[toc:ul]
1. Nghị luận về thơ (đoạn thơ, bài thơ):
Là cách sử dụng tổng hợp những thao tác lí luận để làm rõ nội dung tư tưởng, phong cách nghệ thuật của thơ (đã tác động dưới cảm xúc thẩm mỹ, tư duy nghệ thuật và những liên tưởng sâu sắc của người viết.
1. Đề bài: Phân tích bài thơ “Cảnh khuya” của Hồ Chí Minh
“Tiếng suối trong như tiếng hát xa
Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa
Cảnh khuya như vẽ người chưa ngủ
Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà”.
a. Tìm hiểu đề
b. Lập dàn ý:
Ghi nhớ:
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa
Lòng quê dờn dợn vời non nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
Thơ mới xuất hiện như một dàn đồng ca đa sầu, đa cảm nhưng "ảo não" nhất là hồn thơ Huy Cận. Bình về thơ của con người này, Xuân Diệu viết: "Trong thơ Việt Nam nghe bay dậy một tiếng địch buồn. Không phải sáo thièn thai, không phải điệu ái tình, không phải lời li tao kể chuyện một cái "tôi", mà ấy là một bản ngậm ngùi dài: có phải tiếng đìu hiu của khóm trúc, bồng lau; có phải niềm than vãn của bờ sông, bãi cát; có phải mặt trăng một mình đang cảm thương cùng các vì sao?... Thơ Huy Cận đó ư? Ai nhắc làm chi những nỗi thô thiết của ngàn đời, ai động đến cái lớp sầu dưới đáy hồn nhân thế, những lời muôn năm than thầm trong lòng vạn vật, ai thuật lại mà não nuột lắm sao?"
Chẳng cần tới tập Lứa thiêng, chí riêng bài thơ Tràng Giang cũng đủ làm nên hồn thơ "ảo não" - Huy Cận. Và đây là khổ thơ sâu lắng, thê thiết nhất trong trường buồn Tràng Giang:
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa
Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà
Lớp lớp những tầng mây hợp thành núi mây
Nếu như trong ba khổ thơ đầu, tâm trạng buồn - "nỗi buồn thế hệ, nỗi buồn không tìm được lối ra nên như kéo dài triền miên" (Huy Cận) của thi nhân dàn trải theo cái mênh mông, vô định của sông nước, thì tới khổ thơ cuối, tâm trạng ấy đã được mở lên chiều cao, lan tỏa trong không gian hoàng hôn của buổi chiều tàn:
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
Chim nghiêng cảnh nhỏ bóng chiều sa
"Thiên nhiên, tạo vật buồn nhưng đôi lúc bộc lộ vẻ đẹp kì vĩ, lạ lùng", đó là lời tự bình của tác giả về hai câu thơ này. Thật vậy, không gì vui và rạo rực bằng lúc bình minh, nhưng cũng không gì buồn tan tác bằng buổi ngày tàn, khi "bóng chiều sa". Nhưng chính lúc ấy, trong thơ Huy Cận, nơi "Tràng Giang" lại rạng lên vẻ đẹp tráng lệ với "lớp lớp" những tầng mây hợp thành "núi mây" khổng lồ được những vạt nắng chiếu rọi thành "núi bạc". Đó là cảnh thực, song cung là một hình ảnh nghệ thuật đẹp tuyệt diệu. Viết được hình tượng "núi bạc", thi nhân phải có một sự cảm nhận vẻ đẹp rất tinh tế, và đó phải là một hồn thơ yêu quê hương, đất nước đằm thắm. Hình ảnh "núi bạc" ấy sinh động hơn, hùng vĩ hơn qua động từ "đùn": "Mây trắng hết lớp này đến lớp khác như những búp bông trắng nở ra trên trời cao, ánh chiều trước khi vụt tắt rạng lên vẻ đẹp" (Huy Cận). Nhà thơ tâm sự: Ông học được chữ "đùn" trong bài dịch thơ của Đỗ Phủ:
Lưng trời sóng gợn lòng sông thẳm
Mặt đất mây đùn cửa ải xa
Ta thấy trong suốt hành trình Tràng Giang, hình ảnh thi nhân cô đơn trong từng cảnh vật đổi thay nhưng cùng chung dáng vẻ: trôi nổi, mông lung, lạc loài, vô định: một cành củi khô bập bềnh trôi trên sóng (Củi một cành khô lạc mấy dòng), một đám bèo xanh trôi nổi trên sông (Bèo dạt về đâu hàng nối hàng)... Và tới khổ thơ cuối hình ảnh thi nhân, nỗi buồn của thi nhân lại thấp thoáng ẩn hiện trong một hình ảnh cô đơn, lạc loài nữa, một hình ảnh rất tội nghiệp. Đó là một cánh chim nhỏ nhoi, cánh chim đang chở nặng bóng chiều, nghiêng cánh cố bay về nơi chân trời xa vắng.
Trong thơ ca cổ điển cùng như hiện đại, chỉ riêng việc khắc họa hình ảnh một cánh chim lẻ loi đã gợi lên một cái gì cô đơn, tội nghiộp, gợi lên cái buồn vắng, trống trải trong tâm hồn, huống chi trong thơ Huy Cận, đó lại là một cánh chim "nghiêng cánh nhỏ" và đang chở nặng "bóng chiều sa" cứ xa mờ dần đối lập với hình ảnh "núi bạc" hùng vĩ trong trời nước bao la. Sự tương phản ấy khiến cảnh "Tràng Giang" đã mênh mông, xa vắng lại càng mênh mông hơn, xa vắng hơn và "Tràng Giang" đã buồn lại càng buồn hơn. Hãy nghe thêm lời tự bình của tác giả:
"Cánh chim bay liệng tuy gợi lên một chút ấm cúng cho cảnh vật nhưng mông lung quá và nỗi buồn đến đây càng thêm da diết trong nhớ thương. Nó không đóng khung trong cảnh sông nước ở trước mặt mà mở ra đến chân trời của miền quê xa".
Hình ảnh cánh chim bay liệng trong buổi hoàng hôn là hình ảnh ước lệ, tượng trưng trong thơ ca cổ điển. Không gian ấy, cánh chim ấy đã từng là nơi bao thi nhân xưa thả những tâm tình tha thiết, thấm thìa vào đó. Và có lẽ nó sẽ còn là nơi để thi nhân muôn đời gửi gắm những nỗi niềm sâu kín. Trong dòng suy nghĩ ấy, một lần nữa, cánh chim lẻ loi, cô đơn, lạc đàn "nghiêng cánh nhỏ" trong Tràng Giang lại gợi cho ta nhớ tới tâm tưởng, nỗi buồn bơ vơ, trống trải của một người lữ thứ xa quê đang cô đơn thả những mảnh hồn theo "cánh chim mỏi" cố bay về nơi chân trời xa vắng để tìm một điểm dừng chân:
"Ngàn mai gió cuốn chim hay mỏi"
(Bà Huyện Thanh Quan)
Đó là sự đồng điệu, giao cảm giữa cái hiện đại và cái cổ điển trong thơ Huy Cận. Cánh chim ấy, "bóng chiều sa" ấy ngoài Huy Cận thật khó tìm trong làng Thơ mới. Và đúng như Hoài Thanh nhận xét:
"Trong nền văn học mới, Huy Cận đã làm một việc táo bạo: tìm về cảnh xưa, nơi bao người đã sa lầy - tôi muôn nói sa vào khuôn sáo. Người nói cùng ta nỗi buồn nơi quán chật, đèo cao, nỗi buồn của sông dài trời rộng, nỗi buồn của người lữ thứ...".
Hai câu thơ đầu của khổ thơ cuôì rất hay. Nếu như câu thơ "lớp lớp mây cao đùn núi bạc" gợi lên cái cao, cái bồng bềnh của cảnh mây trời thì câu thơ tiếp theo lại trĩu xuông theo hình ảnh "bóng chiều sa". Chữ "sa" rất hay. Có lẽ bóng chiều ấy đang chở nặng những tâm tình buồn nhớ của thi nhân nên mới có chữ "sa" ấy, chứ không phải là "xa", bởi nếu đó là "bóng chiều xa" thì nỗi buồn của thi nhân chỉ giản đơn là một nỗi buồn man mác trước cảnh vật lúc giao thời, chứ đâu còn là "nỗi buồn thế hệ, nỗi buồn không tìm được lối ra nên như kéo dài triền miên" của thi nhân. Tâm trạng cô đơn cùng nỗi "sầu nhân thế" như ngưng đọng và không thể giải tỏa trong không gian của "bóng chiều sa" ấy, và nó còn thể hiện sâu đậm trong hình ảnh thi nhân một mình đứng lẻ loi giữa vũ trụ bao la, lặng lẽ cảm nhận cái vĩnh hằng, cái vô cùng, vô tận của không gian đối lập với kiếp người hữu hạn:
Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà
Trong suốt hành trình "Tràng Giang", ta luôn gặp những từ láy: "điệp điệp", "song song", "đìu hiu", "lớp lớp"... tựa như một bản nhạc buồn với những âm điệu thê thiết, và nốt nhạc kết thúc là "dợn dợn", nó gợi lên muôn nhịp sóng: sóng nước, sóng lòng. "Dợn dợn" diễn tả sự rợn ngợp của nhà thơ trước cảnh trời nước mênh mông trong khoảnh khắc hoàng hôn gắn liền với tình quê, cố hương:
Dừng chân đứng lại, trời, non, nước
Một mảnh tình riêng: ta với ta
(Qua Đèo Ngang - Bà Huyện Thanh Quan)
hay:
Quê hương khuất bóng hoàng hôn
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai
(Hoàng Hạc Lâu - Tản Đà dịch)
Gợi lên từ tứ thơ ấy của Thôi Hiệu, hai câu thơ Đường:
Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà
Cũng là tấm "tình quê" của Huy Cận. Nhưng đây là một tình quê tha thiết hơn, sâu nặng hơn và cũng mãnh liệt hơn, bởi tấm "tình quê" ấy được toát lên trong một câu thơ vừa cổ điển, vừa hiện đại: cổ điển ở cảnh xưa: khói sóng, ở kết cấu thơ Đường; hiện đại ở cách nói trái ngược với ý Thôi Hiệu - một sự cách tân mới mẻ, độc đáo của một hồn thơ đầy "lãng mạn". Xưa kia, đứng trên lầu Hoàng Hạc, Thôi Hiệu nhìn thấy khói sóng phủ mờ trên sông mà tình quê thổn thức. Nhưng nay Huy Cận không cần cái mờ ảo của khói sóng tác động vào thị giác, tri giác, cũng không cần cái se lạnh thấm vào da thịt - không cần những thứ vốn đã gợi buồn (khói sóng) tác động, nhưng "tình quê" Huy Cận vẫn trào dâng:
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà
Rõ ràng tâm tình của Huy Cận sâu lắng hơn, mãnh liệt hơn, nó luôn thường trực trong tâm hồn và luôn sẵn sàng tỏa ra, thấm vào vạn vật. Huy Cận có lần tâm sự: cái "nhớ” ở đây không đơn thuần chỉ là nhớ quê hương Hà Tĩnh - nơi chôn nhau cắt rốn, mà "nhớ nhà" nên hiểu theo nghĩa rộng là nhớ quê hương, đất nước Việt Nam. ông còn kể: Khi phát xít Đức xâm lược nước Pháp, chiếm đóng Paris, nhà thơ Aragon cảm thấy lạc loài ngay chính trên quê hương của mình. Tới nay, trước cảnh nhân dân cơ cực, lầm than, sống cuộc đời nô lệ dưới ách thông trị của thực dân Pháp, thi sĩ Huy Cận lại có tâm sự lạc loài ấy. Chính vì thế, Huy Cận đã nói: "Lúc đó tôi buồn hơn Thôi Hiệu đời nhà Đường". Ân tình thi sĩ Huy Cận dành cho quê hương, đất nước thật là sâu nặng.
Khổ thơ đã khép lại về tứ thơ, nhưng cái tình quê buồn tha thiết, sâu lắng thì như kéo dài, vang vọng mãi theo cái âm điệu "dập dềnh như sóng nước Tràng Giang" của hai câu thơ cuối.
Đây là khổ thơ rất hay: hay ở sự kết hợp nhuần nhuyễn thơ ca truyền thống - những nét cổ điển của thơ Đường với những nét hiện đại; hay ở cảm xúc vũ trụ thể hiện ở cảnh đẹp thiên nhiên hùng vĩ, thơ mộng nhưng thấm đượm nỗi buồn tâm trạng của thi nhân - "nỗi buồn sông núi, nỗi buồn về đất nước" (Huy Cận). Nỗi buồn khơi nguồn từ tâm ra ngoại cảnh, rồi từ ngoại cảnh trở về tim - lặng lẽ thế nhưng sâu nặng và mãnh liệt vô cùng:
Một chiếc linh hồn nhỏ
Mang mang thiên cổ sầu
Bâng khuâng trời rộng nhở sông dài. Cảm hứng của lời đề tựa ấy dàn trải trong ba khổ thơ đầu, để rồi hội tụ và kết tinh trong khổ thơ cuối - khổ thơ có thể xem như một bài thơ tứ tuyệt hay, bộc lộ chân thực nhất, sâu đậm nhất tình yêu quê hương của tác giả. Và ở hoàn cảnh đất nước bị quân giặc giày xéo, càng yêu quê hương thắm thiết bao nhiêu, thi nhân lại càng "ảo não", càng "buồn" bấy nhiêu.
Ai đó đã nói: Thơ đích thực nâng đỡ lòng người, khơi gợi những gì đẹp đẽ nhất tiềm ẩn nơi đáy sâu tâm hồn để vươn tới cái cao cả. Tràng Giang, đặc biệt là khổ thơ cuối đã thực sự khơi dậy trong tâm hồn bạn đọc một tình yêu thiêng liêng, cao quí - tình yêu đất nước.