đã xếp yên đầy các nhà kho. Trẻ con đi hái bí đỏ, tinh nghịch, đã đốt những lều canh nương để sưởi lửa. Ở Hồng Ngài người ta thành lệ cứ ăn Tết khi gặt hái vừa xong, không kể ngày, tháng nào. Ăn Tết như thế cho kịp lúc mưa xuân xuống thì đi vỡ nương mới. Hồng Ngài năm ấy ăn Tết giữa lúc gió thổi và cỏ gianh vàng ửng, gió và rét rất dữ dội.” Điều đó là nhờ cách kể chuyện giàu chất thơ và chất tạo hình của tác giả. Khung cảnh núi rừng hiện ra đầy thơ mộng, dịu dàng.

Nét đẹp phong tục văn hóa của người dân tộc vùng cao cũng được tập trung khắc họa đậm nét. Con người khát khao được sống, được yêu, được ca hát giữa núi rừng và ánh trăng, “Đến Tết năm ấy, Tết thì vui chơi, trai gái đánh pao, đánh quay rồi đêm đêm rủ nhau đi chơi. Những nhà có con gái thì bố mẹ không thể ngủ được vì tiếng chó sủa. Suốt đêm, con trai đến nhà người mình yêu, đứng thổi sáo xung quanh vách”, đó còn là “Những chiếc váy hoa đã đem ra phơi trên mỏm đá xòe như con bướm sặc sỡ. Đám trẻ đợi Tết, chơi quay, cười ầm trên sân chơi trước nhà. Ngoài đầu núi lấp ló đã có tiếng ai thổi sáo rủ bạn đi chơi.”

Có thể nói, tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” là một tác phẩm có giá trị nghệ thuật đặc sắc. Đó là nghệ thuật xây dựng hình tượng nhân vật, nghệ thuật tạo tình huống truyện, miêu tả sinh hoạt, phong tục và tâm lí nhân vật. Từ giá trị nghệ thuật ấy, chúng ta có thể hiểu hơn về giá trị nhân đạo sâu sắc được gửi gắm trong tác phẩm: sự lên án tội ác của bọn thống trị và khẳng định sức sống ngoan cường, khát vọng tự do tiềm tàng ở người dân lao động vùng cao Tây Bắc. Nhờ những giá trị ấy, mà tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” vẫn luôn có sức sống bền bỉ trong tâm hồn những người yêu văn chương .

Giá trị nội dung và nghệ thuật trong Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài

1. Giá trị nội dung

  •  Giá trị hiện thực

o Chế độ thực dân phong kiến với những hủ tục, thần tục lạc hậu và cường quyền có sức mạnh tuyệt đối chi phối cuộc đời, số phận của con người nơi này

o Số phận khổ đau, bất hạnh của những người lao động nghèo khổ như Mị, như A Phủ được xây dựng, khắc họa rõ nét

  •  Giá trị nhân đạo

o Tố cáo xã hội thực dân phong kiến đã đẩy người dân vào bước đường cùng, khiến họ trở thành một cỗ máy, thành nô lệ

o Niềm cảm thông, đau xót của Tô Hoài khi chứng kiến khát vọng, nhân quyền của con người bị chà đạp. 

o Ca ngợi sức sống tiềm tàng, mãnh liệt của con người ngay cả trong hoàn cánh khắc nghiệt nhất. 

o Con đường giải thoát cho nhân vật mà Tô Hoài đưa ra trong tác phẩm chính là đi theo cách mạng mà trong đoạn kết của câu chuyện, A Phủ và Mị đã trốn tới Phiềng Sa và đi theo ánh sáng của cách mạng để giải thoát cho cuộc đời tăm tối của họ

2. Giá trị nghệ thuật

  •  Nghệ thuật xây dựng nhân vật : Khắc họa nhân vật sinh động, có cá tính rõ nét. Hai nhân vật Mị và A Phủ có số phận giống nhau nhưng tính cách khác nhau đã được tác giả thể hiện bằng bút pháp thích hợp.
  •  Ngòi bút tả cảnh đặc sắc mang đậm màu sắc, dấu ấn của vùng núi Tây Bắc: Cảnh sắc thiên nhiên, cảnh sinh hoạt, cảnh xử kiện,...
  •  Nghệ thuật trần thuật rất thành công với giọng kể trầm lắng dầy cảm thông, yêu mến; nhịp kể chậm xúc động có khi hòa vào dòng tâm tư của nhân vật, vừa bộc lộ nội tâm của nhân vật vừa tạo được sự đồng cảm
  •   Ngôn ngữ sinh động được chọn lọc, sáng tạo giàu tính tạo hình vừa giàu chất thơ

III. Soạn bài ngắn nhất: Vợ chồng A phủ

Bài tập 1: Hình ảnh Mị qua cảnh ngộ bị bắt về làm dâu để gạt nợ, cuộc sống bị đọa đày tủi cực ở nhà thống lí Pá Tra.

- Mị xuất hiện trong lời kể về thời qúa khứ của cô là cô gái Mèo hoàn thiện, tràn căng hồi hộp sung sưởng chờ nghe âm thanh tiếng sáo quen thuộc của người yêu. Bố Mị  vay tiền của Pá Tra. Mị  đã trở thành vật thế gán nợ.

- Phản ứng của Mị những ngày đầu là mấy tháng ròng, đêm nào Mị  cũng khóc và định tự tử, cô chết món nợ đó vẫn còn. Vì thương cha, Mị đành tiếp tục sống. 

- Những năm tháng sống  trong nhà thống lí Pá Tra  là chuỗi ngày địa ngục, Mị  xuất hiện trong không gian ấy như một cái bóng, suốt ngày cúi mặt im lặng. Đó vẫn chưa phải nỗi đau đớn thật sự, quanh quẩn một vòng tròn nặng nề không lối thoá.

- Cùng với công việc nặng nhọc triền miên là sự hành hạ trực tiếp của cha con thống lí trên thân xác, bị đánh, trói và từng chứng kiến không biết bao nhiêu người bị hành hạ đến chết, không bằng con ngựa, rồi lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa.

- Tuy nhiên nỗi đau khổ tinh thần mới là thật sự là nỗi đau tê tái, nó biến Mị  thực sự trở thành “con vật”mang tên người. Mất tình yêu đầu là nỗi đau tinh thần quá khứ, nhưng đau hơn, xót hơn là Mị không được phép nghĩ về nó; bởi mỗi ý nghĩ về tình xưa ở nơi cô đồng nghĩa với sự phạm tội ghê gớm. 

- Mị bị cấm đoán trong việc hoà nhập cộng đồng,  dùng bạo lực quyết liệt tách Mị ra khỏi thế giới con người . 

- Trong không gian oi ngạt ấy, thời gian như ngưng đọng, sắc màu hoàng hôn dài đằng đẵng buồn tẻ, tê tái. Mị thực sự không còn sống nữa mà chỉ còn là một sinh thể tồn tại chậm chạp bước về cõi chết. 

Diễn biến tâm trạng và hành động

- Là cô gái có sức sống mãnh liệt. Ngọn lửa ấy bùng cháy trong đêm tình mùa xuân. Và cuối cùng Mị quyết định đi chơi. 

- Sau cuộc nổi loạn trong đêm tình mùa xuân. Thế nhưng vì lòng thương người, Mị cứu A Phủ và vì sợ chết Mị chạy theo A Phủ và giải thoát cho mình 

Bài tập 2: Ấn tượng về tính cách nhân vật A Phủ 

Tính cách nhân vật A Phủ :

  •  A Phủ xuất hiện trong cuộc đối đầu với A Sử: tự do, hồn nhiên chất phác, bảo vệ lẽ phải, mạnh mẽ, gan góc, một khát vọng tự do được bộc lộ quyết liệt, chất phác.
  •  Cuộc xử kiện:  gan góc quỳ chịu đòn.
  • Khi về nhà thống lí Pá Tra làm công gạt nợ:   chăm chỉ, trung thực. 

Bút pháp có những nét khác với khi miêu tả nhân vật A Phủ: Tác giả dành cho Mị những trang văn buồn thương, đau xót; còn với A Phủ, tác giả dùng những lời văn mạnh mẽ, rắn rỏi.

Bài tập 3: Nghệ thuật miêu tả phong tục tập quán của Tô Hoài rất đặc sắc với những nét riêng.

- Chi tiết, hình ảnh thấm đượm chất thơ. 

- Kể chuyện tự nhiên, sinh động, hấp dẫn

- Ngôn ngữ tinh tế mang đậm màu sắc miền núi. 

Luyện tập: Giá trị nhân đạo của tác phẩm. 

  •  Xót thương cho Mị cô gái xứng đáng có được hạnh phúc, thấy được sự bạo ngược của bọn thống trị, chà đạp số phận con người.
  •  Đối xử tàn bạo của cha con nhà thống lí với Mị và A Phủ chẳng khác gì con vật biết nói. 

=> Cảm thông sâu sắc nỗi đau của con người, nâng niu nét đẹp tâm hồn và hơn cả là sự giải phóng số phận của con người. 

 Đề bài: Phân tích tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” của nhà văn Tô Hoài

Bài tham khảo

    “Vợ chồng A phủ” là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của nhà văn Tô Hoài. Truyện ngắn là kết quả của 8 tháng tham gia chiến dịch Tây Bắc, sống và gắn bó nghĩa tình với đồng bào dân tộc của nhà văn. Có thể nói, “Vợ chồng A Phủ” là bức tranh chân thực về cuộc sống sinh hoạt của người dân lao động vùng núi cao dưới ách thống trị tàn bạo của bọn thực dân phong kiến miền núi.

    Về nội dung, “Vợ chông A Phủ” chính là lời tố cáo đanh thép chế độ thực dân nửa phong kiến. Truyện đã phản ánh chân thực mâu thuẫn giai cấp căng thẳng và cuộc sống tăm tối của nhân dân lao động nghèo ở miền núi Tây Bắc.

Tác phẩm mở đầu bằng lời kể về hoàn cảnh nhân vật Mị: “Ai ở xa về, có dịp vào nhà thống lí Pá Tra thường trông thấy có một cô gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tầu ngựa . Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi”. Vẻ âm thầm, buồn bã cùng công việc vất vả của Mị hoàn toàn đối lập với sự giàu sang, tấp nập của gia đình nhà thống lý. Bằng cách mở đầu đầy nghịch lí như vậy, Tô Hoài gợi được sự tò mò nơi độc giả đồng thời cũng hé mở số phận đau khổ của Mị trong nhà chồng.

Trước khi về làm dâu nhà thống lí Pá Tra, Mị là một cô gái H'mông xinh đẹp, tài hoa, hiếu thảo. Tiếng sáo của Mị khiến trai bản “đứng nhẵn cả chân vách buồng”. Nhưng, chỉ vì nghèo, không trả nổi tiền cho nhà thống lí nên Mị đã bị bắt về làm dâu gạt nợ. Từ đây, bao nhiêu hi vọng về hạnh phúc, về tương lai của cô như vụt tắt. Là con nợ, trả nợ xong là thôi nhưng đằng này Mị còn là một cô con dâu. Một cổ 2 gông, tất cả đã đẩy cuộc đời Mị vào vòng tuần hoàn của khổ đau.

Khi mới bị bắt, đêm nào Mị cũng khóc, có lần cô trốn về nhà định ăn lá ngón tự tử. Qua nhưng chi tiết này, ta thấy được tinh thần phản kháng quyết liệt, không chấp nhận số phận của Mị. Quyết định tìm đến cái chết của cô không phải là biểu hiện của sự đầu hàng, buông xuôi. Đó là tiếng nói phản kháng đầy mạnh mẽ của một con người luôn khát khao tự do, khát khao hạnh phúc. Đối với Mị, làm dâu nhà thống lí Pá Tra còn đáng sợ hơn cái chết, bởi vì ở đó, cô không được đối xử như một con người, không được lên tiếng quyết định cuộc đời mình, không có tự do cũng như hạnh phúc. Nhưng vì cha, Mị lại chấp nhận tiếp tục sống và chịu đựng: “Ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi. Bây giờ thì Mị tưởng mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa...”. Từ một người con gái đầy sức sống, Mị giờ đây “lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”. Hình ảnh căn buồng Mị nằm với chiếc “cửa sổ một lỗ vuông bằng bàn tay. Lúc nào trông ra cũng chỉ thấy trăng trắng, không biết là sương hay là nắng” như một nhà giam không những giam hãm thân xác mà còn vây khốn tâm hồn Mị. Đó cũng là hiện thực đầy tàn khốc của những người dân nghèo dưới ách thống trị của bọn địa chủ phong kiến. Họ không chỉ bị tước đoạt tự do thân thể, mà tinh thần họ cũng vướng phải gông xiềng của lề thói, hủ tục. 

Giữa bức tranh tăm tối ấy, đêm tình mùa xuân cùng tiếng sáo gọi bạn réo rắt như thổi một làn gió mới làm bùng lên ngọn lửa yêu thương, khát vọng sống tiềm tàng ngỡ đã vụt tắt. Tiếng sáo được Tô Hoài miêu tả nhiều lần với nhiều tầng bậc khác nhau: “Ngoài đầu núi…thổi”, “Tai Mị… gọi bạn”, “Trong đầu… sáo”, “Tiếng sáo… chơi”. Tiếng sáo gợi nhớ về kỉ niệm, tiếng sáo thôi thúc Mị tìm đến niềm hạnh phúc yêu thương. Thế nhưng, A Sử xuất hiện và giết chết khát vọng sống trong Mị, hắn “lấy thắt lưng trói hai tay Mị. Nó xách cả thúng sợi đay ra trói đứng Mị vào cột nhà. Tóc Mị xoã xuống. A Sử quấn luôn tóc lên cột, làm cho Mị không cúi, không nghiêng được đầu nữa”. Sự lạnh lùng, tàn ác của A Sử đối với Mị không phải là một trường hợp cá biệt, trước đó, có người đàn bà cũng đã bị trói đến chết trong nhà này. Đến đây, bức tranh về tội ác dã man của bọn địa chủ phong kiến được hiện lên rõ nét. Đối với chúng, mạng sống con người chẳng khác gì con trâu, con ngựa. 

Bên cạnh hình tượng nhân vật Mị là A Phủ, một thanh niên mồ côi cha mẹ từ nhỏ, lao động giỏi “chạy nhanh như ngựa, con gái trong làng nhiều người mê”. Vì đánh con quan, A Phủ bị phạt vạ và từ đó trở thành nô lệ cho nhà thống lí. Có thể thấy, dù là một chàng trai gan góc, mạnh mẽ, nhưng cuối cùng, A Phủ cũng như Mị, không thể thoát khỏi bàn tay tội ác của bọn địa chủ phong kiến, ở đây đại diện là nhà thống lí Pá Tra.

Ở trong nhà thống lí Pá Tra, sinh mạng người dân nghèo không bằng cả súc vật. Chỉ vì làm mất bò, A Phủ bị trói đứng giữa trời đông lạnh lẽo. Và giọt nước mắt của anh là giọt nước mắt của sự đắng cay, sự cô độc, bất lực và tuyệt vọng.

Đây là chi tiết vô cùng đắt giá. Giọt nước mắt ấy thể hiện tâm trạng tuyệt vọng của A Phủ đồng thời nó cũng làm dậy lên niềm đồng cảm, xót thương và sức sống ngỡ đã chai sạn trong Mị. Tình cảnh của A Phủ làm Mị nhớ lại đêm mùa xuân mà cô bị A Sử trói nơi cột nhà. Cô chợt cảm thấy xót thương cho chàng trai tội nghiệp kia, xót thương cho tình cảnh của chính mình. Dòng nước mắt của A phủ như thổi bùng khát vọng sống trong Mị mà lâu nay bị lớp tro tàn phong kiến phủ kín. Hành động Mị cắt dây trói cứu thoát A Phủ và chạy khỏi nhà thống lí Pá Tra là sự trỗi dậy của sức sống tiềm tàng, khao khát tự do hạnh phúc của con người bị áp bức

Có thể nói, bằng tài năng tuyệt vời của mình, Tô Hoài đã xây dựng nên những hình tượng nhân vật vô cùng chân thực và sống động. Nếu Mị là hình tượng tiêu biểu cho phụ nữ miền núi nước ta trong thời kì trước Cách mạng đến những năm kháng chiến chống Pháp thì A Phủ mang nét đẹp tiêu biểu cho những thanh niên dân tộc miền núi Tây Bắc: thật thà, chất phát, khoẻ mạnh tuy bị đẩy vào số phận khổ đau nhưng không nguôi khát vọng tự do. Bên cạnh bức tranh hiện thực về tội ác của giai cấp thống trị cùng cuộc sống tăm tối của nhân dân, tác phẩm còn là một bài ca về tình người, bài ca về khát vọng sống, khát vọng tự do. Hành động cắt đứt dây trói, bước chân gấp gáp chạy khỏi nhà thống lí và đứng dưới là cờ Cách mạng của Mị và A Phủ chính là sự vùng lên tất yếu của những con người không đầu hàng số phận. Tác giả bày tỏ sự đồng cảm, xót thương nhưng cũng đầy tự hào, ngợi ca khi viết về họ và cuộc đời của họ. Đó cũng chính là giá trị nhân đạo sâu sắc của tác phẩm này,

    Về nghệ thuật, tác phẩm cho thấy tài năng trong việc dẫn chuyện và miêu tả tâm lí nhân vật của Tô Hoài. Đặc biêt, dưới ngòi bút miêu tả bậc thầy, Tô Hoài cũng đã phát họa cho người đọc một cuộc xử kiện sống động và giàu sức tố cáo, từ đó vạch trần sự áp bức dã man của bọn thống trị miền núi. Qua giọng kể khi thì khách quan, khi thì nhập vào nhân vật, cùng ngôn ngữ sinh động, chọn lọc, có sáng tạo, bức tranh về thiên nhiên và cuộc sống sinh hoạt của người dân Tây Bắc đã được hiện lên vô cùng chân thật và xúc động. 

  Tóm lại, có thể khẳng định, “Vợ chồng A Phủ” là một trong những tác phẩm mẫu mực nhất khi viết về thiên nhiên và con người miền núi. Qua “Vợ chồng A Phủ”, Tô Hoài đã khẳng định tên tuổi của mình trong văn đàn đồng thời ghi dấu ấn sâu đậm trong lòng người đọc bao thế hệ. 

Đề bài: Anh chị hãy phân tích diễn biến tâm trạng của Mị trong đêm cởi trói cho A Phủ.

Bài tham khảo

Tô Hoài là nhà văn có sức sáng tạo bậc nhất trong nền văn học Việt Nam hiện đại với gần 200 đầu sách thuộc nhiều thể loại khác nhau như truyện ngắn, tiểu thuyết, kí, tự truyện… và “Vợ chồng A Phủ” được xem là truyện ngắn đặc sắc nhất trích từ tập Truyện Tây Bắc. “Vợ chồng A Phủ” đã khắc họa thành công bức tranh hiện thực của người dân miền núi dưới ách thống trị của bọn thực dân nửa phong kiến. Đồng thời, tác giả cũng thể hiện giá trị nhân đạo sâu sắc khi mở đường giải thoát cho thân phận hai kẻ nô lệ bất đắc dĩ – Mị và A Phủ. Trong đó, diễn biến tâm trạng của Mị trong đêm cởi trói cho A Phủ đã để lại cho người đọc những ấn tượng sâu đậm nhất.

Trước tiên, chúng ta cần khái quát lại nội dung của truyện. “Vợ chồng A Phủ” xoay quanh cuộc đời của hai nhân vật chính – Mị và A Phủ. Đó là hai con người trẻ trung, giàu sức sống, yêu đời và tài năng nhưng chẳng may lại trở thành nô lệ, mang lấy kiếp trâu ngựa, bị áp bức bởi bọn thực dân phong kiến mà điển hình ở đây là gia đình thống lý Pá Tra. Mị trước khi làm dâu là cô gái xinh đẹp, những ngày Tết “trai đến đứng nhẵn cả chân vách đầu buồng Mị”, hiếu thảo “Con nay đã biết cuốc nương làm ngô, con phải làm nương ngô giả nợ thay cho bố. Bố đừng bán con cho nhà giàu”, tài năng “Ngày trước, Mị thổi sáo giỏi”. Còn A Phủ tuy chịu mất mát từ nhỏ “Anh của A Phủ, em A Phủ chết, bố mẹ A Phủ cũng chết. Còn sót lại một mình A Phủ” nhưng lại có bản lĩnh hơn người “không chịu ở dưới cánh đồng thấp”. Bên cạnh đó, A Phủ còn là chàng trai khỏe mạnh, tài giỏi “đã biết đúc lưỡi cày, biết đục cuốc, lại cày giỏi và săn bò tót rất bạo”, “A Phủ khỏe, chạy nhanh như ngựa, con gái trong làng nhiều người mê”…. Mị vì món nợ gia đình mà trở thành con dâu gạt nợ. A Phủ vì tội đánh A Sử mà trở thành nô lệ. Hai con người lương thiện phải chôn vùi cuộc đời tươi trẻ của mình dưới gầm trời nhà thống lý. Trong đêm tình mùa xuân, Mị đã tỉnh lại quá khứ tươi đẹp khi xưa nhờ men rượu và tiếng sáo. A Phủ vì để mất một con bò mà bị bắt trói đứng nhiều đêm liền. Trước tình cảnh đó, ban đầu Mị dửng dưng, vô cảm. Dần dần, lòng thương người trỗi dậy, Mị quyết định cắt dây cởi trói cho A Phủ. Có thể thấy, diễn biến tâm trạng của nhân vật Mị đã được Tô Hoài miêu tả một cách sinh động, tài hoa.

Trước đêm cởi trói cho A Phủ, Mị là cô gái vô cảm. Như chúng ta đã biết, sau khi về làm dâu gạt nợ, thực chất là con ở không công nhà thống lý, Mị bị đày đoạt về thể xác và tước đoạt về linh hồn. Tô Hoài đã nhiều lần so sánh hình ảnh Mị với loài vật không hơn không kém “Bây giờ Mị tưởng mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa, là con ngựa phải đổi ở cái tàu ngựa nhà này đến ở cái tàu ngựa nhà khác, ngựa chỉ biết việc ăn cỏ, biết đi làm mà thôi”, “Con ngựa, con trâu làm còn có lúc, đêm nó còn được đứng gãi chân, đứng nhai cỏ, đàn bà con gái nhà này thì vùi vào việc làm cả đêm lẫn ngày”, “Mỗi ngày Mị càng không nói, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”… Sự chai lì cảm xúc đã in hằng lên gương mặt xinh tươi ngày trước đến mức Mị chẳng còn màng đến cái chết nữa bởi “Ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi”. Phải chi Mị còn muốn tự tử, phải chi Mị còn đau đớn bởi sự bất công, đày đọa của cuộc đời này thì ít ra, ta còn thấy Mị còn sót lại chút lí tưởng sống. Đằng này, Mị gần như từ bỏ, gần như buông xuôi, gần như chấp nhận sự phi lí, bất nhân của cuộc đời như một lẽ thường hằng. Đến đêm tình mùa xuân đến, sức sống tiềm tàng trong Mị trỗi dậy nhưng lại nhanh chóng bị dập tắt bởi sự bạo tàn của A Sử “A Sử bước lại, nắm Mị, lấy thắt lưng trói hai tay Mị”. Bị trói đứng cả đêm nhưng Mị vẫn nghe hơi rượu, nghe tiếng sáo, vẫn giật mình cựa quậy khi nhớ câu chuyện rùng rợn ngày trước “ở nhà thống lý Pá Tra có một người trói vợ trong nhà rồi đi chơi, khi về nhìn đến thì vợ chết rồi”. Ý thức về sự sống trỗi dậy nhưng có vẻ còn quá yếu ớt để đòi hỏi một sự giải thoát, một cuộc cách mạng.

Gặp A Phủ bị gia đình thống lý Pá Tra trừng phạt tàn nhẫn – trói đứng ngoài sân nhiều đêm liền nhưng Mị vẫn thản nhiên thổi lửa, hơ tay “nếu A Phủ là cái xác chết đứng đấy, cũng thế thôi”. Than ôi! Còn sự nhẫn tâm nào hơn! Mị từ cô gái vui vẻ, yêu đời nay trở thành kẻ lạnh lùng, vô cảm. Trước những người cùng cảnh ngộ, Mị chẳng còn đủ nước mắt để xót thương. Lúc ấy, chỉ còn Mị với ngọn lửa vô tri vô giác ngoài kia.

Trong lúc cởi trói cho A Phủ, tâm trạng Mị chuyển hóa từ vô cảm đến đồng cảm. Mị mơ hồ thấy tội, thấy thương cho A Phủ. Mị đặt ra nghi vấn cho kiếp nô lệ mà chàng trai bất hạnh kia phải gánh lấy. Mị nhớ đến đời mình như một điều tất yếu, một sự liên hệ giữa những người cùng gánh lấy cuộc đời bi kịch, cùng là những con người thấp cổ bé họng. Họ đã cam chịu bấy lâu nay, đã bị giày xéo thể xác lẫn linh hồn.

Chi tiết đánh dấu sự chuyển biến tâm lí của Mị là giọt nước mắt của A Phủ “Ngọn lửa bập bùng sáng, Mị lé mắt trông sang, thấy hai mắt A Phủ cũng vừa mở, một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại”. Lòng nhân đạo trong Mị bừng tỉnh, Mị nhận ra tội ác của kẻ thù, xót thương cho tình cảnh của người vô tội “Trời ơi, nó bắt trói đứng người ta cho đến chết, nó bắt mình cũng chết thôi”, “chúng nó thật độc ác”, “cơ chừng này chỉ đêm mai là người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết”, “người kia việc gì mà phải chết thế”…. Cô Mị vô cảm ngày trước giờ nhận ra sự phi lý trong kiếp đọa đày.

Từ đó, lòng thương người trong đã âm thầm mạnh mẽ lớn lên trong Mị, đưa Mị đến một quyết định táo bạo: cắt dây cởi trói cho A Phủ “Mị lấy con dao nhỏ cắt lúa, cắt nút dây mây”.

Sau khi cắt dây cởi trói cho A Phủ, Mị bắt đầu hiện thực hóa cuộc lội ngược dòng ý thức cá nhân. Sự sống và cái chết gần trong tấc gang, buộc Mị phải thực sự đối đầu với sự lựa chọn. Hoặc là trở thành cái xác thay thế cho A Phủ, hoặc là mạo hiểm làm một cuộc giải thoát “Mị đứng lặng trong bóng tối”. Cuối cùng, sức sống tiềm tàng và khao khát tự do đã chiến thắng “Rồi Mị cũng vụt chạy ra. Trời tối lắm. Nhưng Mị vẫn băng đi”. Bước chân của Mị bây giờ không có sự đàn áp nào của cường quyền, thần quyền ngăn cản nổi “Ở đây thì chết mất”. Qua hành động chạy theo A Phủ, Tô Hoài đã thể hiện giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo sâu sắc nhất, thể hiện tiếng nói cứu lấy con người từ trong tận cùng đày ải, đau thương “Người đàn bà chê chồng đó vừa cứu sống mình”.

Thông qua ba quá trình diễn biến tâm lí cơ bản: trước, trong và sau khi cắt dây cởi trói, Tô Hoài đã thể hiện được tài năng của bản thân thông qua ngòi bút khắc họa nhân vật. Từ ngoại hình đến tính cách, chân dung Mị và A Phủ hiện lên sinh động và mang đậm màu sắc của người dân lao động vùng cao Tây Bắc. Đồng thời, người đọc còn được thấy rõ sự phản kháng, tranh đấu, vượt thoát khỏi cuộc sống tăm tối để tìm đến tự do, hạnh phúc trong chặng đời về sau.

Tóm lại, diễn biến tâm trạng trong đêm cởi trói cho A Phủ mang tính chuyển biến mạnh mẽ, đánh dấu một cuộc lội ngược dòng táo bạo. Qua đó, ta thấy được con đường giải thoát, niềm tin và lí tưởng của các nhân vật trong tác phẩm của nhà văn Tô Hoài nói riêng và các nhà văn sau cách mạng nói chung.

Đề bài: Cảm nhận của anh chị về hành động Mị chạy theo A Phủ trong “Vợ chồng A Phủ” của Tô Hoài.

“Vợ chồng A Phủ” là tác phẩm được trích từ tập Truyện Tây Bắc của nhà văn Tô Hoài. Tập truyện đã được tặng giải Nhất, giải thưởng của Hội Văn nghệ Việt Nam 1945 – 1955. Trong đó, “Vợ chồng A Phủ” là một truyện ngắn hay viết về một sự đổi đời kì diệu. Xoay quanh hai nhân vật chính là Mị và A Phủ, Tô Hoài đã khắc họa hai chặng đường hoàn toàn đối lập. Chặng đường đầu tiên là những ngày ở Hồng Ngài, Mị và Phủ - hai con người xinh tươi, giỏi giang phải cam cảnh nô lệ ê chề. Chặng đường thứ hai là ở Phiềng Sa, Mị và A Phủ đã vùng lên từ bóng đêm của cường quyền, thần quyền để đến với ánh sáng của tự do. Sự kiện đánh dấu bước chuyển biến giữa hai chặng đường chính là hành động Mị cắt dây cởi trói và chạy theo A Phủ.

Hành động Mị chạy theo A Phủ trước nhất chính là hành động Mị chạy khỏi những áp bức, đày đọa của đời mình. Cuộc đời của Mị những ngày tháng ở Hồng Ngài gồm hai giai đoạn chính: trước khi làm dâu và sau khi làm dâu nhà thống lý Pá Tra. Trước khi bị bắt về cái gia đình đã giết chết tuổi xuân của mình, Mị là một cô gái trẻ trung, xinh đẹp, tài năng, yêu lao động lại hiếu thảo với cha mẹ. Mị cũng có tình yêu như bao người, cũng được bao kẻ say mê, theo đuổi “con trai đến đứng nhẵn cả vách đầu giường nhà Mị”. Tô Hoài đã miêu tả tài năng thổi sáo của Mị như sau “Mị thổi sáo giỏi, thổi lá cũng hay như thổi sáo. Có biết bao người say mê, ngày đêm thổi sáo đi theo Mị”. Đứng trước món nợ của bố, Mị nhận lấy trách nhiệm của người con, thà là vất vả lao động “Con nay đã biết cuốc nương làm ngô, con phải làm nương ngô giả nợ thay cho bố” còn hơn phải trở thành con dâu gạt nợ “Bố đừng bán con cho nhà giàu”. Thế nhưng số phận bi kịch đã không nhún nhường và buông tha cho Mị. Mị bị bắt và trở thành con dâu gạt nợ. Mị bị bắt đem cúng “trình ma” nhà thống lý. Từ đó, đoạn đời vui vẻ của Mị đặt một dấu chấm kết thúc để bắt đầu thân phận của con người lao động mịt mờ không lối thoát. Trước món nợ truyền kiếp và sự áp chế của thần quyền – Mị nghĩ rằng đã cúng “trình ma” thì mình chỉ còn biết làm thân trâu ngựa cho đến ngày chết rũ xương ở đấy mà thôi – Mị hoàn toàn tê liệt về thể xác lẫn tinh thần “Mỗi ngày Mị càng không nói, cứ lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”. Vì thế, mở đầu tác phẩm, tác giả đã vẽ nên hình ảnh bi thương cùng quẫn của kiếp người: “Ai ở xa về, có việc vào nhà thống lí Pá Tra thường trông thấy có một cô con gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa. Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước suối dưới khe lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi.” Cuộc đời A Phủ cũng như vậy, từ một, cũng là nạn nhân của cường quyền, thần quyền và chính sách cho vay nặng lãi của bọn chủ nô phong kiến miền núi. Trước khi trở thành con ở nhà thống lý, A Phủ tuy có xuất thân bất hành “không có bố mẹ, không có ruộng, không có bạc” nhưng vẫn là chàng trai yêu đời và có nhiều phẩm chất tốt đẹp. A Phủ là chàng trai tự do của núi rừng, yêu lao động, tự do, giỏi giang “biết đúc lưỡi cày, biết đục cuốc, lại cày giỏi và săn bò tót rất bạo”. A Phủ còn là niềm khát khao của bao cô gái trong làng “Lấy được A Phủ là bằng được con trâu tốt trong nhà”. Vì tội đánh con quan – A Sử mà A Phủ từ đứa con của núi rừng trở thành kẻ nô lệ với bản án chung thân “đời mày, đời con mày, đời cháu mày tao cũng bắt thế, bao giờ trả hết nợ mới thôi”. Hai con người tươi trẻ giờ trở thành hai kẻ cùng khổ, số phận họ bị quyết định bởi bàn tay tàn bạo của thống lý Pá Tra.

Những ngày tháng làm nô lệ ở nơi địa ngục trần gian của một Mị tưởng chừng không lối thoát nhưng cuối cùng, chính sức sống tiềm tàng bên trong đã khiến Mị hành động. Qúa khứ thì tươi đẹp. Hiện tại thì nhục nhã ê chề. Còn tương lai sẽ ra sao? Đêm tình mùa xuân đã khe khẽ nhen nhóm nhận thức bên trong Mị để đến đêm mùa đông, Mị quyết định cắt dây cởi trói của A Phủ. Chỉ vì để con hổ ăn mất bò mà chàng phải chịu cảnh trói đứng, gần như phải dùng mạng sống của mình thay thế. A Phủ bị bắt trói đứng ngoài sân nhiều đêm nhiều.  Một cuộc vượt ngục âm thầm diễn ra, hai con người nô lệ giờ dìu dắt nhau để thoát khỏi cảnh tù đày. Hành động cắt dây thể hiện sự can đảm tuyệt đối. Mị trân trọng giá trị con người, mạng sống con người. Lòng thương người tỉnh thức là cơ sở để Mị phát triển thành lòng thương mình, xót thương cho số phận đau thương mà bấy lâu nay nàng âm thầm chấp nhận. Mị sẽ chẳng còn phải chịu cảnh “thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa” hay bị A Sử “xách cả một thúng sợi đay ra trói đứng Mị vào cột nhà nữa”… Mị cũng sẽ chẳng còn phải vay mượn men rượu, vay mượn tiếng sáo để sống lại những ngày tự do trước nữa bởi phía trước nàng chính là cuộc đời mới, là con đường mới.

Bên cạnh đó, hành động Mị chạy theo A Phủ còn là hành động Mị hiện thực hóa khát vọng tự do, đến với ánh sáng cách mạng. Có thể nói đây là giá trị nhân đạo mới mẻ trong ngòi bút Tô Hoài nói riêng và ngòi bút các nhà văn sau cách mạng nói chung. Lí tưởng thời đại đã thay đổi, con người đã tìm ra lối thoát tinh thần của mình. Nếu như trước cách mạng, các nhân vật thường rơi vào bế tắc, vào bi kịch thì sau cách mạng, họ đến được với sự giải phóng, với ánh sáng tự do. Ta thấy cái kết của nhân vật Chí Phèo hay chị Dậu hoàn toàn đối lập với cái kết của Mị, của A Phủ. Cắt dây cởi trói cho A Phủ, Mị đã từng nghĩ đến viễn cảnh phải thay thế mạng sống mình nhưng cuối cùng, vượt qua bóng ma thần quyền và sự áp chế của cường quyền, vượt qua nỗi sợ đã gặm nhấm thể xác và tinh thần, Mị đã chạy theo A Phủ. Bước chân của Mị là bước chân đạp đổ hiện thực “A Phủ cho tôi đi! Ở đây thì chết mất”. Cuối cùng, cô Mị sau bao năm vô cảm, lùi lũi, trơ trơ cũng đã đối diện với nỗi sợ của mình. Nàng đã hồi sinh trở lại từ sự chết dần chết mòn những ngày tháng qua. Nàng đã vùng lên đấu tranh, ngọn lửa sức sống âm thầm nhưng mạnh mẽ, kết tinh thành hành động táo bạo, dứt khoát. Chính dòng nước mắt bò xuống hai hõm má xám đen lại kia đã đen đến sự hồi sinh cho Mị - một sự hồi sinh kì diệu. Thế là từ đây, Mị kết thúc cuộc đời cuộc đời con dâu gạt nợ, A Phủ kết thúc kiếp nô lệ tôi đòi. Họ dìu dắt nhau từ bóng đêm lầm than, từ áp bức của cường quyền và thần quyền để đến vùng đất Phiềng Sa – vùng đất hứa hẹn niềm tin, tự do và hạnh phúc.

Hành động Mị chạy theo A Phủ đã khép lại những tháng ngày quẩn quanh, bế tắc của Mị và A Phủ ở Hồng Ngài. Tô Hoài bằng tài năng của mình đã xây dựng tác phẩm thành công trên nhiều phương diện: đề tài, kết cấu, nhân vật… Do đó, “Vợ chồng A Phủ” trở thành một tác phẩm tiêu biểu viết về sự trỗi dậy của thân phận con người, cụ thể ở đây là người dân vùng cao dưới ách thống trị của bọn thực dân nửa phong kiến.

Đề bài: Phân tích sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị được thể hiện trong cảnh ngộ khi bị bắt làm dâu gạt nợ trong nhà thống lí Pá Tra đến khi thoát khỏi Hồng Ngài.

Bài tham khảo

Tô Hoài là nhà văn luôn hấp dẫn người đọc bởi những nét độc đáo trong việc quan sát và diễn tả về những số phận con người miền núi. Đó là những người dân lao động vùng cao Tây Bắc không chịu sự đày đọa, giam hãm trong cuộc sống tăm tối; họ vùng lên phản kháng, đi tìm cuộc sống tự do. Sức sống tiềm tàng đó được thể hiện mạnh mẽ trong tác phẩm “Vợ chồng A Phủ”, thông qua nhân vật Mị, khi cô lâm vào cảnh ngộ bị bắt làm dâu gạt nợ trong nhà thống lí Pá Tra đến khi thoát khỏi Hồng Ngài.

Trước khi bị bắt về làm dâu nhà thống lí Pá Tra, Mị là một cô gái trẻ đẹp, yêu lao động, yêu tự do. Khi bị bắt về làm dâu nhà thống lí, Mị phải chịu một cuộc sống đầy tủi nhục, thống khổ. “Lúc nào cô cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi.” Bởi cô là cô dâu gạt nợ, nạn nhân của chính sách cho vay nặng lãi. Để rồi cô bị tước đoạt tuổi trẻ, tự do, bị đối xử như nô lệ. Mỗi ngày, Mị càng không nói, cứ lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa.

Dù cuộc sống thống khổ, nhưng Mị vẫn ẩn chứa một sức sống tiềm tàng, sức sống ấy của Mị trỗi dậy vào đêm tình mùa xuân.  “Hồng Ngài năm ấy ăn tết giữa lúc cỏ gianh vàng ửng, gió và rét rất dữ dội... Trong các làng Mèo đỏ, những chiếc váy hoa đã đem ra phơi trên mỏm đá xòe như con bướm, sặc sỡ... tiếng trẻ con nô đùa...” Mùa xuân ấy rộn rã âm thanh và màu sắc, là dấu hiệu cho sự bừng tỉnh của Mị trong đêm tình mùa xuân. Đầu tiên, sức sống ấy được hồi sinh khi Mị nghe thấy tiếng sáo: “Ngoài đầu núi lấp ló đã có tiếng ai thổi sáo rủ bạn đi chơi...” Tiếng sáo ấy chạm vào tâm hồn của Mị, khiến Mị nhớ lại những ngày xuân thật đẹp của quá khứ. “Mị nghe tiếng sáo vọng lại thiết tha bổi hổi”. Tiếng sáo ấy như ngọn gió thổi vào lòng cô, khiến cô nhẩm lại lời của người đang thổi sáo:

“Mày có con trai con gái rồi

Mày đi làm nương

Ta chưa có con trai con gái

Ta đi tìm người yêu”

Đã lâu rồi Mị không hát, thế mà cô vẫn thuộc. Dường như Mị vẫn chẳng thể quên được những ngày tươi đẹp nhất, trái tim vẫn chẳng thể nguội lạnh trước cuộc đời ngoài kia. Tiếng sáo ấy khiến Mị lén lấy hũ rượu. “Cứ uống ực từng bát. Rồi say. Mị lịm mặt ngồi đấy nhìn những người nhảy đồng, người hát, nhưng lòng Mị thì đang sống về ngày trước.” Niềm vui ấy khiến Mị ý thức được rằng “Mị trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi.” Điều đó thể hiện được khát khao tự do của cô, khát khao tự do giữa hiện thực đau đớn. Để rồi cô tủi thân, khi nhớ lại rằng mình đang có một cuộc sống bất hạnh: “A Sử với Mị không có lòng với nhau mà vẫn phải ở với nhau.” Mị chợt muốn chết, mà muốn chết tức là cô đã nhận ra trong tư tưởng của mình có sự phản kháng, cô không còn muốn sống kiếp sống này nữa. Sức sống mãnh liệt còn thể hiện mạnh mẽ hơn khi Mị đi đến quyết định: Bỏ nhà đi theo cuộc chơi. Mị làm đẹp cho bản thân mà không để ý đến thái độ của A Sử, Mị hành động thản nhiên, nhưng đau đớn thay, sự độc ác tàn nhẫn của giai cấp thống trị đã dập tắt đi cái khát vọng sự trỗi dậy đó của Mị. A Sử trói Mị, nhưng lúc này đây, Mị đâu còn sống bằng tâm hồn của mình. Hồn Mị đang “đi theo những cuộc chơi những đám chơi”. Tâm hồn cô đang ngập tràn tiếng sáo, tiếng sáo ấy nhập vào hồn Mị, khiến nàng quên đi rằng mình bị trói. Nhưng rồi “tay chân đau không cựa được”, Mị đau đớn tủi nhục, quay về với cuộc đời hiện thực. Có một chi tiết đắt giá đã lóe lên trong tâm trạng của cô: Mị tỉnh dậy và nhớ lại câu chuyện của người đàn bà bị chồng trói chết trong căn nhà này. Mị sợ, Mị “cựa quậy xem thử mình còn sống hay đã chết”. Nàng vẫn còn biết sợ, và đó chính là biểu hiện của lòng ham sống. Sức sống ấy vẫn đang âm ỉ cháy trong tâm hồn nàng, dù có bị vùi dập như thế nào đi nữa.

Sức sống tiềm tàng của Mị lại bùng lên lần nữa trong đêm cởi trói cho A Phủ. Cùng là nạn nhân của chính sách cho vay nặng lãi, nếu Mị trở thành cô dâu gạt nợ, thì A Phủ trở thành trâu ngựa cho nhà Pá Tra. Họ là nô lệ, ăn đời ở kiếp cho lũ nhà giàu, để rồi khi con bò bị hổ bất mắt, A Phủ bị hành hạ, bị treo lên cột, bỏ mặc đến chết. Lúc đầu, Mị chứng kiến mọi thứ bằng đôi mắt vô cảm. Dường như Mị đã mất đi lòng nhân ái giữa người với người, Mị lạnh lùng nhìn A Phủ bị hành hạ. Sau đó, khi nhìn thấy dòng nước mắt của A Phủ chảy xuống, Mị bỗng động lòng, trái tim của nàng thức tỉnh. Mị hình dung lại chuỗi ngày dài dằng dặc của cuộc đời mình, để rồi thấy A Phủ sao mà giống mình thế, phải chịu cảnh đau khổ, tàn nhẫn, kiếp sống trâu ngựa đầy bất công, phi lí. Mị nguyền rủa: “Chúng nó thật độc ác.”

Trái tim nhân ái của Mị đã thôi thúc nàng phải cứu A Phủ, dù cho nếu A Phủ chạy thoát, thì có thể người phải chết trên cột sẽ chính là nàng. Nhưng giờ đây, sức sống tiềm tàng đã khiến Mị khao khát được tự do, để rồi Mị quyết liệt cắt đứt sợi dây trói cho A Phủ. Đó là chính là vẻ đẹp của một tâm hồn khát khao được sống, được giải phóng bản thân mình. Hành động cắt sợi dây trói cho A Phủ cũng chính là cắt sợi dây trói buộc của đời mình, giải thoát khỏi cường quyền và thần quyền. Hành động này là một bước chuyển tâm lý, một sự trỗi dậy mạnh mẽ, một quá trình hiện thực hóa nhận thức, đưa cô Mị từ sức sống tiềm tàng trở thành người tự giải thoát chính mình. Qua đó, ta thấy được giá trị nhân đạo trong ngòi bút của Tô Hoài. Ông nâng niu từng phẩm chất tốt đẹp của nhân vật, cứu vớt họ từ những bi kịch cùng quẫn, đau thương...

Như Maxim Gorki đã từng nói: “Văn học là nhân học”, ngòi bút của Tô Hoài thấm đẫm giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo. Ông đã lặn xuống những kiếp người cùng khổ để thấu hiểu được nỗi đau, từ đó khám phá ra sức sống tiềm tàng ẩn sâu bên trong tâm hồn của họ.

Đề bài: Anh chị hãy nêu cảm nhận về nhân vật A Phủ trong truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” (Tô Hoài).

Bài tham khảo

Trong một tác phẩm văn học, nhân vật đóng vai trò vô cùng quan trọng, đó là chiếc chìa khóa để giải mã ý nghĩa ẩn sâu bên trong mỗi tác phẩm, và cũng là nơi tác giả nhắn nhủ cảm xúc, tâm tư, trăn trở của bản thân. Nhân vật A Phủ trong truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” là một nhân vật như thế, một nhân vật có số phận nhỏ bé, khổ đau; nhưng ẩn trong đó là nghị lực sống tiềm tàng, mạnh mẽ.

A Phủ được miêu tả trước hết là một người có số phận bất hạnh, kém may mắn. A Phủ người Háng Bla. Năm mười tuổi, anh mồ côi cả cha lẫn mẹ sau một trận đậu mùa khủng khiếp, sau đó, “người làng đói bụng đã bắt A Phủ đưa xuống bán đổi lấy thóc của người Thái ở dưới cánh đồng.” Thế nhưng A Phủ không cam chịu, anh đã trốn thoát lên núi cao, để rồi lưu lạc đến Hồng Ngài. Số phận của A Phủ đại diện cho biết bao con người nghèo khổ trong xã hội, không có quyền được quyết định cuộc đời mình.

Tuy vậy, vượt lên số phận khốn khó của mình, A Phủ lại có những tính cách tốt đẹp của một người con trai miền núi. Bởi anh có sự cần cù, chăm chỉ kiếm sống, “biết đúc lưỡi cày, lại cày giỏi và đi săn bò tót cũng rất bạo.” “Công việc làm hay đi săn, cái gì cũng phăng phăng.” A Phủ rất khỏe, chạy nhanh như ngựa. Anh trở thành niềm khao khát của bao cô gái trong làng: “Lấy được A Phủ là bằng được con trâu tốt trong nhà.” Khen vậy, nhưng anh lại chẳng lấy được vợ, vì “không có bố mẹ, không có ruộng, không có bạc”. Giữa cuộc sống khắc nghiệt như thế, mà A Phủ vẫn giữ được cho mình sự lạc quan, niềm tin vào cuộc sống, vui vẻ và yêu đời. Dẫu cho không có quần áo đẹp, chỉ độc một cái vòng vía trên cổ, A Phủ vẫn cứ “cùng trai làng đem sáo, khèn con quay và quả pao đi tìm người yêu ở các làng trong rừng”. Thể hiện được một đời sống tâm hồn phóng khoáng, hồn nhiên, yêu đời và tự tin của tuổi trẻ. Nhưng không chỉ dừng ở đó, A Phủ còn là một người yêu chính nghĩa. Bất bình trước sự lộng quyền của A Sử, dẫu biết đó là con quan, A Phủ vẫn “chạy vụt ra, vung tay ném con quay vào mặt A Phủ”, “xộc tới, nắm cái vòng cổ, kẹp dập đầu xuống, xé vai áo đánh tới tấp”. Đó là sự phẫn nộ trước những cảnh bất công, phi lí cho cuộc đời, cho thấy được sự gan góc của A Phủ.

Lương thiện là thế, nhưng A Phủ lại là nạn nhân của hủ tục lạc hậu, nạn nhân của cường quyền độc ác. Vì tội đánh con quan, A Phủ bị nhà thống lý bắt về xử kiện, bị tay chân nhà Pá Tra đánh đập dã man. Nhưng anh đã chứng tỏ mình là con người bất khuất, cứng rắn gan dạ. Anh chỉ quỳ, chịu đòn, im như tượng đá. Cuối cùng, anh bị buộc nộp vạ một trăm bạc trắng, vì không có tiền nộp vạ nên A Phủ phải vay nợ. Vậy là anh phải chịu kiếp sống trâu ngựa để trừ nợ, bị trở thành nô lệ với bản án chung thân suốt đời đúng như lời tên Pá Tra đã nói “đời mày, đời con mày, đời cháu mày tao cũng bắt thế, bao giờ trả hết nợ mới thôi”. Đó là kiếp sống bị khinh rẻ, bị ngược đãi và phải gánh vác những công việc nặng nhọc, nguy hiểm nhất như “săn bò tót, bẫy hổ, chăn ngựa quanh năm một thân một mình rong ruổi ngoài gò vãi, nương rừng”. Từ một chàng thanh niên sôi nổi, yêu đời, anh trở nên nhẫn nhục, cam chịu.

Giữa kiếp nô lệ ấy, A Phủ vẫn thể hiện lòng ham sống và khát vọng tự do. Sau khi để hổ bắt mất một con bò, thống lí quát thẳng vào mặt A Phủ: “Quân ăn cướp làm mất bò tao”. A Phủ bị trói đứng vào cột bằng dây mây cuốn từ chân lên vai. Anh bị trói trong đói rét, trong đau đớn mà chẳng ai ngó ngàng, dù nhà Thống lí “kẻ ra người vào tấp nập”. Tuy vậy, với khát vọng sống mãnh liệt, anh không cam chịu chết mà tìm mọi cách tự giải thoát: “Đêm đến, A Phủ cúi xuống, nhay đứt hai vòng dây, nhích dần dây trói một bên tay.” Thế nhưng, cha con thống lý lại về và tròng thêm vào cổ anh một cái dây thòng lọng.Sau bao ngày bị hành hạ, hai hõm má anh xám lại vì tuyệt vọng và khổ đau. Còn gì đau đớn hơn khoảnh khắc ta nhận thức được rằng mình sẽ chết, mình đang dần chết đi. Những giọt nước mắt dần lăn xuống, lấp lánh, vì nỗi khát khao được sống, được tự do. Khát khao ấy đã được thể hiện mạnh mẽ hơn bao giờ hết vào lúc Mị cắt dây trói cho anh. Sau nhiều đêm bị trói, bị hành hạ, A Phủ đã quỵ xuống. Nhưng tình yêu cuộc sống đã khiến anh vùng dậy và chạy đi. Những bước chạy của anh là bước chạy của sự đấu tranh, của sự phấn đấu vươn đến tự do, giải phóng chính mình. Giữa bóng tối của cuộc đời, A Phủ đang đi tìm cho mình ánh sáng của niềm tin, của tình yêu đời. Để rồi sau này, khi A Phủ và Mị chạy trốn tới khu du kích ở Phiềng Sa, gặp cán bộ A Châu. A Phủ và Mị lần lượt trở thành chiến sĩ du kích cùng bộ đội giải phóng quê hương. 

Có thể nói, thông qua nhân vật A Phủ, chúng ta đã nhận ra được giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc. Đó là tiếng nói lên án tố cáo tội ác tày trời của giai cấp chủ nô phong kiến miền núi đang áp bức, bóc lột nhân dân Tây Bắc. Đồng thời, nhà văn cũng phát hiện và trân trọng vẻ đẹp tâm hồn của những con người lao động. Từ đó bộc lộ niềm cảm thông, yêu thương chân thành, sâu sắc đến những nhân cách đáng quý ấy.

Về nghệ thuật, nhân vật A Phủ được khắc họa chân dung, tính cách thông qua ngôn ngữ mộc mạc, giản dị, cùng phong cách trần thuật hấp dẫn, xây dựng nhân vật giữa những tình huống truyện đặc sắc. Đó là những điều đã làm nên một nhân vật A Phủ mạnh mẽ, tràn đầy sức sống. Anh là một hình tượng điển hình cho cuộc sống ngột ngạt của những người lao động hiền lành, chất phác trên vùng cao, dưới sự thống trị của những người cầm quyền giàu có nhưng mất nhân tính. Họ đẩy những người hiền lành như anh đến bước đường cùng, để rồi anh phải đấu tranh, phải giải phóng mình, vụt chạy, tìm cho mình một con đường khác, một con đường mà ở đó anh sẽ tìm thấy được hạnh phúc. Tô Hoài thấu hiểu được điều đó, ông đặt tình cảm, niềm cảm thương của mình vào nhân vật A Phủ, với ước mong rằng những người khổ đau sẽ tìm được con đường giải phóng bản thân.

Đọc một tác phẩm, cái đọng lại sâu sắc nhất trong tâm hồn người đọc thường là số phận, tình cảm, cảm xúc, suy tư của những nhân vật được nhà văn thể hiện. Vợ chồng A Phủ đã để lại trong lòng độc giả vẻ đẹp về tâm hồn, tính cách của những người vùng cao, mà nhân vật A Phủ là một hình tượng tiêu biểu như thế. Ở anh, tượng trưng cho khát vọng tự do, niềm yêu đời, vượt lên số phận để sống, để sống thật tốt, sống vượt lên những khó khăn của cuộc đời.  

Đề bài: Phân tích giá trị nhân đạo trong truyện ngắn "Vợ chồng A Phủ" (Tô Hoài)  qua số phận hai nhân vật Mị và A Phủ.

Bài tham khảo

Tô Hoài là nhà văn nổi tiếng với cảm quan hiện thực đầy tinh tế về cuộc sống đời thường cùng sự nhạy bén trong việc sử dụng ngôn từ. Không chỉ vậy, ông còn là một nhà văn với tinh thần nhân đạo sâu sắc, mới mẻ. Điều này đã được thể hiện thông qua số phận của nhân vật Mị và A Phủ trong truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ”, in trong tập “Truyện Tây Bắc”.

Giá trị nhân đạo là sự quan tâm đến con người mà biểu hiện của giá trị nhân đạo là lòng thương người, sự cảm thông, bênh vực con người. Mỗi một tác phẩm thì giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo biểu hiện ở khía cạnh khác nhau. Giá trị nhân đạo trong “Vợ chồng A Phủ” trước hết được thể hiện ở phương diện tố cáo những thế lực độc ác. Đó là thế lực phong kiến miền núi lợi dụng chính sách cho vay nặng lão nhằm đọa đày người lương thiện. Trước tiên là ở Mị, nàng bị buộc vào vòng lẩn quẩn của cái nợ từ thời ba mẹ nàng. Còn ở A Phủ là khoản nợ 100 đồng bạc trắng. Chúng trói buộc cả hai con người đáng thương vào cuộc đời đau khổ. Đến một ngày thì Mị không còn ý thức phản kháng nữa, bởi ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi. “Bây giờ thì Mị tưởng mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa... ngựa chỉ biết việc ăn cỏ, biết đi làm mà thôi... Bao giờ cũng thế, suốt năm suốt đời như thế.” Rồi đến một ngày Mị bừng tỉnh, muốn đi chơi. Mị quấn lại tóc, Mị với tay lấy cái váy hoa vắt ở phía trong vách. A Sử nhìn thấy, nắm Mị, lấy thắt lưng trói hai tay Mị. Nó xách cả một thúng sợi đay ra trói đứng Mị vào cột nhà. Mị đau đớn, nồng nàn tha thiết nhớ những ngày đã qua. Còn A Phủ, anh bị đẩy vào bước đường ở nợ, “đốt rừng, cày nương cuốc nương, săn bò tót, bẫy hổ, chăn bò, chăn ngựa, quanh năm một thân một mình bôn ba rong ruổi ngoài gò ngoài rừng. Để rồi khi anh để hổ bắt mất một con bò, Thống lí Pá Tra bắt trói anh vào một cây cột trong góc nhà bằng dây mây quấn từ chân đến vai. Những việc làm tàn bạo ấy không chỉ hành hạ về mặt thể xác, nó còn bào mòn tinh thần con người, mỗi ngày, mỗi ngày.

Tô Hoài còn thể hiện giá trị nhân đạo ở chỗ, ông thương cảm những số phận bất hạnh như Mị và A Phủ. Nỗi niềm thương xót của ông không được nói ra thành lời, mà được thể hiện thông qua những tiếng nức nở của các nhân vật. Mị được miêu tả lúc nào “cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi.”, cả cuộc đời cô dường như chỉ quanh quẩn lên núi hái thuốc phiện, giặt đay, xe đay, đi nương bẻ bắp và dù lúc đi hái củi, lúc bung ngô, lúc nào cũng gài một bó đay trong cánh tay để tước thành sợi. Khi Mị bị A Sử trói vào cột, dòng ý thức của Mị trôi qua như những dòng nước mắt. “Đời người đàn bà lấy chồng nhà giàu Hồng Ngài thì một đời con người chỉ biết đi theo đuôi con ngựa của chồng.” Mị sợ, Mị cựa quậy, xem mình còn sống còn sống hay chết. Sợ chết là vẫn còn muốn sống, ý thức khát khao ấy như ánh sáng nhỏ nhoi khiến độc giả phải xúc động cho một số phận đau khổ. Ở A Phủ, đó là nỗi thương cảm dành cho chàng trai đã khổ từ lúc nhỏ. Ngày nhỏ, “có người làng đói bụng bắt A Phủ đem xuống bán đổi lấy thóc của người Thái dưới cánh đồng”. Khi lưu lạc đến Hồng Ngài, A Phủ cũng thông thể lấy nổi vợ, chỉ vì anh không có bố mẹ, không có ruộng, không có bạc. Vận đen vẫn đi theo A Phủ, để rồi anh bị bắt nộp vạ một trăm bạc trắng, phải đi ở trừ nợ cho nhà quan thống lí Pá Tra. Tấm lòng nhân đạo của nhà văn sẽ ôm lấy Mị và A Phủ, đưa những con người lương thiện thoát ra khỏi phận đời đau khổ.

Cuối cùng, tác giả thể hiện niềm trân trọng và đồng tình với khát vọng được tự do, được hạnh phúc của Mị và A Phủ. Niềm trân trọng ấy được thể hiện trước tiên ở ý thức phản kháng và sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị. sức sống ấy của Mị trỗi dậy vào đêm tình mùa xuân. “Hồng Ngài năm ấy ăn tết giữa lúc cỏ gianh vàng ửng, gió và rét rất dữ dội... Trong các làng Mèo đỏ, những chiếc váy hoa đã đem ra phơi trên mỏm đá xòe như con bướm, sặc sỡ... tiếng trẻ con nô đùa...” Mùa xuân ấy rộn rã âm thanh và màu sắc, là dấu hiệu cho sự bừng tỉnh của Mị trong đêm tình mùa xuân. Đầu tiên, sức sống ấy được hồi sinh khi Mị nghe thấy tiếng sáo: “Ngoài đầu núi lấp ló đã có tiếng ai thổi sáo rủ bạn đi chơi...” Tiếng sáo ấy chạm vào tâm hồn của Mị, khiến Mị nhớ lại những ngày xuân thật đẹp của quá khứ. “Mị nghe tiếng sáo vọng lại thiết tha bổi hổi”. Tiếng sáo ấy khiến Mị lén lấy hũ rượu. “Cứ uống ực từng bát. Rồi say. Mị lịm mặt ngồi đấy nhìn những người nhảy đồng, người hát, nhưng lòng Mị thì đang sống về ngày trước.” Niềm vui ấy khiến Mị ý thức được rằng “Mị trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi.” Sức sống mãnh liệt còn thể hiện mạnh mẽ hơn khi Mị đi đến quyết định: Bỏ nhà đi theo cuộc chơi. Mị làm đẹp cho bản thân mà không để ý đến thái độ của A Sử, Mị hành động thản nhiên, nhưng đau đớn thay, sự độc ác tàn nhẫn của giai cấp thống trị đã dập tắt đi cái khát vọng sự trỗi dậy đó của Mị. Sức sống tiềm tàng của Mị lại bùng lên lần nữa trong đêm cởi trói cho A Phủ. Khi Mị nhìn thấy “hai mắt A Phủ cũng vừa mở, một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại”. Mị bỗng nhớ lại đêm năm trước A Sử trói Mị, Mị cũng phải trói đứng thế kia. Mị đau đớn cho đời mình, và Mị cắt dây trói cho A Phủ. Rồi Mị bừng tỉnh, vụt chạy ra. Rồi hai người lẳng lặng đỡ nhau lao chạy xuống dốc núi. Bước chân của A Phủ và Mị là bước chân phản kháng, là bước chân tìm đến hạnh phúc, vùng thoát khỏi bóng tối, đi đến một cuộc đời khác. Và bước chân ấy in đậm giá trị nhân đạo của Tô Hoài trong tác phẩm. Đó là bước chân đồng tình cho khát vọng được kiếm tìm hạnh phúc.

Bên cạnh giá trị nhân đạo sâu sắc, tác phẩm còn mang đậm giá trị nghệ thuật. Tác phẩm khắc họa chân thực những nét riêng biệt về phong tục, tập quán, tính cách và tâm hồn con người dân tộc bằng một giọng văn nhẹ nhàng, tinh tế, đượm màu sắc và phong vị dân tộc, vừa giàu tính tạo hình vừa giàu chất thơ.

Có thể nói, tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” là một tác phẩm mang giá trị nhân đạo sâu sắc. Tác phẩm đã lên tiếng tố cáo những thế lực xấu xa, đồng thời thể hiện tiếng nói thông cảm, trân trọng và đồng tình dành cho khát vọng tự do, sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị và A Phủ.

Đề bài: Những đặc sắc về nghệ thuật trong truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” (Tô Hoài).

Bài tham khảo

Tô Hoài là một trong những nhà văn lớn của nền văn học Việt Nam hiện đại. Ông luôn hấp dẫn người đọc bởi những nét độc đáo trong việc quan sát và diễn tả về những số phận con người miền núi. Tiêu biểu là truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” - tác phẩm không chỉ xuất sắc về mặt nội dung mà còn vô cùng thành công về mặt nghệ thuật. Những đặc sắc về nghệ thuật trong truyện là yếu tố quan trọng góp phần đưa “Vợ chồng A Phủ” trở thành một truyện ngắn tiêu biểu cho nền văn học thời kì này.

Nghệ thuật là hình thức của tác phẩm, là những thứ giúp cho chúng ta cảm nhận được nội dung ý nghĩa bên trong. Đặc sắc nghệ thuật của tác phẩm trước hết được thể hiện ở nghệ thuật xây dựng tình huống truyện đặc sắc. Câu chuyện mở đầu bằng hình ảnh của Mị, về quá khứ, những gì mà Mị đã trải qua. Khi Mị dần trở nên tuyệt vọng, A Phủ bỗng xuất hiện như một người cùng khổ. Hai số phận tưởng như song song mà nay lại giao nhau, bởi những khổ đau họ đã trải qua, bởi sức sống tiềm tàng ẩn giấu bên trong tâm hồn của họ. Họ cùng chạy đi, cùng hướng đến ánh sáng nơi cuối con đường. Thông qua việc xây dựng tình huống truyện mới lạ, tác phẩm đã phơi bày những sự tàn bạo, bất nhân của giai cấp thống trị miền núi. Ngoài ra, tác phẩm còn thể hiện được khát vọng sống, sống một cách đúng nghĩa, sống như một con người của những người lương thiện như Mị và A Phủ.

Đặc sắc nghệ thuật của tác phẩm còn thể hiện ở việc khắc họa hình tượng nhân vật, đặc biệt là ở phương diện miêu tả tâm lí. Cả hai nhân vật Mị và A Phủ đều thể hiện những nét tính cách của người dân lao động miền núi. Mị được miêu tả với sự lặng lẽ, âm thầm, nhẫn nhục nhưng ẩn trong đó là sức sống tiềm tàng, khao khát được tự do và hạnh phúc. A Phủ thì lại gan góc, chất phác,... Để miêu tả hai nhân vật này, tác giả đã chọn những điểm nhìn khác nhau, từ đó hình thành nên những tính cách khác nhau. Ở Mị, tác giả nhấn mạnh vào những khoảnh khắc Mị suy tưởng, Mị nghĩ đến quá khứ, hiện tại, tương lai. “Cứ uống ực từng bát. Rồi say. Mị lịm mặt ngồi đấy nhìn những người nhảy đồng, người hát, nhưng lòng Mị thì đang sống về ngày trước.” Niềm vui ấy khiến Mị ý thức được rằng “Mị trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi.” Điều đó thể hiện được khát khao tự do của cô, khát khao tự do giữa hiện thực đau đớn. Để rồi cô tủi thân, khi nhớ lại rằng mình đang có một cuộc sống bất hạnh: “A Sử với Mị không có lòng với nhau mà vẫn phải ở với nhau.” Mị chợt muốn chết, mà muốn chết tức là cô đã nhận ra trong tư tưởng của mình có sự phản kháng, cô không còn muốn sống kiếp sống này nữa. Những suy ngẫm của Mị giúp chúng ta nhận ra một tâm hồn đẹp đẽ đang chết dần chết mòn, một sức sống mãnh liệt đang trỗi dậy mạnh mẽ. Còn ở A Phủ, tác giả nhấn mạnh vào hành động, để thấy được những vẻ đẹp của một người con trai vùng cao. A Phủ là một người yêu chính nghĩa. Bất bình trước sự lộng quyền của A Sử, dẫu biết đó là con quan, A Phủ vẫn “chạy vụt ra, vung tay ném con quay vào mặt A Phủ”, “xộc tới, nắm cái vòng cổ, kẹp dập đầu xuống, xé vai áo đánh tới tấp”. Đó là sự phẫn nộ trước những cảnh bất công, phi lí cho cuộc đời, cho thấy được sự gan góc của A Phủ.Ngoài ra, có một chi tiết cho thấy được niềm khát khao được sống của anh, đó là vào lúc Mị cắt dây trói cho anh. Sau nhiều đêm bị trói, bị hành hạ, A Phủ đã quỵ xuống. Nhưng tình yêu cuộc sống đã khiến anh vùng dậy và chạy đi. Những bước chạy của anh là bước chạy của sự đấu tranh, của sự phấn đấu vươn đến tự do, giải phóng chính mình.

Một trong những thành công về nghệ thuật của tác phẩm, còn là việc tái hiện lối sống động vẻ đẹp của bức tranh thiên nhiên và phong tục, tập quán của người dân miền núi Tây Bắc. Toàn bộ khung cảnh núi rừng Tây Bắc dưới ngòi bút của nhà văn trở nên tươi đẹp, hiền hòa. Con người hòa vào thiên nhiên trong những hội xuân tưng bừng. Thiên nhiên đi vào cuộc sống, tràn ngập trong từng bước chân, từng tiếng hát. “Trên đầu núi, các nương ngô, nương lúa gặt xong, ngô lúa đã xếp yên đầy các nhà kho. Trẻ con đi hái bí đỏ, tinh nghịch, đã đốt những lều canh nương để sưởi lửa. Ở Hồng Ngài người ta thành lệ cứ ăn Tết khi gặt hái vừa xong, không kể ngày, tháng nào. Ăn Tết như thế cho kịp lúc mưa xuân xuống thì đi vỡ nương mới. Hồng Ngài năm ấy ăn Tết giữa lúc gió thổi và cỏ gianh vàng ửng, gió và rét rất dữ dội.” Điều đó là nhờ cách kể chuyện giàu chất thơ và chất tạo hình của tác giả. Khung cảnh núi rừng hiện ra đầy thơ mộng, dịu dàng.

Nét đẹp phong tục văn hóa của người dân tộc vùng cao cũng được tập trung khắc họa đậm nét. Con người khát khao được sống, được yêu, được ca hát giữa núi rừng và ánh trăng, “Đến Tết năm ấy, Tết thì vui chơi, trai gái đánh pao, đánh quay rồi đêm đêm rủ nhau đi chơi. Những nhà có con gái thì bố mẹ không thể ngủ được vì tiếng chó sủa. Suốt đêm, con trai đến nhà người mình yêu, đứng thổi sáo xung quanh vách”, đó còn là “Những chiếc váy hoa đã đem ra phơi trên mỏm đá xòe như con bướm sặc sỡ. Đám trẻ đợi Tết, chơi quay, cười ầm trên sân chơi trước nhà. Ngoài đầu núi lấp ló đã có tiếng ai thổi sáo rủ bạn đi chơi.”

Có thể nói, tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” là một tác phẩm có giá trị nghệ thuật đặc sắc. Đó là nghệ thuật xây dựng hình tượng nhân vật, nghệ thuật tạo tình huống truyện, miêu tả sinh hoạt, phong tục và tâm lí nhân vật. Từ giá trị nghệ thuật ấy, chúng ta có thể hiểu hơn về giá trị nhân đạo sâu sắc được gửi gắm trong tác phẩm: sự lên án tội ác của bọn thống trị và khẳng định sức sống ngoan cường, khát vọng tự do tiềm tàng ở người dân lao động vùng cao Tây Bắc. Nhờ những giá trị ấy, mà tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” vẫn luôn có sức sống bền bỉ trong tâm hồn những người yêu văn chương .

Giá trị nội dung và nghệ thuật trong

1. Giá trị nội dung

Giá trị hiện thực

- Chế độ thực dân phong kiến với những hủ tục lạc hậu và cường quyền có sức mạnh tuyệt đối chi phối cuộc đời, số phận của con người nơi này

- Số phận khổ đau, bất hạnh của những người lao động nghèo khổ như Mị, như A Phủ được xây dựng, khắc họa rõ nét

  •  Giá trị nhân đạo

- Tố cáo xã hội thực dân phong kiến đã đẩy người dân vào bước đường cùng.

- Cảm thông, đau xót của Tô Hoài khi chứng kiến khát vọng, nhân quyền của con người bị chà đạp. 

- Ca ngợi sức sống tiềm tàng, mãnh liệt của con người ngay cả trong hoàn cảnh khắc nghiệt nhất. 

- Con đường giải thoát cho nhân vật mà Tô Hoài đưa ra trong tác phẩm chính là đi theo cách mạng mà trong đoạn kết của câu chuyện

 Giá trị nghệ thuật

- Nghệ thuật xây dựng nhân vật : Khắc họa nhân vật sinh động, có cá tính rõ nét thể hiện bằng bút pháp thích hợp.

- Ngòi bút tả cảnh đặc sắc mang đậm màu sắc, dấu ấn của vùng núi Tây Bắc

- Nghệ thuật trần thuật rất thành công với giọng kể trầm lắng dầy cảm thông, yêu mến

- Ngôn ngữ sinh động được chọn lọc, sáng tạo giàu tính tạo hình vừa giàu chất thơ

IV. Sạn bài cực ngắn: Vợ chồng A phủ

Bài tập 1: Hình ảnh Mị 

1. Là cô gái Mèo hoàn thiện, tràn căng hồi hộp sung sưởng chờ nghe âm thanh tiếng sáo quen thuộc của người yêu. Bố Mị  vay tiền của Pá Tra. Mị  đã trở thành vật thế gán nợ.

2. Những ngày đầu là mấy tháng ròng, đêm nào Mị  cũng khóc và định tự tử. Vì thương cha, Mị đành tiếp tục sống. 

3. Sống  trong nhà thống lí Pá Tra  là chuỗi ngày địa ngục

4. Hành hạ trực tiếp của cha con thống lí trên thân xác

5. Đau khổ tinh thần mới là thật sự là nỗi đau tê tái, nó biến Mị  thực sự trở thành “con vật”mang tên người. Mất tình yêu đầu là nỗi đau tinh thần quá khứ, nhưng đau hơn, xót hơn là Mị không được phép nghĩ về nó.

6. Bị cấm đoán trong việc hoà nhập cộng đồng.

7. Trong không gian oi ngạt ấy, thời gian như ngưng đọng, Mị không còn sống nữa mà chỉ còn là một sinh thể tồn tại chậm chạp bước về cõi chết. 

Diễn biến tâm trạng và hành động: Là cô gái có sức sống mãnh liệt. Ngọn lửa ấy bùng cháy trong đêm tình mùa xuân. Và cuối cùng Mị quyết định đi chơi.  Sau cuộc nổi loạn trong đêm tình mùa xuân. Thế nhưng vì lòng thương người, Mị cứu A Phủ và vì sợ chết Mị chạy theo A Phủ và giải thoát cho mình 

Bài tập 2: Tính cách nhân vật A Phủ :

1. Cuộc đối đầu với A Sử

=> tự do, hồn nhiên chất phác, bảo vệ lẽ phải, mạnh mẽ, gan góc, một khát vọng tự do được bộc lộ quyết liệt, chất phác.

2. Cuộc xử kiện

=>gan góc quỳ chịu đòn.

3. Khi về nhà thống lí Pá Tra làm công gạt nợ

=> chăm chỉ, trung thực. 

=>Tác giả dành cho Mị những trang văn buồn thương, đau xót; còn với A Phủ,  những lời văn mạnh mẽ, rắn rỏi.

Bài tập 3: Nghệ thuật miêu tảl Chi tiết, hình ảnh thấm đượm chất thơ.  Kể chuyện tự nhiên, sinh động, hấp dẫn. Ngôn ngữ tinh tế mang đậm màu sắc miền núi. 

Luyện tập: Giá trị nhân đạo: Xót thương cho Mị cô gái xứng đáng có được hạnh phúc, thấy được sự bạo ngược của bọn thống trị, chà đạp số phận con người, Đối xử tàn bạo của cha con nhà thống lí với Mị và A Phủ chẳng khác gì con vật biết nói.  => Cảm thông sâu sắc nỗi đau của con người, nâng niu nét đẹp tâm hồn và hơn cả là sự giải phóng số phận của con người. 

 Đề bài: Phân tích tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” của nhà văn Tô Hoài

Bài tham khảo

    “Vợ chồng A phủ” là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của nhà văn Tô Hoài. Truyện ngắn là kết quả của 8 tháng tham gia chiến dịch Tây Bắc, sống và gắn bó nghĩa tình với đồng bào dân tộc của nhà văn. Có thể nói, “Vợ chồng A Phủ” là bức tranh chân thực về cuộc sống sinh hoạt của người dân lao động vùng núi cao dưới ách thống trị tàn bạo của bọn thực dân phong kiến miền núi.

    Về nội dung, “Vợ chông A Phủ” chính là lời tố cáo đanh thép chế độ thực dân nửa phong kiến. Truyện đã phản ánh chân thực mâu thuẫn giai cấp căng thẳng và cuộc sống tăm tối của nhân dân lao động nghèo ở miền núi Tây Bắc.

Tác phẩm mở đầu bằng lời kể về hoàn cảnh nhân vật Mị: “Ai ở xa về, có dịp vào nhà thống lí Pá Tra thường trông thấy có một cô gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tầu ngựa . Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi”. Vẻ âm thầm, buồn bã cùng công việc vất vả của Mị hoàn toàn đối lập với sự giàu sang, tấp nập của gia đình nhà thống lý. Bằng cách mở đầu đầy nghịch lí như vậy, Tô Hoài gợi được sự tò mò nơi độc giả đồng thời cũng hé mở số phận đau khổ của Mị trong nhà chồng.

Trước khi về làm dâu nhà thống lí Pá Tra, Mị là một cô gái H'mông xinh đẹp, tài hoa, hiếu thảo. Tiếng sáo của Mị khiến trai bản “đứng nhẵn cả chân vách buồng”. Nhưng, chỉ vì nghèo, không trả nổi tiền cho nhà thống lí nên Mị đã bị bắt về làm dâu gạt nợ. Từ đây, bao nhiêu hi vọng về hạnh phúc, về tương lai của cô như vụt tắt. Là con nợ, trả nợ xong là thôi nhưng đằng này Mị còn là một cô con dâu. Một cổ 2 gông, tất cả đã đẩy cuộc đời Mị vào vòng tuần hoàn của khổ đau.

Khi mới bị bắt, đêm nào Mị cũng khóc, có lần cô trốn về nhà định ăn lá ngón tự tử. Qua nhưng chi tiết này, ta thấy được tinh thần phản kháng quyết liệt, không chấp nhận số phận của Mị. Quyết định tìm đến cái chết của cô không phải là biểu hiện của sự đầu hàng, buông xuôi. Đó là tiếng nói phản kháng đầy mạnh mẽ của một con người luôn khát khao tự do, khát khao hạnh phúc. Đối với Mị, làm dâu nhà thống lí Pá Tra còn đáng sợ hơn cái chết, bởi vì ở đó, cô không được đối xử như một con người, không được lên tiếng quyết định cuộc đời mình, không có tự do cũng như hạnh phúc. Nhưng vì cha, Mị lại chấp nhận tiếp tục sống và chịu đựng: “Ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi. Bây giờ thì Mị tưởng mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa...”. Từ một người con gái đầy sức sống, Mị giờ đây “lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”. Hình ảnh căn buồng Mị nằm với chiếc “cửa sổ một lỗ vuông bằng bàn tay. Lúc nào trông ra cũng chỉ thấy trăng trắng, không biết là sương hay là nắng” như một nhà giam không những giam hãm thân xác mà còn vây khốn tâm hồn Mị. Đó cũng là hiện thực đầy tàn khốc của những người dân nghèo dưới ách thống trị của bọn địa chủ phong kiến. Họ không chỉ bị tước đoạt tự do thân thể, mà tinh thần họ cũng vướng phải gông xiềng của lề thói, hủ tục. 

Giữa bức tranh tăm tối ấy, đêm tình mùa xuân cùng tiếng sáo gọi bạn réo rắt như thổi một làn gió mới làm bùng lên ngọn lửa yêu thương, khát vọng sống tiềm tàng ngỡ đã vụt tắt. Tiếng sáo được Tô Hoài miêu tả nhiều lần với nhiều tầng bậc khác nhau: “Ngoài đầu núi…thổi”, “Tai Mị… gọi bạn”, “Trong đầu… sáo”, “Tiếng sáo… chơi”. Tiếng sáo gợi nhớ về kỉ niệm, tiếng sáo thôi thúc Mị tìm đến niềm hạnh phúc yêu thương. Thế nhưng, A Sử xuất hiện và giết chết khát vọng sống trong Mị, hắn “lấy thắt lưng trói hai tay Mị. Nó xách cả thúng sợi đay ra trói đứng Mị vào cột nhà. Tóc Mị xoã xuống. A Sử quấn luôn tóc lên cột, làm cho Mị không cúi, không nghiêng được đầu nữa”. Sự lạnh lùng, tàn ác của A Sử đối với Mị không phải là một trường hợp cá biệt, trước đó, có người đàn bà cũng đã bị trói đến chết trong nhà này. Đến đây, bức tranh về tội ác dã man của bọn địa chủ phong kiến được hiện lên rõ nét. Đối với chúng, mạng sống con người chẳng khác gì con trâu, con ngựa. 

Bên cạnh hình tượng nhân vật Mị là A Phủ, một thanh niên mồ côi cha mẹ từ nhỏ, lao động giỏi “chạy nhanh như ngựa, con gái trong làng nhiều người mê”. Vì đánh con quan, A Phủ bị phạt vạ và từ đó trở thành nô lệ cho nhà thống lí. Có thể thấy, dù là một chàng trai gan góc, mạnh mẽ, nhưng cuối cùng, A Phủ cũng như Mị, không thể thoát khỏi bàn tay tội ác của bọn địa chủ phong kiến, ở đây đại diện là nhà thống lí Pá Tra.

Ở trong nhà thống lí Pá Tra, sinh mạng người dân nghèo không bằng cả súc vật. Chỉ vì làm mất bò, A Phủ bị trói đứng giữa trời đông lạnh lẽo. Và giọt nước mắt của anh là giọt nước mắt của sự đắng cay, sự cô độc, bất lực và tuyệt vọng.

Đây là chi tiết vô cùng đắt giá. Giọt nước mắt ấy thể hiện tâm trạng tuyệt vọng của A Phủ đồng thời nó cũng làm dậy lên niềm đồng cảm, xót thương và sức sống ngỡ đã chai sạn trong Mị. Tình cảnh của A Phủ làm Mị nhớ lại đêm mùa xuân mà cô bị A Sử trói nơi cột nhà. Cô chợt cảm thấy xót thương cho chàng trai tội nghiệp kia, xót thương cho tình cảnh của chính mình. Dòng nước mắt của A phủ như thổi bùng khát vọng sống trong Mị mà lâu nay bị lớp tro tàn phong kiến phủ kín. Hành động Mị cắt dây trói cứu thoát A Phủ và chạy khỏi nhà thống lí Pá Tra là sự trỗi dậy của sức sống tiềm tàng, khao khát tự do hạnh phúc của con người bị áp bức

Có thể nói, bằng tài năng tuyệt vời của mình, Tô Hoài đã xây dựng nên những hình tượng nhân vật vô cùng chân thực và sống động. Nếu Mị là hình tượng tiêu biểu cho phụ nữ miền núi nước ta trong thời kì trước Cách mạng đến những năm kháng chiến chống Pháp thì A Phủ mang nét đẹp tiêu biểu cho những thanh niên dân tộc miền núi Tây Bắc: thật thà, chất phát, khoẻ mạnh tuy bị đẩy vào số phận khổ đau nhưng không nguôi khát vọng tự do. Bên cạnh bức tranh hiện thực về tội ác của giai cấp thống trị cùng cuộc sống tăm tối của nhân dân, tác phẩm còn là một bài ca về tình người, bài ca về khát vọng sống, khát vọng tự do. Hành động cắt đứt dây trói, bước chân gấp gáp chạy khỏi nhà thống lí và đứng dưới là cờ Cách mạng của Mị và A Phủ chính là sự vùng lên tất yếu của những con người không đầu hàng số phận. Tác giả bày tỏ sự đồng cảm, xót thương nhưng cũng đầy tự hào, ngợi ca khi viết về họ và cuộc đời của họ. Đó cũng chính là giá trị nhân đạo sâu sắc của tác phẩm này,

    Về nghệ thuật, tác phẩm cho thấy tài năng trong việc dẫn chuyện và miêu tả tâm lí nhân vật của Tô Hoài. Đặc biêt, dưới ngòi bút miêu tả bậc thầy, Tô Hoài cũng đã phát họa cho người đọc một cuộc xử kiện sống động và giàu sức tố cáo, từ đó vạch trần sự áp bức dã man của bọn thống trị miền núi. Qua giọng kể khi thì khách quan, khi thì nhập vào nhân vật, cùng ngôn ngữ sinh động, chọn lọc, có sáng tạo, bức tranh về thiên nhiên và cuộc sống sinh hoạt của người dân Tây Bắc đã được hiện lên vô cùng chân thật và xúc động. 

  Tóm lại, có thể khẳng định, “Vợ chồng A Phủ” là một trong những tác phẩm mẫu mực nhất khi viết về thiên nhiên và con người miền núi. Qua “Vợ chồng A Phủ”, Tô Hoài đã khẳng định tên tuổi của mình trong văn đàn đồng thời ghi dấu ấn sâu đậm trong lòng người đọc bao thế hệ. 

Đề bài: Anh chị hãy phân tích diễn biến tâm trạng của Mị trong đêm cởi trói cho A Phủ.

Bài tham khảo

Tô Hoài là nhà văn có sức sáng tạo bậc nhất trong nền văn học Việt Nam hiện đại với gần 200 đầu sách thuộc nhiều thể loại khác nhau như truyện ngắn, tiểu thuyết, kí, tự truyện… và “Vợ chồng A Phủ” được xem là truyện ngắn đặc sắc nhất trích từ tập Truyện Tây Bắc. “Vợ chồng A Phủ” đã khắc họa thành công bức tranh hiện thực của người dân miền núi dưới ách thống trị của bọn thực dân nửa phong kiến. Đồng thời, tác giả cũng thể hiện giá trị nhân đạo sâu sắc khi mở đường giải thoát cho thân phận hai kẻ nô lệ bất đắc dĩ – Mị và A Phủ. Trong đó, diễn biến tâm trạng của Mị trong đêm cởi trói cho A Phủ đã để lại cho người đọc những ấn tượng sâu đậm nhất.

Trước tiên, chúng ta cần khái quát lại nội dung của truyện. “Vợ chồng A Phủ” xoay quanh cuộc đời của hai nhân vật chính – Mị và A Phủ. Đó là hai con người trẻ trung, giàu sức sống, yêu đời và tài năng nhưng chẳng may lại trở thành nô lệ, mang lấy kiếp trâu ngựa, bị áp bức bởi bọn thực dân phong kiến mà điển hình ở đây là gia đình thống lý Pá Tra. Mị trước khi làm dâu là cô gái xinh đẹp, những ngày Tết “trai đến đứng nhẵn cả chân vách đầu buồng Mị”, hiếu thảo “Con nay đã biết cuốc nương làm ngô, con phải làm nương ngô giả nợ thay cho bố. Bố đừng bán con cho nhà giàu”, tài năng “Ngày trước, Mị thổi sáo giỏi”. Còn A Phủ tuy chịu mất mát từ nhỏ “Anh của A Phủ, em A Phủ chết, bố mẹ A Phủ cũng chết. Còn sót lại một mình A Phủ” nhưng lại có bản lĩnh hơn người “không chịu ở dưới cánh đồng thấp”. Bên cạnh đó, A Phủ còn là chàng trai khỏe mạnh, tài giỏi “đã biết đúc lưỡi cày, biết đục cuốc, lại cày giỏi và săn bò tót rất bạo”, “A Phủ khỏe, chạy nhanh như ngựa, con gái trong làng nhiều người mê”…. Mị vì món nợ gia đình mà trở thành con dâu gạt nợ. A Phủ vì tội đánh A Sử mà trở thành nô lệ. Hai con người lương thiện phải chôn vùi cuộc đời tươi trẻ của mình dưới gầm trời nhà thống lý. Trong đêm tình mùa xuân, Mị đã tỉnh lại quá khứ tươi đẹp khi xưa nhờ men rượu và tiếng sáo. A Phủ vì để mất một con bò mà bị bắt trói đứng nhiều đêm liền. Trước tình cảnh đó, ban đầu Mị dửng dưng, vô cảm. Dần dần, lòng thương người trỗi dậy, Mị quyết định cắt dây cởi trói cho A Phủ. Có thể thấy, diễn biến tâm trạng của nhân vật Mị đã được Tô Hoài miêu tả một cách sinh động, tài hoa.

Trước đêm cởi trói cho A Phủ, Mị là cô gái vô cảm. Như chúng ta đã biết, sau khi về làm dâu gạt nợ, thực chất là con ở không công nhà thống lý, Mị bị đày đoạt về thể xác và tước đoạt về linh hồn. Tô Hoài đã nhiều lần so sánh hình ảnh Mị với loài vật không hơn không kém “Bây giờ Mị tưởng mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa, là con ngựa phải đổi ở cái tàu ngựa nhà này đến ở cái tàu ngựa nhà khác, ngựa chỉ biết việc ăn cỏ, biết đi làm mà thôi”, “Con ngựa, con trâu làm còn có lúc, đêm nó còn được đứng gãi chân, đứng nhai cỏ, đàn bà con gái nhà này thì vùi vào việc làm cả đêm lẫn ngày”, “Mỗi ngày Mị càng không nói, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”… Sự chai lì cảm xúc đã in hằng lên gương mặt xinh tươi ngày trước đến mức Mị chẳng còn màng đến cái chết nữa bởi “Ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi”. Phải chi Mị còn muốn tự tử, phải chi Mị còn đau đớn bởi sự bất công, đày đọa của cuộc đời này thì ít ra, ta còn thấy Mị còn sót lại chút lí tưởng sống. Đằng này, Mị gần như từ bỏ, gần như buông xuôi, gần như chấp nhận sự phi lí, bất nhân của cuộc đời như một lẽ thường hằng. Đến đêm tình mùa xuân đến, sức sống tiềm tàng trong Mị trỗi dậy nhưng lại nhanh chóng bị dập tắt bởi sự bạo tàn của A Sử “A Sử bước lại, nắm Mị, lấy thắt lưng trói hai tay Mị”. Bị trói đứng cả đêm nhưng Mị vẫn nghe hơi rượu, nghe tiếng sáo, vẫn giật mình cựa quậy khi nhớ câu chuyện rùng rợn ngày trước “ở nhà thống lý Pá Tra có một người trói vợ trong nhà rồi đi chơi, khi về nhìn đến thì vợ chết rồi”. Ý thức về sự sống trỗi dậy nhưng có vẻ còn quá yếu ớt để đòi hỏi một sự giải thoát, một cuộc cách mạng.

Gặp A Phủ bị gia đình thống lý Pá Tra trừng phạt tàn nhẫn – trói đứng ngoài sân nhiều đêm liền nhưng Mị vẫn thản nhiên thổi lửa, hơ tay “nếu A Phủ là cái xác chết đứng đấy, cũng thế thôi”. Than ôi! Còn sự nhẫn tâm nào hơn! Mị từ cô gái vui vẻ, yêu đời nay trở thành kẻ lạnh lùng, vô cảm. Trước những người cùng cảnh ngộ, Mị chẳng còn đủ nước mắt để xót thương. Lúc ấy, chỉ còn Mị với ngọn lửa vô tri vô giác ngoài kia.

Trong lúc cởi trói cho A Phủ, tâm trạng Mị chuyển hóa từ vô cảm đến đồng cảm. Mị mơ hồ thấy tội, thấy thương cho A Phủ. Mị đặt ra nghi vấn cho kiếp nô lệ mà chàng trai bất hạnh kia phải gánh lấy. Mị nhớ đến đời mình như một điều tất yếu, một sự liên hệ giữa những người cùng gánh lấy cuộc đời bi kịch, cùng là những con người thấp cổ bé họng. Họ đã cam chịu bấy lâu nay, đã bị giày xéo thể xác lẫn linh hồn.

Chi tiết đánh dấu sự chuyển biến tâm lí của Mị là giọt nước mắt của A Phủ “Ngọn lửa bập bùng sáng, Mị lé mắt trông sang, thấy hai mắt A Phủ cũng vừa mở, một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại”. Lòng nhân đạo trong Mị bừng tỉnh, Mị nhận ra tội ác của kẻ thù, xót thương cho tình cảnh của người vô tội “Trời ơi, nó bắt trói đứng người ta cho đến chết, nó bắt mình cũng chết thôi”, “chúng nó thật độc ác”, “cơ chừng này chỉ đêm mai là người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết”, “người kia việc gì mà phải chết thế”…. Cô Mị vô cảm ngày trước giờ nhận ra sự phi lý trong kiếp đọa đày.

Từ đó, lòng thương người trong đã âm thầm mạnh mẽ lớn lên trong Mị, đưa Mị đến một quyết định táo bạo: cắt dây cởi trói cho A Phủ “Mị lấy con dao nhỏ cắt lúa, cắt nút dây mây”.

Sau khi cắt dây cởi trói cho A Phủ, Mị bắt đầu hiện thực hóa cuộc lội ngược dòng ý thức cá nhân. Sự sống và cái chết gần trong tấc gang, buộc Mị phải thực sự đối đầu với sự lựa chọn. Hoặc là trở thành cái xác thay thế cho A Phủ, hoặc là mạo hiểm làm một cuộc giải thoát “Mị đứng lặng trong bóng tối”. Cuối cùng, sức sống tiềm tàng và khao khát tự do đã chiến thắng “Rồi Mị cũng vụt chạy ra. Trời tối lắm. Nhưng Mị vẫn băng đi”. Bước chân của Mị bây giờ không có sự đàn áp nào của cường quyền, thần quyền ngăn cản nổi “Ở đây thì chết mất”. Qua hành động chạy theo A Phủ, Tô Hoài đã thể hiện giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo sâu sắc nhất, thể hiện tiếng nói cứu lấy con người từ trong tận cùng đày ải, đau thương “Người đàn bà chê chồng đó vừa cứu sống mình”.

Thông qua ba quá trình diễn biến tâm lí cơ bản: trước, trong và sau khi cắt dây cởi trói, Tô Hoài đã thể hiện được tài năng của bản thân thông qua ngòi bút khắc họa nhân vật. Từ ngoại hình đến tính cách, chân dung Mị và A Phủ hiện lên sinh động và mang đậm màu sắc của người dân lao động vùng cao Tây Bắc. Đồng thời, người đọc còn được thấy rõ sự phản kháng, tranh đấu, vượt thoát khỏi cuộc sống tăm tối để tìm đến tự do, hạnh phúc trong chặng đời về sau.

Tóm lại, diễn biến tâm trạng trong đêm cởi trói cho A Phủ mang tính chuyển biến mạnh mẽ, đánh dấu một cuộc lội ngược dòng táo bạo. Qua đó, ta thấy được con đường giải thoát, niềm tin và lí tưởng của các nhân vật trong tác phẩm của nhà văn Tô Hoài nói riêng và các nhà văn sau cách mạng nói chung.

Đề bài: Cảm nhận của anh chị về hành động Mị chạy theo A Phủ trong “Vợ chồng A Phủ” của Tô Hoài.

“Vợ chồng A Phủ” là tác phẩm được trích từ tập Truyện Tây Bắc của nhà văn Tô Hoài. Tập truyện đã được tặng giải Nhất, giải thưởng của Hội Văn nghệ Việt Nam 1945 – 1955. Trong đó, “Vợ chồng A Phủ” là một truyện ngắn hay viết về một sự đổi đời kì diệu. Xoay quanh hai nhân vật chính là Mị và A Phủ, Tô Hoài đã khắc họa hai chặng đường hoàn toàn đối lập. Chặng đường đầu tiên là những ngày ở Hồng Ngài, Mị và Phủ - hai con người xinh tươi, giỏi giang phải cam cảnh nô lệ ê chề. Chặng đường thứ hai là ở Phiềng Sa, Mị và A Phủ đã vùng lên từ bóng đêm của cường quyền, thần quyền để đến với ánh sáng của tự do. Sự kiện đánh dấu bước chuyển biến giữa hai chặng đường chính là hành động Mị cắt dây cởi trói và chạy theo A Phủ.

Hành động Mị chạy theo A Phủ trước nhất chính là hành động Mị chạy khỏi những áp bức, đày đọa của đời mình. Cuộc đời của Mị những ngày tháng ở Hồng Ngài gồm hai giai đoạn chính: trước khi làm dâu và sau khi làm dâu nhà thống lý Pá Tra. Trước khi bị bắt về cái gia đình đã giết chết tuổi xuân của mình, Mị là một cô gái trẻ trung, xinh đẹp, tài năng, yêu lao động lại hiếu thảo với cha mẹ. Mị cũng có tình yêu như bao người, cũng được bao kẻ say mê, theo đuổi “con trai đến đứng nhẵn cả vách đầu giường nhà Mị”. Tô Hoài đã miêu tả tài năng thổi sáo của Mị như sau “Mị thổi sáo giỏi, thổi lá cũng hay như thổi sáo. Có biết bao người say mê, ngày đêm thổi sáo đi theo Mị”. Đứng trước món nợ của bố, Mị nhận lấy trách nhiệm của người con, thà là vất vả lao động “Con nay đã biết cuốc nương làm ngô, con phải làm nương ngô giả nợ thay cho bố” còn hơn phải trở thành con dâu gạt nợ “Bố đừng bán con cho nhà giàu”. Thế nhưng số phận bi kịch đã không nhún nhường và buông tha cho Mị. Mị bị bắt và trở thành con dâu gạt nợ. Mị bị bắt đem cúng “trình ma” nhà thống lý. Từ đó, đoạn đời vui vẻ của Mị đặt một dấu chấm kết thúc để bắt đầu thân phận của con người lao động mịt mờ không lối thoát. Trước món nợ truyền kiếp và sự áp chế của thần quyền – Mị nghĩ rằng đã cúng “trình ma” thì mình chỉ còn biết làm thân trâu ngựa cho đến ngày chết rũ xương ở đấy mà thôi – Mị hoàn toàn tê liệt về thể xác lẫn tinh thần “Mỗi ngày Mị càng không nói, cứ lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”. Vì thế, mở đầu tác phẩm, tác giả đã vẽ nên hình ảnh bi thương cùng quẫn của kiếp người: “Ai ở xa về, có việc vào nhà thống lí Pá Tra thường trông thấy có một cô con gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa. Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước suối dưới khe lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi.” Cuộc đời A Phủ cũng như vậy, từ một, cũng là nạn nhân của cường quyền, thần quyền và chính sách cho vay nặng lãi của bọn chủ nô phong kiến miền núi. Trước khi trở thành con ở nhà thống lý, A Phủ tuy có xuất thân bất hành “không có bố mẹ, không có ruộng, không có bạc” nhưng vẫn là chàng trai yêu đời và có nhiều phẩm chất tốt đẹp. A Phủ là chàng trai tự do của núi rừng, yêu lao động, tự do, giỏi giang “biết đúc lưỡi cày, biết đục cuốc, lại cày giỏi và săn bò tót rất bạo”. A Phủ còn là niềm khát khao của bao cô gái trong làng “Lấy được A Phủ là bằng được con trâu tốt trong nhà”. Vì tội đánh con quan – A Sử mà A Phủ từ đứa con của núi rừng trở thành kẻ nô lệ với bản án chung thân “đời mày, đời con mày, đời cháu mày tao cũng bắt thế, bao giờ trả hết nợ mới thôi”. Hai con người tươi trẻ giờ trở thành hai kẻ cùng khổ, số phận họ bị quyết định bởi bàn tay tàn bạo của thống lý Pá Tra.

Những ngày tháng làm nô lệ ở nơi địa ngục trần gian của một Mị tưởng chừng không lối thoát nhưng cuối cùng, chính sức sống tiềm tàng bên trong đã khiến Mị hành động. Qúa khứ thì tươi đẹp. Hiện tại thì nhục nhã ê chề. Còn tương lai sẽ ra sao? Đêm tình mùa xuân đã khe khẽ nhen nhóm nhận thức bên trong Mị để đến đêm mùa đông, Mị quyết định cắt dây cởi trói của A Phủ. Chỉ vì để con hổ ăn mất bò mà chàng phải chịu cảnh trói đứng, gần như phải dùng mạng sống của mình thay thế. A Phủ bị bắt trói đứng ngoài sân nhiều đêm nhiều.  Một cuộc vượt ngục âm thầm diễn ra, hai con người nô lệ giờ dìu dắt nhau để thoát khỏi cảnh tù đày. Hành động cắt dây thể hiện sự can đảm tuyệt đối. Mị trân trọng giá trị con người, mạng sống con người. Lòng thương người tỉnh thức là cơ sở để Mị phát triển thành lòng thương mình, xót thương cho số phận đau thương mà bấy lâu nay nàng âm thầm chấp nhận. Mị sẽ chẳng còn phải chịu cảnh “thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa” hay bị A Sử “xách cả một thúng sợi đay ra trói đứng Mị vào cột nhà nữa”… Mị cũng sẽ chẳng còn phải vay mượn men rượu, vay mượn tiếng sáo để sống lại những ngày tự do trước nữa bởi phía trước nàng chính là cuộc đời mới, là con đường mới.

Bên cạnh đó, hành động Mị chạy theo A Phủ còn là hành động Mị hiện thực hóa khát vọng tự do, đến với ánh sáng cách mạng. Có thể nói đây là giá trị nhân đạo mới mẻ trong ngòi bút Tô Hoài nói riêng và ngòi bút các nhà văn sau cách mạng nói chung. Lí tưởng thời đại đã thay đổi, con người đã tìm ra lối thoát tinh thần của mình. Nếu như trước cách mạng, các nhân vật thường rơi vào bế tắc, vào bi kịch thì sau cách mạng, họ đến được với sự giải phóng, với ánh sáng tự do. Ta thấy cái kết của nhân vật Chí Phèo hay chị Dậu hoàn toàn đối lập với cái kết của Mị, của A Phủ. Cắt dây cởi trói cho A Phủ, Mị đã từng nghĩ đến viễn cảnh phải thay thế mạng sống mình nhưng cuối cùng, vượt qua bóng ma thần quyền và sự áp chế của cường quyền, vượt qua nỗi sợ đã gặm nhấm thể xác và tinh thần, Mị đã chạy theo A Phủ. Bước chân của Mị là bước chân đạp đổ hiện thực “A Phủ cho tôi đi! Ở đây thì chết mất”. Cuối cùng, cô Mị sau bao năm vô cảm, lùi lũi, trơ trơ cũng đã đối diện với nỗi sợ của mình. Nàng đã hồi sinh trở lại từ sự chết dần chết mòn những ngày tháng qua. Nàng đã vùng lên đấu tranh, ngọn lửa sức sống âm thầm nhưng mạnh mẽ, kết tinh thành hành động táo bạo, dứt khoát. Chính dòng nước mắt bò xuống hai hõm má xám đen lại kia đã đen đến sự hồi sinh cho Mị - một sự hồi sinh kì diệu. Thế là từ đây, Mị kết thúc cuộc đời cuộc đời con dâu gạt nợ, A Phủ kết thúc kiếp nô lệ tôi đòi. Họ dìu dắt nhau từ bóng đêm lầm than, từ áp bức của cường quyền và thần quyền để đến vùng đất Phiềng Sa – vùng đất hứa hẹn niềm tin, tự do và hạnh phúc.

Hành động Mị chạy theo A Phủ đã khép lại những tháng ngày quẩn quanh, bế tắc của Mị và A Phủ ở Hồng Ngài. Tô Hoài bằng tài năng của mình đã xây dựng tác phẩm thành công trên nhiều phương diện: đề tài, kết cấu, nhân vật… Do đó, “Vợ chồng A Phủ” trở thành một tác phẩm tiêu biểu viết về sự trỗi dậy của thân phận con người, cụ thể ở đây là người dân vùng cao dưới ách thống trị của bọn thực dân nửa phong kiến.

Đề bài: Phân tích sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị được thể hiện trong cảnh ngộ khi bị bắt làm dâu gạt nợ trong nhà thống lí Pá Tra đến khi thoát khỏi Hồng Ngài.

Bài tham khảo

Tô Hoài là nhà văn luôn hấp dẫn người đọc bởi những nét độc đáo trong việc quan sát và diễn tả về những số phận con người miền núi. Đó là những người dân lao động vùng cao Tây Bắc không chịu sự đày đọa, giam hãm trong cuộc sống tăm tối; họ vùng lên phản kháng, đi tìm cuộc sống tự do. Sức sống tiềm tàng đó được thể hiện mạnh mẽ trong tác phẩm “Vợ chồng A Phủ”, thông qua nhân vật Mị, khi cô lâm vào cảnh ngộ bị bắt làm dâu gạt nợ trong nhà thống lí Pá Tra đến khi thoát khỏi Hồng Ngài.

Trước khi bị bắt về làm dâu nhà thống lí Pá Tra, Mị là một cô gái trẻ đẹp, yêu lao động, yêu tự do. Khi bị bắt về làm dâu nhà thống lí, Mị phải chịu một cuộc sống đầy tủi nhục, thống khổ. “Lúc nào cô cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi.” Bởi cô là cô dâu gạt nợ, nạn nhân của chính sách cho vay nặng lãi. Để rồi cô bị tước đoạt tuổi trẻ, tự do, bị đối xử như nô lệ. Mỗi ngày, Mị càng không nói, cứ lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa.

Dù cuộc sống thống khổ, nhưng Mị vẫn ẩn chứa một sức sống tiềm tàng, sức sống ấy của Mị trỗi dậy vào đêm tình mùa xuân.  “Hồng Ngài năm ấy ăn tết giữa lúc cỏ gianh vàng ửng, gió và rét rất dữ dội... Trong các làng Mèo đỏ, những chiếc váy hoa đã đem ra phơi trên mỏm đá xòe như con bướm, sặc sỡ... tiếng trẻ con nô đùa...” Mùa xuân ấy rộn rã âm thanh và màu sắc, là dấu hiệu cho sự bừng tỉnh của Mị trong đêm tình mùa xuân. Đầu tiên, sức sống ấy được hồi sinh khi Mị nghe thấy tiếng sáo: “Ngoài đầu núi lấp ló đã có tiếng ai thổi sáo rủ bạn đi chơi...” Tiếng sáo ấy chạm vào tâm hồn của Mị, khiến Mị nhớ lại những ngày xuân thật đẹp của quá khứ. “Mị nghe tiếng sáo vọng lại thiết tha bổi hổi”. Tiếng sáo ấy như ngọn gió thổi vào lòng cô, khiến cô nhẩm lại lời của người đang thổi sáo:

“Mày có con trai con gái rồi

Mày đi làm nương

Ta chưa có con trai con gái

Ta đi tìm người yêu”

Đã lâu rồi Mị không hát, thế mà cô vẫn thuộc. Dường như Mị vẫn chẳng thể quên được những ngày tươi đẹp nhất, trái tim vẫn chẳng thể nguội lạnh trước cuộc đời ngoài kia. Tiếng sáo ấy khiến Mị lén lấy hũ rượu. “Cứ uống ực từng bát. Rồi say. Mị lịm mặt ngồi đấy nhìn những người nhảy đồng, người hát, nhưng lòng Mị thì đang sống về ngày trước.” Niềm vui ấy khiến Mị ý thức được rằng “Mị trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi.” Điều đó thể hiện được khát khao tự do của cô, khát khao tự do giữa hiện thực đau đớn. Để rồi cô tủi thân, khi nhớ lại rằng mình đang có một cuộc sống bất hạnh: “A Sử với Mị không có lòng với nhau mà vẫn phải ở với nhau.” Mị chợt muốn chết, mà muốn chết tức là cô đã nhận ra trong tư tưởng của mình có sự phản kháng, cô không còn muốn sống kiếp sống này nữa. Sức sống mãnh liệt còn thể hiện mạnh mẽ hơn khi Mị đi đến quyết định: Bỏ nhà đi theo cuộc chơi. Mị làm đẹp cho bản thân mà không để ý đến thái độ của A Sử, Mị hành động thản nhiên, nhưng đau đớn thay, sự độc ác tàn nhẫn của giai cấp thống trị đã dập tắt đi cái khát vọng sự trỗi dậy đó của Mị. A Sử trói Mị, nhưng lúc này đây, Mị đâu còn sống bằng tâm hồn của mình. Hồn Mị đang “đi theo những cuộc chơi những đám chơi”. Tâm hồn cô đang ngập tràn tiếng sáo, tiếng sáo ấy nhập vào hồn Mị, khiến nàng quên đi rằng mình bị trói. Nhưng rồi “tay chân đau không cựa được”, Mị đau đớn tủi nhục, quay về với cuộc đời hiện thực. Có một chi tiết đắt giá đã lóe lên trong tâm trạng của cô: Mị tỉnh dậy và nhớ lại câu chuyện của người đàn bà bị chồng trói chết trong căn nhà này. Mị sợ, Mị “cựa quậy xem thử mình còn sống hay đã chết”. Nàng vẫn còn biết sợ, và đó chính là biểu hiện của lòng ham sống. Sức sống ấy vẫn đang âm ỉ cháy trong tâm hồn nàng, dù có bị vùi dập như thế nào đi nữa.

Sức sống tiềm tàng của Mị lại bùng lên lần nữa trong đêm cởi trói cho A Phủ. Cùng là nạn nhân của chính sách cho vay nặng lãi, nếu Mị trở thành cô dâu gạt nợ, thì A Phủ trở thành trâu ngựa cho nhà Pá Tra. Họ là nô lệ, ăn đời ở kiếp cho lũ nhà giàu, để rồi khi con bò bị hổ bất mắt, A Phủ bị hành hạ, bị treo lên cột, bỏ mặc đến chết. Lúc đầu, Mị chứng kiến mọi thứ bằng đôi mắt vô cảm. Dường như Mị đã mất đi lòng nhân ái giữa người với người, Mị lạnh lùng nhìn A Phủ bị hành hạ. Sau đó, khi nhìn thấy dòng nước mắt của A Phủ chảy xuống, Mị bỗng động lòng, trái tim của nàng thức tỉnh. Mị hình dung lại chuỗi ngày dài dằng dặc của cuộc đời mình, để rồi thấy A Phủ sao mà giống mình thế, phải chịu cảnh đau khổ, tàn nhẫn, kiếp sống trâu ngựa đầy bất công, phi lí. Mị nguyền rủa: “Chúng nó thật độc ác.”

Trái tim nhân ái của Mị đã thôi thúc nàng phải cứu A Phủ, dù cho nếu A Phủ chạy thoát, thì có thể người phải chết trên cột sẽ chính là nàng. Nhưng giờ đây, sức sống tiềm tàng đã khiến Mị khao khát được tự do, để rồi Mị quyết liệt cắt đứt sợi dây trói cho A Phủ. Đó là chính là vẻ đẹp của một tâm hồn khát khao được sống, được giải phóng bản thân mình. Hành động cắt sợi dây trói cho A Phủ cũng chính là cắt sợi dây trói buộc của đời mình, giải thoát khỏi cường quyền và thần quyền. Hành động này là một bước chuyển tâm lý, một sự trỗi dậy mạnh mẽ, một quá trình hiện thực hóa nhận thức, đưa cô Mị từ sức sống tiềm tàng trở thành người tự giải thoát chính mình. Qua đó, ta thấy được giá trị nhân đạo trong ngòi bút của Tô Hoài. Ông nâng niu từng phẩm chất tốt đẹp của nhân vật, cứu vớt họ từ những bi kịch cùng quẫn, đau thương...

Như Maxim Gorki đã từng nói: “Văn học là nhân học”, ngòi bút của Tô Hoài thấm đẫm giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo. Ông đã lặn xuống những kiếp người cùng khổ để thấu hiểu được nỗi đau, từ đó khám phá ra sức sống tiềm tàng ẩn sâu bên trong tâm hồn của họ.

Đề bài: Anh chị hãy nêu cảm nhận về nhân vật A Phủ trong truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” (Tô Hoài).

Bài tham khảo

Trong một tác phẩm văn học, nhân vật đóng vai trò vô cùng quan trọng, đó là chiếc chìa khóa để giải mã ý nghĩa ẩn sâu bên trong mỗi tác phẩm, và cũng là nơi tác giả nhắn nhủ cảm xúc, tâm tư, trăn trở của bản thân. Nhân vật A Phủ trong truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” là một nhân vật như thế, một nhân vật có số phận nhỏ bé, khổ đau; nhưng ẩn trong đó là nghị lực sống tiềm tàng, mạnh mẽ.

A Phủ được miêu tả trước hết là một người có số phận bất hạnh, kém may mắn. A Phủ người Háng Bla. Năm mười tuổi, anh mồ côi cả cha lẫn mẹ sau một trận đậu mùa khủng khiếp, sau đó, “người làng đói bụng đã bắt A Phủ đưa xuống bán đổi lấy thóc của người Thái ở dưới cánh đồng.” Thế nhưng A Phủ không cam chịu, anh đã trốn thoát lên núi cao, để rồi lưu lạc đến Hồng Ngài. Số phận của A Phủ đại diện cho biết bao con người nghèo khổ trong xã hội, không có quyền được quyết định cuộc đời mình.

Tuy vậy, vượt lên số phận khốn khó của mình, A Phủ lại có những tính cách tốt đẹp của một người con trai miền núi. Bởi anh có sự cần cù, chăm chỉ kiếm sống, “biết đúc lưỡi cày, lại cày giỏi và đi săn bò tót cũng rất bạo.” “Công việc làm hay đi săn, cái gì cũng phăng phăng.” A Phủ rất khỏe, chạy nhanh như ngựa. Anh trở thành niềm khao khát của bao cô gái trong làng: “Lấy được A Phủ là bằng được con trâu tốt trong nhà.” Khen vậy, nhưng anh lại chẳng lấy được vợ, vì “không có bố mẹ, không có ruộng, không có bạc”. Giữa cuộc sống khắc nghiệt như thế, mà A Phủ vẫn giữ được cho mình sự lạc quan, niềm tin vào cuộc sống, vui vẻ và yêu đời. Dẫu cho không có quần áo đẹp, chỉ độc một cái vòng vía trên cổ, A Phủ vẫn cứ “cùng trai làng đem sáo, khèn con quay và quả pao đi tìm người yêu ở các làng trong rừng”. Thể hiện được một đời sống tâm hồn phóng khoáng, hồn nhiên, yêu đời và tự tin của tuổi trẻ. Nhưng không chỉ dừng ở đó, A Phủ còn là một người yêu chính nghĩa. Bất bình trước sự lộng quyền của A Sử, dẫu biết đó là con quan, A Phủ vẫn “chạy vụt ra, vung tay ném con quay vào mặt A Phủ”, “xộc tới, nắm cái vòng cổ, kẹp dập đầu xuống, xé vai áo đánh tới tấp”. Đó là sự phẫn nộ trước những cảnh bất công, phi lí cho cuộc đời, cho thấy được sự gan góc của A Phủ.

Lương thiện là thế, nhưng A Phủ lại là nạn nhân của hủ tục lạc hậu, nạn nhân của cường quyền độc ác. Vì tội đánh con quan, A Phủ bị nhà thống lý bắt về xử kiện, bị tay chân nhà Pá Tra đánh đập dã man. Nhưng anh đã chứng tỏ mình là con người bất khuất, cứng rắn gan dạ. Anh chỉ quỳ, chịu đòn, im như tượng đá. Cuối cùng, anh bị buộc nộp vạ một trăm bạc trắng, vì không có tiền nộp vạ nên A Phủ phải vay nợ. Vậy là anh phải chịu kiếp sống trâu ngựa để trừ nợ, bị trở thành nô lệ với bản án chung thân suốt đời đúng như lời tên Pá Tra đã nói “đời mày, đời con mày, đời cháu mày tao cũng bắt thế, bao giờ trả hết nợ mới thôi”. Đó là kiếp sống bị khinh rẻ, bị ngược đãi và phải gánh vác những công việc nặng nhọc, nguy hiểm nhất như “săn bò tót, bẫy hổ, chăn ngựa quanh năm một thân một mình rong ruổi ngoài gò vãi, nương rừng”. Từ một chàng thanh niên sôi nổi, yêu đời, anh trở nên nhẫn nhục, cam chịu.

Giữa kiếp nô lệ ấy, A Phủ vẫn thể hiện lòng ham sống và khát vọng tự do. Sau khi để hổ bắt mất một con bò, thống lí quát thẳng vào mặt A Phủ: “Quân ăn cướp làm mất bò tao”. A Phủ bị trói đứng vào cột bằng dây mây cuốn từ chân lên vai. Anh bị trói trong đói rét, trong đau đớn mà chẳng ai ngó ngàng, dù nhà Thống lí “kẻ ra người vào tấp nập”. Tuy vậy, với khát vọng sống mãnh liệt, anh không cam chịu chết mà tìm mọi cách tự giải thoát: “Đêm đến, A Phủ cúi xuống, nhay đứt hai vòng dây, nhích dần dây trói một bên tay.” Thế nhưng, cha con thống lý lại về và tròng thêm vào cổ anh một cái dây thòng lọng.Sau bao ngày bị hành hạ, hai hõm má anh xám lại vì tuyệt vọng và khổ đau. Còn gì đau đớn hơn khoảnh khắc ta nhận thức được rằng mình sẽ chết, mình đang dần chết đi. Những giọt nước mắt dần lăn xuống, lấp lánh, vì nỗi khát khao được sống, được tự do. Khát khao ấy đã được thể hiện mạnh mẽ hơn bao giờ hết vào lúc Mị cắt dây trói cho anh. Sau nhiều đêm bị trói, bị hành hạ, A Phủ đã quỵ xuống. Nhưng tình yêu cuộc sống đã khiến anh vùng dậy và chạy đi. Những bước chạy của anh là bước chạy của sự đấu tranh, của sự phấn đấu vươn đến tự do, giải phóng chính mình. Giữa bóng tối của cuộc đời, A Phủ đang đi tìm cho mình ánh sáng của niềm tin, của tình yêu đời. Để rồi sau này, khi A Phủ và Mị chạy trốn tới khu du kích ở Phiềng Sa, gặp cán bộ A Châu. A Phủ và Mị lần lượt trở thành chiến sĩ du kích cùng bộ đội giải phóng quê hương. 

Có thể nói, thông qua nhân vật A Phủ, chúng ta đã nhận ra được giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc. Đó là tiếng nói lên án tố cáo tội ác tày trời của giai cấp chủ nô phong kiến miền núi đang áp bức, bóc lột nhân dân Tây Bắc. Đồng thời, nhà văn cũng phát hiện và trân trọng vẻ đẹp tâm hồn của những con người lao động. Từ đó bộc lộ niềm cảm thông, yêu thương chân thành, sâu sắc đến những nhân cách đáng quý ấy.

Về nghệ thuật, nhân vật A Phủ được khắc họa chân dung, tính cách thông qua ngôn ngữ mộc mạc, giản dị, cùng phong cách trần thuật hấp dẫn, xây dựng nhân vật giữa những tình huống truyện đặc sắc. Đó là những điều đã làm nên một nhân vật A Phủ mạnh mẽ, tràn đầy sức sống. Anh là một hình tượng điển hình cho cuộc sống ngột ngạt của những người lao động hiền lành, chất phác trên vùng cao, dưới sự thống trị của những người cầm quyền giàu có nhưng mất nhân tính. Họ đẩy những người hiền lành như anh đến bước đường cùng, để rồi anh phải đấu tranh, phải giải phóng mình, vụt chạy, tìm cho mình một con đường khác, một con đường mà ở đó anh sẽ tìm thấy được hạnh phúc. Tô Hoài thấu hiểu được điều đó, ông đặt tình cảm, niềm cảm thương của mình vào nhân vật A Phủ, với ước mong rằng những người khổ đau sẽ tìm được con đường giải phóng bản thân.

Đọc một tác phẩm, cái đọng lại sâu sắc nhất trong tâm hồn người đọc thường là số phận, tình cảm, cảm xúc, suy tư của những nhân vật được nhà văn thể hiện. Vợ chồng A Phủ đã để lại trong lòng độc giả vẻ đẹp về tâm hồn, tính cách của những người vùng cao, mà nhân vật A Phủ là một hình tượng tiêu biểu như thế. Ở anh, tượng trưng cho khát vọng tự do, niềm yêu đời, vượt lên số phận để sống, để sống thật tốt, sống vượt lên những khó khăn của cuộc đời.  

Đề bài: Phân tích giá trị nhân đạo trong truyện ngắn "Vợ chồng A Phủ" (Tô Hoài)  qua số phận hai nhân vật Mị và A Phủ.

Bài tham khảo

Tô Hoài là nhà văn nổi tiếng với cảm quan hiện thực đầy tinh tế về cuộc sống đời thường cùng sự nhạy bén trong việc sử dụng ngôn từ. Không chỉ vậy, ông còn là một nhà văn với tinh thần nhân đạo sâu sắc, mới mẻ. Điều này đã được thể hiện thông qua số phận của nhân vật Mị và A Phủ trong truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ”, in trong tập “Truyện Tây Bắc”.

Giá trị nhân đạo là sự quan tâm đến con người mà biểu hiện của giá trị nhân đạo là lòng thương người, sự cảm thông, bênh vực con người. Mỗi một tác phẩm thì giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo biểu hiện ở khía cạnh khác nhau. Giá trị nhân đạo trong “Vợ chồng A Phủ” trước hết được thể hiện ở phương diện tố cáo những thế lực độc ác. Đó là thế lực phong kiến miền núi lợi dụng chính sách cho vay nặng lão nhằm đọa đày người lương thiện. Trước tiên là ở Mị, nàng bị buộc vào vòng lẩn quẩn của cái nợ từ thời ba mẹ nàng. Còn ở A Phủ là khoản nợ 100 đồng bạc trắng. Chúng trói buộc cả hai con người đáng thương vào cuộc đời đau khổ. Đến một ngày thì Mị không còn ý thức phản kháng nữa, bởi ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi. “Bây giờ thì Mị tưởng mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa... ngựa chỉ biết việc ăn cỏ, biết đi làm mà thôi... Bao giờ cũng thế, suốt năm suốt đời như thế.” Rồi đến một ngày Mị bừng tỉnh, muốn đi chơi. Mị quấn lại tóc, Mị với tay lấy cái váy hoa vắt ở phía trong vách. A Sử nhìn thấy, nắm Mị, lấy thắt lưng trói hai tay Mị. Nó xách cả một thúng sợi đay ra trói đứng Mị vào cột nhà. Mị đau đớn, nồng nàn tha thiết nhớ những ngày đã qua. Còn A Phủ, anh bị đẩy vào bước đường ở nợ, “đốt rừng, cày nương cuốc nương, săn bò tót, bẫy hổ, chăn bò, chăn ngựa, quanh năm một thân một mình bôn ba rong ruổi ngoài gò ngoài rừng. Để rồi khi anh để hổ bắt mất một con bò, Thống lí Pá Tra bắt trói anh vào một cây cột trong góc nhà bằng dây mây quấn từ chân đến vai. Những việc làm tàn bạo ấy không chỉ hành hạ về mặt thể xác, nó còn bào mòn tinh thần con người, mỗi ngày, mỗi ngày.

Tô Hoài còn thể hiện giá trị nhân đạo ở chỗ, ông thương cảm những số phận bất hạnh như Mị và A Phủ. Nỗi niềm thương xót của ông không được nói ra thành lời, mà được thể hiện thông qua những tiếng nức nở của các nhân vật. Mị được miêu tả lúc nào “cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi.”, cả cuộc đời cô dường như chỉ quanh quẩn lên núi hái thuốc phiện, giặt đay, xe đay, đi nương bẻ bắp và dù lúc đi hái củi, lúc bung ngô, lúc nào cũng gài một bó đay trong cánh tay để tước thành sợi. Khi Mị bị A Sử trói vào cột, dòng ý thức của Mị trôi qua như những dòng nước mắt. “Đời người đàn bà lấy chồng nhà giàu Hồng Ngài thì một đời con người chỉ biết đi theo đuôi con ngựa của chồng.” Mị sợ, Mị cựa quậy, xem mình còn sống còn sống hay chết. Sợ chết là vẫn còn muốn sống, ý thức khát khao ấy như ánh sáng nhỏ nhoi khiến độc giả phải xúc động cho một số phận đau khổ. Ở A Phủ, đó là nỗi thương cảm dành cho chàng trai đã khổ từ lúc nhỏ. Ngày nhỏ, “có người làng đói bụng bắt A Phủ đem xuống bán đổi lấy thóc của người Thái dưới cánh đồng”. Khi lưu lạc đến Hồng Ngài, A Phủ cũng thông thể lấy nổi vợ, chỉ vì anh không có bố mẹ, không có ruộng, không có bạc. Vận đen vẫn đi theo A Phủ, để rồi anh bị bắt nộp vạ một trăm bạc trắng, phải đi ở trừ nợ cho nhà quan thống lí Pá Tra. Tấm lòng nhân đạo của nhà văn sẽ ôm lấy Mị và A Phủ, đưa những con người lương thiện thoát ra khỏi phận đời đau khổ.

Cuối cùng, tác giả thể hiện niềm trân trọng và đồng tình với khát vọng được tự do, được hạnh phúc của Mị và A Phủ. Niềm trân trọng ấy được thể hiện trước tiên ở ý thức phản kháng và sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị. sức sống ấy của Mị trỗi dậy vào đêm tình mùa xuân. “Hồng Ngài năm ấy ăn tết giữa lúc cỏ gianh vàng ửng, gió và rét rất dữ dội... Trong các làng Mèo đỏ, những chiếc váy hoa đã đem ra phơi trên mỏm đá xòe như con bướm, sặc sỡ... tiếng trẻ con nô đùa...” Mùa xuân ấy rộn rã âm thanh và màu sắc, là dấu hiệu cho sự bừng tỉnh của Mị trong đêm tình mùa xuân. Đầu tiên, sức sống ấy được hồi sinh khi Mị nghe thấy tiếng sáo: “Ngoài đầu núi lấp ló đã có tiếng ai thổi sáo rủ bạn đi chơi...” Tiếng sáo ấy chạm vào tâm hồn của Mị, khiến Mị nhớ lại những ngày xuân thật đẹp của quá khứ. “Mị nghe tiếng sáo vọng lại thiết tha bổi hổi”. Tiếng sáo ấy khiến Mị lén lấy hũ rượu. “Cứ uống ực từng bát. Rồi say. Mị lịm mặt ngồi đấy nhìn những người nhảy đồng, người hát, nhưng lòng Mị thì đang sống về ngày trước.” Niềm vui ấy khiến Mị ý thức được rằng “Mị trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi.” Sức sống mãnh liệt còn thể hiện mạnh mẽ hơn khi Mị đi đến quyết định: Bỏ nhà đi theo cuộc chơi. Mị làm đẹp cho bản thân mà không để ý đến thái độ của A Sử, Mị hành động thản nhiên, nhưng đau đớn thay, sự độc ác tàn nhẫn của giai cấp thống trị đã dập tắt đi cái khát vọng sự trỗi dậy đó của Mị. Sức sống tiềm tàng của Mị lại bùng lên lần nữa trong đêm cởi trói cho A Phủ. Khi Mị nhìn thấy “hai mắt A Phủ cũng vừa mở, một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại”. Mị bỗng nhớ lại đêm năm trước A Sử trói Mị, Mị cũng phải trói đứng thế kia. Mị đau đớn cho đời mình, và Mị cắt dây trói cho A Phủ. Rồi Mị bừng tỉnh, vụt chạy ra. Rồi hai người lẳng lặng đỡ nhau lao chạy xuống dốc núi. Bước chân của A Phủ và Mị là bước chân phản kháng, là bước chân tìm đến hạnh phúc, vùng thoát khỏi bóng tối, đi đến một cuộc đời khác. Và bước chân ấy in đậm giá trị nhân đạo của Tô Hoài trong tác phẩm. Đó là bước chân đồng tình cho khát vọng được kiếm tìm hạnh phúc.

Bên cạnh giá trị nhân đạo sâu sắc, tác phẩm còn mang đậm giá trị nghệ thuật. Tác phẩm khắc họa chân thực những nét riêng biệt về phong tục, tập quán, tính cách và tâm hồn con người dân tộc bằng một giọng văn nhẹ nhàng, tinh tế, đượm màu sắc và phong vị dân tộc, vừa giàu tính tạo hình vừa giàu chất thơ.

Có thể nói, tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” là một tác phẩm mang giá trị nhân đạo sâu sắc. Tác phẩm đã lên tiếng tố cáo những thế lực xấu xa, đồng thời thể hiện tiếng nói thông cảm, trân trọng và đồng tình dành cho khát vọng tự do, sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị và A Phủ.

Đề bài: Những đặc sắc về nghệ thuật trong truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” (Tô Hoài).

Bài tham khảo

Tô Hoài là một trong những nhà văn lớn của nền văn học Việt Nam hiện đại. Ông luôn hấp dẫn người đọc bởi những nét độc đáo trong việc quan sát và diễn tả về những số phận con người miền núi. Tiêu biểu là truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” - tác phẩm không chỉ xuất sắc về mặt nội dung mà còn vô cùng thành công về mặt nghệ thuật. Những đặc sắc về nghệ thuật trong truyện là yếu tố quan trọng góp phần đưa “Vợ chồng A Phủ” trở thành một truyện ngắn tiêu biểu cho nền văn học thời kì này.

Nghệ thuật là hình thức của tác phẩm, là những thứ giúp cho chúng ta cảm nhận được nội dung ý nghĩa bên trong. Đặc sắc nghệ thuật của tác phẩm trước hết được thể hiện ở nghệ thuật xây dựng tình huống truyện đặc sắc. Câu chuyện mở đầu bằng hình ảnh của Mị, về quá khứ, những gì mà Mị đã trải qua. Khi Mị dần trở nên tuyệt vọng, A Phủ bỗng xuất hiện như một người cùng khổ. Hai số phận tưởng như song song mà nay lại giao nhau, bởi những khổ đau họ đã trải qua, bởi sức sống tiềm tàng ẩn giấu bên trong tâm hồn của họ. Họ cùng chạy đi, cùng hướng đến ánh sáng nơi cuối con đường. Thông qua việc xây dựng tình huống truyện mới lạ, tác phẩm đã phơi bày những sự tàn bạo, bất nhân của giai cấp thống trị miền núi. Ngoài ra, tác phẩm còn thể hiện được khát vọng sống, sống một cách đúng nghĩa, sống như một con người của những người lương thiện như Mị và A Phủ.

Đặc sắc nghệ thuật của tác phẩm còn thể hiện ở việc khắc họa hình tượng nhân vật, đặc biệt là ở phương diện miêu tả tâm lí. Cả hai nhân vật Mị và A Phủ đều thể hiện những nét tính cách của người dân lao động miền núi. Mị được miêu tả với sự lặng lẽ, âm thầm, nhẫn nhục nhưng ẩn trong đó là sức sống tiềm tàng, khao khát được tự do và hạnh phúc. A Phủ thì lại gan góc, chất phác,... Để miêu tả hai nhân vật này, tác giả đã chọn những điểm nhìn khác nhau, từ đó hình thành nên những tính cách khác nhau. Ở Mị, tác giả nhấn mạnh vào những khoảnh khắc Mị suy tưởng, Mị nghĩ đến quá khứ, hiện tại, tương lai. “Cứ uống ực từng bát. Rồi say. Mị lịm mặt ngồi đấy nhìn những người nhảy đồng, người hát, nhưng lòng Mị thì đang sống về ngày trước.” Niềm vui ấy khiến Mị ý thức được rằng “Mị trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi.” Điều đó thể hiện được khát khao tự do của cô, khát khao tự do giữa hiện thực đau đớn. Để rồi cô tủi thân, khi nhớ lại rằng mình đang có một cuộc sống bất hạnh: “A Sử với Mị không có lòng với nhau mà vẫn phải ở với nhau.” Mị chợt muốn chết, mà muốn chết tức là cô đã nhận ra trong tư tưởng của mình có sự phản kháng, cô không còn muốn sống kiếp sống này nữa. Những suy ngẫm của Mị giúp chúng ta nhận ra một tâm hồn đẹp đẽ đang chết dần chết mòn, một sức sống mãnh liệt đang trỗi dậy mạnh mẽ. Còn ở A Phủ, tác giả nhấn mạnh vào hành động, để thấy được những vẻ đẹp của một người con trai vùng cao. A Phủ là một người yêu chính nghĩa. Bất bình trước sự lộng quyền của A Sử, dẫu biết đó là con quan, A Phủ vẫn “chạy vụt ra, vung tay ném con quay vào mặt A Phủ”, “xộc tới, nắm cái vòng cổ, kẹp dập đầu xuống, xé vai áo đánh tới tấp”. Đó là sự phẫn nộ trước những cảnh bất công, phi lí cho cuộc đời, cho thấy được sự gan góc của A Phủ.Ngoài ra, có một chi tiết cho thấy được niềm khát khao được sống của anh, đó là vào lúc Mị cắt dây trói cho anh. Sau nhiều đêm bị trói, bị hành hạ, A Phủ đã quỵ xuống. Nhưng tình yêu cuộc sống đã khiến anh vùng dậy và chạy đi. Những bước chạy của anh là bước chạy của sự đấu tranh, của sự phấn đấu vươn đến tự do, giải phóng chính mình.

Một trong những thành công về nghệ thuật của tác phẩm, còn là việc tái hiện lối sống động vẻ đẹp của bức tranh thiên nhiên và phong tục, tập quán của người dân miền núi Tây Bắc. Toàn bộ khung cảnh núi rừng Tây Bắc dưới ngòi bút của nhà văn trở nên tươi đẹp, hiền hòa. Con người hòa vào thiên nhiên trong những hội xuân tưng bừng. Thiên nhiên đi vào cuộc sống, tràn ngập trong từng bước chân, từng tiếng hát. “Trên đầu núi, các nương ngô, nương lúa gặt xong, ngô lúa đã xếp yên đầy các nhà kho. Trẻ con đi hái bí đỏ, tinh nghịch, đã đốt những lều canh nương để sưởi lửa. Ở Hồng Ngài người ta thành lệ cứ ăn Tết khi gặt hái vừa xong, không kể ngày, tháng nào. Ăn Tết như thế cho kịp lúc mưa xuân xuống thì đi vỡ nương mới. Hồng Ngài năm ấy ăn Tết giữa lúc gió thổi và cỏ gianh vàng ửng, gió và rét rất dữ dội.” Điều đó là nhờ cách kể chuyện giàu chất thơ và chất tạo hình của tác giả. Khung cảnh núi rừng hiện ra đầy thơ mộng, dịu dàng.

Nét đẹp phong tục văn hóa của người dân tộc vùng cao cũng được tập trung khắc họa đậm nét. Con người khát khao được sống, được yêu, được ca hát giữa núi rừng và ánh trăng, “Đến Tết năm ấy, Tết thì vui chơi, trai gái đánh pao, đánh quay rồi đêm đêm rủ nhau đi chơi. Những nhà có con gái thì bố mẹ không thể ngủ được vì tiếng chó sủa. Suốt đêm, con trai đến nhà người mình yêu, đứng thổi sáo xung quanh vách”, đó còn là “Những chiếc váy hoa đã đem ra phơi trên mỏm đá xòe như con bướm sặc sỡ. Đám trẻ đợi Tết, chơi quay, cười ầm trên sân chơi trước nhà. Ngoài đầu núi lấp ló đã có tiếng ai thổi sáo rủ bạn đi chơi.”

Có thể nói, tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” là một tác phẩm có giá trị nghệ thuật đặc sắc. Đó là nghệ thuật xây dựng hình tượng nhân vật, nghệ thuật tạo tình huống truyện, miêu tả sinh hoạt, phong tục và tâm lí nhân vật. Từ giá trị nghệ thuật ấy, chúng ta có thể hiểu hơn về giá trị nhân đạo sâu sắc được gửi gắm trong tác phẩm: sự lên án tội ác của bọn thống trị và khẳng định sức sống ngoan cường, khát vọng tự do tiềm tàng ở người dân lao động vùng cao Tây Bắc. Nhờ những giá trị ấy, mà tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” vẫn luôn có sức sống bền bỉ trong tâm hồn những người yêu văn chương .

Giá trị nội dung và nghệ thuật 

1. Nội dung

- Giá trị hiện thực: Chế độ thực dân phong kiến với những hủ tục lạc hậu và cường quyền có sức mạnh tuyệt đối chi phối cuộc đời, số phận của con người nơi này, Số phận khổ đau, bất hạnh của những người lao động nghèo khổ như Mị, như A Phủ được xây dựng, khắc họa rõ nét

- Giá trị nhân đạo: Tố cáo xã hội thực dân phong kiến đã đẩy người dân vào bước đường cùng, Cảm thông, đau xót, Ca ngợi sức sống tiềm tàng, mãnh liệt của con người ngay cả trong hoàn cảnh khắc nghiệt nhất, Con đường giải thoát cho nhân vật mà Tô Hoài đưa ra trong tác phẩm chính là đi theo cách mạng mà trong đoạn kết của câu chuyện

2. Giá trị nghệ thuật: Nghệ thuật xây dựng nhân vật : Khắc họa nhân vật sinh động, có cá tính rõ nét thể hiện bằng bút pháp thích hợp. Ngòi bút tả cảnh đặc sắc mang đậm màu sắc, dấu ấn của vùng núi Tây Bắc. Nghệ thuật trần thuật rất thành công với giọng kể trầm lắng dầy cảm thông, yêu mến. Ngôn ngữ sinh động được chọn lọc, sáng tạo giàu tính tạo hình vừa giàu chất thơ

 

 

Tìm kiếm google: soạn bài Vợ chồng A Phủ,Vợ chồng A Phủ ngữ văn 12 tập 2, hướng dẫn soạn bài Vợ chồng A Phủ.

Xem thêm các môn học


Copyright @2024 - Designed by baivan.net