Soạn văn 12 cực chất bài: Vợ nhặt

Soạn bài: “Vợ Nhặt” - ngữ văn 12 tập 2 siêu chất. Nhằm giúp học sinh giảm bớt thời gian soạn bài nhưng vẫn đảm bảo nắm đủ ý, baivan giới thiệu các em tổ hợp bài soạn cực chất: cực ngắn, siêu ngắn và ngắn nhất. Từ đó, học sinh có thêm lựa chọn bài soạn phù hợp với của mình. Soạn “Vợ Nhặt” cực chất - baivan

[toc:ul]

I. Câu hỏi trong bài học

Bài tập 1: Trang 33 sgk ngữ văn 12 tập 2

Dựa vào mạch truyện, có thể chia tác phẩm thành mấy đoạn?  Nêu ý chính của mỗi đoạn và cho biết mạch truyện đã được dãn dắt như thế nào?

Bài tập 2: Trang 33 sgk ngữ văn 12 tập 2

Vì sao người dân xóm ngụ cư lại ngạc nhiên khi thấy anh Tràng đi cùng với một người đàn bà lạ về nhà? Sự ngạc nhiên của dân làng, của bà cụ Tứ và chính Tràng nữa cho thấy tác giả đã sáng tạo được một tình huống truyện độc đáo như thế nào? Tình huống truyện có tác dụng gì đối với nội dung, ý nghĩa của tác phẩm?

Bài tập 3: Trang 33 sgk ngữ văn 12 tập 2

Dựa vào nội dung truyện giải thích nhan đề vợ nhặt. Qua hiện tượng nhặt được vợ của Tràng anh chị hiểu gì về tình cảnh và thân phận của người nông dân nghèo trong nạn đói khủng khiếp năm 1945?

Bài tập 4: Trang 33 sgk ngữ văn 12 tập 2

Kim Lân đã có những phá hiện tinh tế và sâu sắc như thế nào khi thể hiện niềm khát khao tổ ấm gia đình của nhân vật Tràng (lúc quyết định lấy vợ, khi dẫn vợ về qua xóm ngụ cư và nhất là trong buổi sáng đầu tiên sau khi có vợ)? 

Bài tập 5: Trang 33 sgk ngữ văn 12 tập 2

Phân tích tâm trạng buồn vui xen lẫn của bà cụ Tứ. Qua đó anh chị hiểu gì về tam lòng của bà mẹ nông dân này?

Bài tập 6: Trang 33 sgk ngữ văn 12 tập 2

Tìm hiểu nghệ thuật viết truyện ngắn của Kim Lân: cách kể chuyện hấp dẫn, các dựng cảnh gây ấn tưởng với nhiều chi tiết đặc sắc, đối thoại sinh động, miêu tả tâm lí nhân vật tinh tế, sử dụng ngôn ngữ nông thôn nhuần nhị, tự nhiên. 

Phần Luyện tập

Bài tập 1: Luyện tập trang 33 sgk ngữ văn 12 tập 2

Đoạn văn nào, chi tiết nào của tác phẩm gây xúc động và để lại ấn tượng sâu sắc nhất cho anh (chị)? Vì sao?

Bài tập 2: Luyện tập trang 33 sgk ngữ văn 12 tập 2

Phân tích ý nghĩa đoạn kết của tác phẩm. 

Phần tham khảo, mở rộng

Bài tập 1: Phân tích truyện ngắn “Vợ nhặt” của nhà văn Kim Lân trong chương trình văn 12

Bài tập 2: Cảm nhận về nhân vật người vợ nhặt trong truyện ngắn “Vợ nhặt” (Kim Lân)

Câu 3: Anh/ chị hãy phân tích tâm trạng nhân vật Tràng trong truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân.

Bài tập 4: Phân tích giá trị độc đáo của tình huống truyện Vợ Nhặt trong tác phẩm cùng tên của nhà văn Kim Lân. Từ đó nhận xét về thái độ của nhà văn với con người và thực trạng xã hội đương thời.

Bài tập 5: Giá trị nội dung và nghệ thuật trong Vợ nhặt của Kim Lân

Câu 6. Cảm nhận về nhân vật Tràng trong tác phẩm “Vợ nhặt” của nhà văn Kim Lân.

Bài tập 7: Ai đó đã từng nói: “Văn chương có hai loại, một loại đáng thờ và một loại không đáng thờ. Loại không đáng thờ là loại chú ở văn chương, loại đáng thờ là loại chú ở con người”; hãy phân tác phẩm “Vợ nhặt” của Kim Lân để làm rõ luận điểm đó.

II. Soạn bài siêu ngắn: Vợ Nhặt

Bài tập 1: Bố cục: 4 phần

  •  Phần 1 (từ đầu đến tự đắc với mình) : Tràng đưa người vợ nhặt về nhà.
  •  Phần 2 (tiếp đến đẩy xe bò về): kể lại chuyện hai người gặp nhau và nên vợ nên chồng.
  •  Phần 3 (tiếp đến nước mắt chảy ròng ròng): Tình thương của người mẹ nghèo khó.
  •  Phần 4 (phần còn lại): niềm tin vào tương lai tươi sáng.

Mạch truyện sẽ được dẫn dắt hợp lý, tác phẩm lại mở ra từ cảnh Tràng đưa "vợ nhặt" về nhà gặp mẹ rồi mới kể lại chuyện hai người gặp nhau và nên duyên vợ chồng. 

Bài tập 2: 

Sở dĩ người dân xóm ngụ cư và các nhân vật khác trong truyện như bà cụ Tứ, và cả bản thân Tràng đều đã ngạc nhiên vì Tràng có vợ giữa cảnh nạn đói đang đe dọa.

  •  Sự ngạc nhiên cho thấy tác giả đã xây dựng được một tình huống truyện độc đáo. 
  •  Qua tình huống đó, tác phẩm thể hiện rõ giá trị hiện thực, giá trị nhân đạo và giá trị nghệ thuật. 

Giá trị hiện thực: tố cáo tội ác thực dân, phát xít qua bức tranh xám xịt về thảm cảnh chết đói, Giá trị con người bị phủ nhận khi chỉ vì cùng đường, đói khát mà phải trở nên trơ trẽn, liều lĩnh, bất chấp cả thẹn. Cái đói đã bóp méo cả nhân cách con người. 

Giá trị nhân đạo: Tình nhân ái, cưu mang đùm bọc nhau, khát vọng hướng tới sự sống và hạnh phúc…, những người nghèo khổ, ngay bên cạnh cái chết, họ vẫn không ngừng tìm đến hạnh phúc.

  •  Về nghệ thuật: tình huống độc đáo khiến truyện phát, triển dễ dàng và làm nổi bật được những cảnh đời, những thân phận con người bất hạnh, làm nổi bật chủ đề tư tưởng tác phẩm.

 Bài tập 3: 

Qua câu chuyện ta hiểu rõ hơn về nhan đề vợ nhặt. Lấy vợ là việc có ý nghĩa quan trọng đánh dấu một bức ngoặc lớn. Vì thế sẽ phải được tổ chức long trọng, nhưng ở đây, chỉ với vài câu bông đùa mà Tràng đã có vợ. Còn chị vợ không cần phải cưới hỏi hay của hồi môn mà chỉ vài bát bánh đúc đã theo không Tràng về nhà, không có ăn hỏi, sính lễ, sự chủ động của hai người cô dâu và chú rể, không có của hồi môn, cỗ cưới cũng như sự chúc mừng của hai bên họ hàng. Tất cả diễn ra rất ngẫu nhiên thậm chí rất tình cờ và bất ngờ. Nó khiến ai cũng ngạc nhiên đến ngay cả Tràng - người trong cuộc cũng thấy ngỡ ngàng và không tin đây là sự thật. Lấy vợ là niềm hạnh phúc của hai vợ chồng nhưng trong cái đói cái khổ, niềm hạnh phúc đó thực sự là quá nhỏ so với nỗi lo về miếng ăn, thêm một miệng ăn là thêm nỗi lo lắng . Cái đói, cái rét làm mất đi nhu cầu hạnh phúc của con người, họ phải làm mọi cách để bám víu cuộc sống, để có cái ăn, cái mặc. 

Bài tập 4: Phát hiện niềm khao khát tổ ấm gia đình của anh cu Tràng thể hiện qua những tình tiết sau:

  •  Lúc quyết định lấy vợ: Vì tưởng là mình nói đùa và ngờ đàn bà cũng sẽ không tin là thật. Vì thế Tràng cũng chợn, lo lắng nghĩ "thóc gạo này đến cái thân mình cũng chả biết có nuôi nổi không, lại còn đèo bòng". Thế nhưng, cuối cùng Tràng lại tặc lưỡi một cái "chậc, kệ". Đấy chính là niềm khát khao của người nông dân về mái ấm gia đình.
  •  Khi dẫn vợ về qua xóm ngụ cư: Tràng không lầm lũi như mọi ngày nữa, tâm trạng hắn khác hẳn, vẻ mặt hắn có một vẻ gì phớn phở khác thường. Hắn tủm tỉm cười- nụ cười một mình và hai mắt sáng lên lấp lánh...rồi hắn thấy làm thích, cái mặt cứ vênh lên tự đắc với mình, thật tinh tế khi diễn tả đúng tâm trạng của một người đàn ông tưởng chừng ế vợ lần đầu tiên dẫn vợ về qua xóm mình.
  •  Trong buổi sáng đầu tiên sau khi có vợ: Tâm trạng của Tràng cũng có sự đổi khác. Khi ngủ dậy Tràng thấy người êm ái lửng lơ như người vừa trong giấc mơ đi ra. Vì khao khát hạnh phúc, khi có vợ, hắn đã thay đổi thấy bản thân trưởng thành, thấy mình có bổn phận lo lắng cho vợ con sau này, thấy cái nhà như cái tổ ấm che mưa che nắng. 

Bài tập 5: Tâm trạng bà cụ Tứ buồn vui lẫn lộn, bà buồn vì thấy thương và xót xa cho con trai mình, người ta dựng vợ gả chồng cho con lúc gia đình ăn nên làm nổi, những mong sinh con đẻ cái mở mặt sau này. Còn mình thì bổn phận làm mẹ bà chẳng lo lắng cho con được. 

Bà vui vì con trai mình đã có vợ, nó yên bề nó. Bà không khinh rẻ người đàn bà theo không con trai mình, ngược lại  bà thấy thương xót người phụ nữ cũng vì hoàn cảnh đói khát người ta mới lấy đến con trai mình, con trai mình mới có vợ. 

  •  Bà cụ Tứ là hiện thân của nỗi khổ cuộc sống. Người mẹ ấy đã nhìn cuộc hôn nhân éo le của con thông qua toàn bộ nỗi đau khổ của cuộc đời bà. Bà lo lắng trước thực tế quá nghiệt ngã. Bà mừng một nỗi mừng xót xa. Từ ngạc nhiên đến xót thương, nhưng trên hết vẫn là tình yêu thương. Cũng chính bà cụ là người nói nhiều nhất về tương lai rất cụ thể thiết thực với những gà, lợn, ruộng, vườn,rồi nồi cháo cám là phương tiện tiếp năng lượng của bà truyền cho hai đứa con nồi cháo cám bà gọi là chè khoán và vừa múc cháo vừa khen "ngon đáo để cơ" .. Bà muốn các con tin về một tương lai  không quá xa vời. Bà là điển hình của người mẹ nông dân đôn hậu lòng yêu thương sâu sắc mà  Kim Lân đã khám phá ra. 

Bài tập 6: 

Tác phẩm  vợ nhặt đã bộc lộ cái tài và cái duyên viết truyện ngắn của Kim Lân. Điều đó được thể hiện ở những phương diện sau:

  •  Trước hết là cách kể chuyện hấp dẫn, cách dựng cảnh với nhiều chi tiết đặc sắc, tình huống truyện độc đáo, tình khi xây dựng được nhiều chi tiết đặc sắc nào là nồi cháo cám của bà cụ Tứ, chi tiết Tràng nhớ lại hình ảnh mình đi phá kho thóc Nhật lá cờ đỏ bay phấp phới.
  •  Kim Lân cũng thể hiện sự tài tình của mình khi miêu tả diễn biễn tâm trạng của  nhân vật một cách tự nhiên chân thực

Phần Luyện tập

Bài tập 1: 

  • Chi tiết khiến em ấn tượng nhất đó chính là là chi tiết nồi cháo cám của bà cụ Tứ. Nồi cháo cám giữa ngày đói là phương tiện cứu đói bà dành và để đón con dâu. Vừa múc cháo bà vừa khen chè khoán đấy ngon đáo để cơ. 
  • Qua chi tiết nồi cháo cám ta cảm nhận rõ  bà cụ Tứ - người mẹ đảm đang, yêu thương con hết mực. Không chỉ cảm nhận được bà cụ Tứ mà chúng ta còn cảm nhận được Tràng là người chồng có trách nhiệm với nỗi thẹn không thể dành cho người vợ mới cưới của mình một bữa ăn đủ đầy, một tiệc cưới sang trọng ; người con hết sức khéo léo trong cách cư xử với mẹ, hiểu rõ được hoàn cảnh của gia đình mình.Vợ Tràng cũng vậy,  thay đổi về tính cách,  trước nồi cháo cám nhưng người con dâu mới vẫn điềm nhiên và vào miệng để làm vui lòng mẹ chồng, vợ Tràng không còn nét cách đỏng đảnh như xưa nữa mà cô đã chấp nhận hoàn cảnh, đã thực sự sẵn sàng cùng gia đình vượt qua những tháng ngày khó khăn sắp tới. Như vậy, nồi cháo cám là nồi cháo của tình thân, tình người , niềm tin và hy vọng điều này là một điểm sáng của tác phẩm chỉ qua chi tiết nhỏ mà thể hiện được tính cách của các nhân vật.

Bài tập 2: Phân tích ý nghĩa đoạn kết của tác phẩm. 

Đoạn kết khép lại câu chuyện bằng một hồi trống dồn dập, vội vã. Bà lão cho rằng đó là tiếng thúc thuế và càng đau khổ hơn trong nạn đói này. Nhưng người con dâu và con trai lại nghĩ theo hướng khác. Họ nghĩ đến  những đoàn người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới - đó là lá cờ đỏ Việt Minh .Hình ảnh “đám người đói và lá cờ đỏ” hiện lên trong tâm trí Tràng vừa gợi ra cảnh ngộ đói khát thê thảm vừa gợi ra những tín hiệu của cuộc cách mạng, cả hai đều là những nét chân thực trong bức tranh đời sống lúc bấy giờ.Kết thúc truyện góp phần thể hiện tư tưởng nhân đạo của Kim Lân: trân trọng niềm khát vọng sống ngay bên bờ vực cái chết của người lao động nghèo; niềm tin bất diệt vào tương lai tươi sáng. 

 Phần tham khảo, mở rộng

Bài tập 1: Phân tích truyện ngắn “Vợ nhặt” của nhà văn Kim Lân trong chương trình văn 12

Bài tham khảo

Nạn đói năm 1945 đã đi vào văn học như một đề tài gợi nhiều cảm hứng sang tác nhất. Nếu nhà văn Nguyên Hồng có tác phẩm “Địa ngục”, Tô Hoài có “Mười năm”,... thì Kim Lân đóng góp vào đề tài trên một trong những truyện ngắn xuất sắc nhất của mình: "Vợ nhặt". “Vợ nhặt”  được đánh giá là một kiệt tác của văn học hiện thực Việt Nam khi tái hiện thành công bức tranh thảm thương, bế tắc của người nông dân trong nạn đói năm Ất Dậu.

Tác phẩm “Vợ nhặt” là được rút ra từ tập truyện "Con chó xấu xí" xuất bản năm 1962. Tiền thân của truyện là tiểu thuyết "Xóm ngụ cư" được viết sau Cách mạng tháng Tám. “Vợ nhặt” được đánh giá là một trong những tác phẩm hay nhất trong kho tàng truyện ngắn Việt Nam sau cách mạng.

Nhan đề tác phẩm tuy gắn gọn nhưng hàm chứa một ý nghĩa tư tưởng sâu xa. “Vợ nhặt” hiểu theo nghĩa đen là nhặt, lượm được vợ. Qua nhan đề này, ta thấy được sự rẻ rúng và tình cảnh thê thảm của người dân lao động nghèo trong nạn đói cũng như tình hình đen tối của xã hội Việt Nam thời bấy giờ. Nói như Kim Lân “Nhặt tức là nhặt nhạnh, nhặt vu vơ. Trong cảnh đói năm 1945 người dân lao động dường như khó ai thoát khỏi cái chết. Bóng tối của nó phủ lấy mọi xóm làng. Trong hoàn cảnh ấy giá trị một con người thật vô cùng rẻ rúng, người ta có thể có vợ theo chỉ nhờ mấy bát bánh đúc ngoài chợ - đúng là nhặt được vợ như tôi nói trong truyện”. Chính nhan đề độc đáo đã góp phần không nhỏ trong việc tạo ấn tượng và gợi sự tò mò của người đọc.

Thành công của “Vợ nhặt”  trước hết là ở cách xây dựng một tình huống truyện độc đáo. Tác giả đã khéo léo dựng lên một tình huống mới lạ nhưng cũng không kém phần trớ trêu: anh cu Tràng nhặt vợ. Là “nhặt” chứ không phải lấy được. Có thể thấy, ở xã hội đó, giá trị của con người bị hạ thấp, không khác gì một món hàng có thể dễ dàng nhặt được ven đường. Với tình huống anh cu Tràng “nhặt” được vợ trong những ngày đói giữa xóm ngụ cư, Kim Lân muốn khắc hoạ số phận bi đát của người nông dân trước cách mạng tháng Tám đồng thời thể hiện sự cảm thông, sẻ chia trước khát khao hạnh phúc của những số phận khốn cùng ấy. Đọc “Vợ nhặt”, có nhận xét rằng: “Bốn bát bánh đúc thành lễ cưới thật rồi – Xin từ điển hãy thêm từ vợ nhặt – Ngòi bút Kim Lân tưởng như đùa như khóc – Đói quắt quay nhưng tha thiết con người”. Đọc những dòng tâm tư này ta hiểu, thẳm sâu của câu chuyện nhặt vợ tội nghiệp là khát khao về mái ấm gia đình, là tình yêu thương, đùm bọc giữa người với người. Cái đói tuy đáng sợ, hiện thực tuy thảm khốc nhưng đằng sau những điều đấy, Kim Lân còn muốn truyền tải một thông điệp khác đậm tính nhân văn: “Khi đói, người ta không nghĩ đến con đường chết mà chỉ nghĩ đến con đường sống. Dù ở trong tình huống bi thảm đến đâu, dù kề bên cái chết vẫn khát khao hạnh phúc, vẫn hướng về ánh sáng, vẫn tin vào sự sống và vẫn hi vọng ở tương lai, vẫn muốn sống, sống cho ra người”. 

Nét đặc sắc của “Vợ nhặt” còn là ở cách xây dựng hình tượng nhân vật chân thật, sống động với những biến chuyển tinh vi trong thế giới nội tâm. Trước hết phải kể đến Tràng, chàng trai nghèo hiền lành luôn mang trong mình niềm khát khao về mái ấm gia đình. Diện mạo Tràng được miêu tả bằng những đường nét thô kệch “Hai con mắt nhỏ tí, hai bên quai hàm bạnh ra, bộ mặt thô kệch, thân hình to lớn vập vạp”. Tính tình lại nông nổi, có tật vừa đi vừa nói, thường tủm tỉm cười một mình. Gia cảnh Tràng cũng chả khá khẩm gì, anh sống với mẹ già và làm nghề kéo xe bò thuê để kiếm sống qua ngày. Có thể thấy, ở Tràng không có gì hấp dẫn và cuốn hút cả, vậy mà anh không những lấy được vợ mà còn lấy bằng cách đơn giản nhất: nhặt. Lần đầu chỉ bằng câu hò vu vơ – Tràng quen thị. Vài ngày sau gặp lại, Tràng sẵn sàng mời thị ăn mặc dù chính anh cũng chẳng giàu có gì. Miếng ăn lúc đó là cả mạng sống của con người nhưng anh vẫn sẻ chia với thị bởi đó là tình cảm của những con người đồng cảnh ngộ dành cho nhau. Chỉ vài câu bông lơn, đùa cợt “Nói đùa chứ có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về” mà từ một chàng trai ế chỏng chơ, Tràng có thêm một cô vợ mới. Trong hoàn cảnh mà người ta tranh nhau từng miếng ăn để sống như thế, hành động đưa thị về cùng đồng nghĩa với việc Tràng “đèo bòng” thêm một gánh nặng. Dù vô tư, vô lo đến đâu, lúc này bản thân anh cũng “chợn” khi nghĩ về tương lai, nhưng cuối cùng Tràng vẫn chậc lưỡi “kệ”. Qua cái chậc lưỡi và hành động có phần liều lĩnh ấy, ta thấy được tấm lòng nhân hậu, tình thương người và sâu xa hơn là khát khao về hạnh phúc gia đình ẩn dưới diện mạo có phần thô kệch. 

Hạnh phúc gia đình cũng làm Tràng thay đổi. Nó giúp anh tạm quên đi cái đói trước mắt “Trong một lúc Tràng như quên hết những cảnh sống ê chề tăm tối hằng ngày, quên cả cái đói khát đang đe doạ” để chỉ còn “tình nghĩa” giữa hắn và người đàn bà đi bên cạnh “Một cái gì mới mẻ, lạ lắm chưa từng thấy ở người đàn ông ấy”. Tràng thấy mình như bước ra từ một giấc mơ, trong người “êm ái, lơ lửng”, anh thấy “yêu thương, gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng. Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đấy. Cái nhà như tổ ấm che mưa, che nắng. Một nguồn vui sướng mới, phấn chấn, tràn ngập trong lòng. Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người, hắn thấy hắn có bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau này.”  Vượt qua thực tại, niềm hạnh phúc gia đình đã đem sinh khí đến cho cuộc sống đang tràn ngập sự chết chóc bủa vây, cho những con người nghèo khổ đang đấu tranh với cái đói.

Tiếp theo là bà cụ Tứ - hình tượng người mẹ Việt Nam hiền lành, nhân hậu giàu đức hi sinh. Nhân vật bà cụ Tứ hiện lên với dáng đi lọng khọng, chậm chạp, run rẩy, lưng còng vì tuổi tác “lọng khọng đi vào ngõ vừa đi vừa lẩm bẩm tính toán gì trong miệng”. Bà ngạc nhiên trước thái độ trịnh trọng  khác thường của người con trai vô tâm tính. Khi thấy người đàn bà lạ ngồi ở đầu giường con trai hai lần chào mình bằng u, bà thấy  mắt nhoèn đi, bà im lặng vì quá ngạc nhiên, hoàn toàn không hiểu đầu đuôi câu chuyện. Hàng loạt câu hỏi đặt ra trong đầu óc già nua của bà: “Người đàn bà nào lại đứng ở đầu giường thằng con mình thế kia? Không phải cái đục mà. Ai thế nhỉ ? Sao lại chào mình bằng u ?”. Phải, bà làm sao ngờ được giữa năm đói, nhà lại nghèo mà con bà dẫn về một cô vợ! Nghĩ về Tràng, bà thương con phải nhờ cơn đói khát mới lấy được vợ, về bản thân, bà thấy tủi vì chưa làm tròn bổn phận của người mẹ: lấy vợ cho con, bà thương và tủi cho vong linh chồng không biết mặt con dâu, không được chứng kiến ngày con trai lấy vợ. Và, về người đàn bà lạ bỗng trở thành con dâu mình, cụ Tứ cảm thấy thương cho số phận khốn khổ của thị, bởi vì cùng đường người ta mới lấy đến con trai bà mà không cần cưới hỏi. Trược “sự kiện” anh cu Tràng nhặt được vợ, lòng bà cụ ngổn ngang bao tâm trạng buồn vui, mừng tủi, và nhất là lo lắng vì nạn đói, lo “vợ chồng chúng nó có sống qua nổi cái thời tao loạn này không” – tất cả hoà trong dòng nước mắt nghẹn ngào. “Nước mắt cứ chảy xuống ròng ròng”, những giọt nước mắt ấy đã nói lên tất cả tấm lòng chân thật người mẹ hiền lành, nhân hậu. Có thể thấy, diễn biến tâm trạng bà cụ Tứ được khắc họa vô cùng chân thật, logic và xúc động. Đó là tấm lòng nhân hậu, bao dung, đầy hi sinh của người mẹ nghèo Việt Nam

Cuối cùng là nhân vật người vợ nhặt – nạn nhân của nạn đói. Đó là một người đàn bà tội nghiệp, đáng thương, không có gì kể cả tên riêng. Chính cái đói, cái nghèo đã đẩy thị vào bước đường cùng, đã khiến thị theo không người lạ về làm vợ chỉ vì được sống. Những mảnh đời như thị không phải là hiếm trong bối cảnh nạn đói. Trước khi trở thành vợ Tràng, thị là  một người phụ nữ ăn nói chỏng lỏn, táo bạo và liều lĩnh : Lần gặp đầu  tiên, thị chủ động làm quen, ra đẩy xe bò cho và “liếc mắt cười  tít” với Tràng. Lần gặp thứ hai, thị “sầm sập chạy tới”, “sưng sỉa nói”  và lại còn “đứng cong cớn” trước mặt Tràng. Khi được Tràng mời ăn bánh đúc, thị đã cúi gằm ăn một mạch bốn bát. Ăn xong còn lấy đũa quẹt ngang miệng và khen ngon… Tất cả những biểu hiện trên của thị suy cho cùng cũng là vì  đói. Cái đói trong một lúc nào đó nó có thể làm biến dạng tính cách của  con người. Xây dựng nhân vật thị, nhà văn thể hiện sự xót xa và cảm thông  cho cảnh ngộ đói nghèo của người lao động trong những năm trước cách mạng. Khi trở thành vợ Tràng, thị đã trở về với chính con người thật của mình, một người đàn bà hiền thục, e lệ, lễ phép, đảm đang.“Thị ngồi im, bần thần nhìn ra sân, tay giữ chặt cái thúng”, dậy sớm, quét tước, dọn dẹp nhà cửa cùng mẹ chồng. Ngay đến người vô tâm như anh Tràng vẫn nhận ra sự thay đổi kỳ lạ ở con người thị. Tràng nom thị hôm nay khác lắm, rõ ràng là người đàn bà hiền hậu đúng mực không có vẻ gì chao chát, chỏng lỏn như mấy lần gặp ngoài chợ tỉnh. Đó là hình ảnh của một người vợ  biết lo toan, thu vén cho cuộc sống gia đình. Hoá ra cái đanh đá, chỏng lỏn trước kia ở người đàn bà chẳng qua là do đói do khát mà ra. Khi được sống trong tình thương, trong mái ấm gia đình, người đàn bà ấy đã sống với bản chất tốt đẹp vốn có của mình, của một người phụ nữ Việt Nam.

Hình ảnh cuối tác phẩm “Trong mắt Tràng vẫn thấy đám người đói và lá cờ đỏ sao vàng bay phấp phới…” kết thúc câu chuyện nhưng cũng mở ra một niềm hi vọng mới. Nó gieo vào gia đình Tràng niềm tin vào một tương lai tươi sáng hơn, mà ở đó, không còn nạn đói, không còn lưu lạc, không còn áp bức. Nó cũng gieo vào lòng người đọc một niềm tin mãnh liệt rằng những con người khốn khổ sẽđược giải phóng dưới sự dẫn đường của lá cờ đỏ Cách mạng. Đây là một kết thúc phát triển theo chiều hướng tích cực của tác phẩm: Khi bị đẩy vào tình trạng đói khổ cùng đường thì người nông dân lao động sẽ hướng tới cách mạng. Đây cũng là xu hướng vận động chủ yếu của văn học Việt Nam từ 1945 đến 1975. 

“Vợ nhặt” là một truyện ngắn đặc sắc của Kim Lân và của văn xuôi sau cách mạng. Giá trị hiện thực của tác phẩm ở chỗ, nó tái hiện chân thực hiện thực cuộc sống khốn cùng, bi thảm của người nông dân trong nạn đói khủng khiếp có thật trong lịch sử dân tộc năm 1945 đồng thời phơi bày tội ác của bon thực dân, phát xít khi ban hành chính sách vô lý: nhổ lúa trồng đay. Tác phẩm cũng mang một giá trị nhân đạo sâu sắc. Qua “Vợ nhặt” Kim Lân đã tố cáo tội ác của thực dân Pháp và phát xít Nhật đồng thời bày tỏ niềm xót thương, đồng cảm cho số phận những người nông dân nghèo trong xã hội. “Vợ nhặt” cũng là một bài ca về tình người, tình mẫu tử khi mà ở đó, trong cái đói, cái nghèo, con người vẫn yêu thương, cảm thông, đùm bọc nhau và không từ bỏ hi vọng sống.

Về nghệ thuật, tác phẩm đã dựng lên một tình huống truyện lạ, độc đáo, đầy ý nghĩa. Nghệ thuật trần thuật linh hoạt và sử dụng ngôn ngữ có tính tạo hình đặc sắc cũng góp phần truyền tải nội dung và tư tưởng của tác phẩm một cách hiệu quả. Bên cạnh đó, cách xây dựng hình tượng nhân vật, miêu tả diễn biến tâm lí và hành động cũng đạt tới trình độ tinh vi và mẫu mực.

Có thể nói, qua “Vợ nhặt”, Kim Lân đã để lại một dấu ấn sâu đậm trong lòng người đọc và góp vào văn đàn Việt Nam một bức tranh đầy chân thực, xúc động về người nông dân trong xã hội cũ.

Bài tập 2: Cảm nhận về nhân vật người vợ nhặt trong truyện ngắn “Vợ nhặt” (Kim Lân)

Bài tham khảo

Trong kí ức của mỗi người Việt Nam, nạn đói năm Ất Dậu vẫn là một cơn ác mộng khó quên. Cũng từ đó, miếng cơm manh áo từ nỗi đau hiện thực trở thành đề tài sáng tác của những nhà văn. Thân phận những con người trở nên tầm thường, đến cả chuyện hạnh phúc lứa đôi cũng là chuyện rẻ rúng. Tất cả những điều đó đều được ghi lại bằng ngòi bút của Kim Lân qua nhân vật người vợ nhặt trong tác phẩm cùng tên.

Trước tiên, ta thấy người vợ nhặt là nạn nhân của nạn đói với cuộc sống trôi nổi, bấp bênh. Là nhân vật vô danh, người vợ nhặt là đại diện chung của số phận của những người phụ nữ không may sinh ra trong hoàn cảnh bất hạnh. Người phụ nữ ấy không tên, không tuổi, không quê hương, không quá khứ. Từ đầu đến cuối tác phẩm, Kim Lân chỉ ban tặng cho nhân vật này những cách gọi tên rất chung chung như “cô ả”, “thị”, “người đàn bà”, “nàng dâu mới”, “nhà tôi”. Thị xuất hiện một cách bạo dạn, đáng thương trong hai lần gặp Tràng. Thị “ngồi vêu ra” lẫn trong đám con gái ngồi chờ nhặt hạt thóc rơi. Thị ton ton chạy lại đẩy xe tiếp Tràng với hi vọng được “kiếm ăn” nhưng thất bại. Từ sự cong cớn, liếc mắt cười tít, Thị chuyển sang vẻ tiều tụy, hốc hác vì cái đói trong lần gặp thứ hai “Hôm nay thị rách quá, áo quần tả tơi như tổ đỉa, thị gầy sọp hẳn đi, trên cái khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt”. Tràng dường như không thể nhận ra thị. Cùng với sự thay đổi về hình thức, cái đói đã xóa đi cái hồn nhiên hóm hỉnh của thị khi gặp Tràng, chị biến thành một người phụ nữ “đon đả”, táo bạo và liều lĩnh. Thị đói đến mức cắm đầu ăn bốn bát bánh đúc liền “Thị cắm đầu ăn một chặp bốn bát bánh đúc liền chẳng chuyện trò gì. Ăn xong thị cầm dọc đôi đũa quệt ngang miệng”. Kim Lân đã khắc họa hình ảnh một người phụ nữ thật đáng thương! Từ ngoại hình đến cử chỉ, hành động, thị đều hiện lên trên trang giấy với sự khắc khổ, nhếch nhác, tội nghiệp. Cái đói chẳng những tàn hại dung nhan mà còn tước đoạt cả tính cách và nhân phẩm của thị. Vì đói mà trở nên “chao chát”, “chỏng lỏn”, “sưng sỉa”.. Cái đói khiến thị quên đi việc giữ gìn ý tứ và lòng tự trọng của con gái. Càng tội nghiệp hơn khi cái đói buộc thị phải trở thành “người vợ nhặt” sau một câu nói nửa đùa nửa thật “này nói đùa chứ có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cũng về”. Thế là xong một câu chuyện tình, một cuộc hôn nhân! Sự lãng mạn chỉ là điều không tưởng. Đang trên bờ vực của cái chết, thị còn lựa chọn nào hơn? Trong suy nghĩ của thị, Tràng như một cái phao cứu sinh, cứu thị ra khỏi sự đói khát của thế kỉ. Cái đói đã làm cho thị và biết bao người dân lúc bấy giờ rẻ rúng như vậy. Có ai ngờ được hạnh phúc lứa đôi được xây đắp bằng bốn bát bánh đúc và một lời nói bông đùa? Nhưng trong hoàn cảnh “người chết như ngả rạ”, “không khí ẩm lên mùi ẩm thối của rác tưởi và mùi gây của xác người” thì hạnh phúc tầm thường, đơn sơ kia cũng đáng quý biết bao.

Bên cạnh đó, người vợ nhặt còn là người phụ nữ với lòng ham sống mãnh liệt. Thị đồng ý theo không Tràng là vì để được sống chứ không phải là lẳng lơ. Khát vọng sống mãnh liệt thúc giục thị phải tìm ra lối thoát cho hoàn cảnh thương tâm. Niềm lạc quan lạc sống ấy chính là một phẩm chất đáng quý mà nói như Kim Lân: “Khi viết về con người năm đói người ta hay nghĩ đến những con người chỉ nghĩ đến cái chết. Tôi muốn viết một truyện ngắn với ý thức khác. Trong hoàn cảnh khốn cùng, dù cận kề bên cái chết nhưng những con người ấy không nghĩ đến cái chết mà vẫn hướng tới sự sống, vẫn hi vọng, tin tưởng ở tương lai”. Thị đến với Tràng trước hết làm tìm một chỗ nương tựa trong đói kém. Bởi thế, thị không thể giấu nổi sự thất vọng thầm kín trước gia cảnh thảm thương của gia đình Tràng “cái nhà vắng teo đứng rúm ró trên mảnh vườn mọc lổn nhổn những búi cỏ dại. Thị đảo mắt nhìn quanh, cái ngực gầy lép nhô lên, nén một tiếng thở dài”. Trên đường về nhà chồng, trước những lời bàn tán xôn xao, những chỉ trỏ chòng ghẹo của người dân ngụ cư, người vợ nhặt cảm thấy xấu hổ, ngượng nghịu đến mức “chân nọ bước díu cả vào chân kia”. Về đến nhà chồng, thị thất vọng trước cảnh nhà quá tồi tàn, khổ sở nhưng cố nén lại tất cả vào trong suy nghĩ. Trong tiếng thở dài ấy không chỉ có nỗi thất vọng mà còn xen cả lo toan, ý thức trách nhiệm, bổn phận của mình trong việc xây dựng cuộc sống gia đình về sau..

Nhân vật người vợ nhặt còn để lại ấn tượng sâu sắc cho người đọc bởi những phẩm chất tốt đẹp. Vào trong nhà, thị e thẹn “ngồi mớm” vào mép giường và chào u một cách lúng túng. Khác với vẻ chao chát, cong cớn, chỏng lỏn ban đầu, thị bây giờ là nàng dâu mới với đầy đủ sự ý tứ, cung kính, mực thước. Chính tình cảm yêu thương, sự đùm bọc sẻ chia trong cơn hoạn nạn đã khiến con người sống tốt hơn, ý thức sâu sắc hơn về bổ phận và trách nhiệm của mình. Sáng hôm sau, thị dậy sớm để cùng mẹ chồng dọn dẹp trong ngoài. Đến cả chính Tràng cũng phải ngạc nhiên: “Tràng nom thị hôm nay khác lắm, rõ ràng là người đàn bà hiền hậu, đúng mực, không còn vẻ gì chao chát chỏng lỏn như mấy lần Tràng gặp ở ngoài tỉnh”. Trong bữa cơm đón nàng dâu mới – bữa cơm thảm hại ngày đói, thị vẫn vui vẻ bằng lòng với bát cháo cám đắng chát. Thị là một cơn gió mới trong gia đình. Hiện thực khắc nghiệt, xót xa “người con dâu đón lấy cái bát, đưa lên mắt nhìn, hai con mắt thị tối lại” nhưng thị vẫn “điềm nhiên và vào miệng”. Hoàn cảnh đấy, ai cũng phải cất lại nỗi tủi hờn bên trong để vui vầy cũng hạnh phúc bình dị, đơn sơ. Sự lạc quan được gói trọn trong lời của bà cụ Tứ: “Cám đấy mày ạ, hì. Ngon đáo để, cứ thử ăn mà xem. Xóm ta khối nhà còn chả có cám mà ăn đấy”. Bên cạnh đó, người vợ nhặt còn là người phụ nữ thông minh hiểu biết. Nghe tiếng trống thúc thuế, thị tỏ ra ngạc nhiên hỏi mẹ chồng “Ở đây vẫn phải đóng thuế cơ à?” Câu nói của thị làm Tràng ngờ ngợ vỡ ra trong suy nghĩ “hắn đang nghĩ đến những người phá kho thóc Nhật”, “trong ý nghĩ của hắn vụt ra cảnh những người nghèo đói ầm ầm éo nhau đi trên đê Sộp. Đằng trước có lá cờ đỏ to lắm”…

Điểm nhấn nghệ thuật ở người vợ nhặt chính là nghệ thuật khắc họa nhân vật của nhà văn Kim Lân. Tác giả đã đặt nhân vật trong tình huống “lạ”, “éo le”; diễn biến tâm lí được khắc họa qua các sự kiện với sự quan sát tỉ mỉ, tinh tế qua hệ thống ngôn ngữ giản dị, mộc mạc.

Như vậy, nhân vật người vợ nhặt trong tác phẩm “Vợ nhặt” của Kim Lân là một nhân vật tiêu biểu cho hình tượng người phụ nữ lao động nghèo khổ, đáng thương. Nhưng dù bị đẩy vào hoàn cảnh khốn cùng, thị vẫn ngời sáng bởi lòng ham sống, những phẩm chất tốt đẹp và niềm tin tưởng ở tương lai.

Câu 3: Anh/ chị hãy phân tích tâm trạng nhân vật Tràng trong truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân.

Bài tham khảo

Kim Lân là một cây bút chuyên viết truyện ngắn với đề tài quen thuộc là hình ảnh nông thôn và người nông dân. Khác với tác giả Tô Hoài – ông không khai thác cuộc sống của người dân nơi rẻo cao Tây Bắc mà lại lặn sâu vào cuộc sống của người dân quê – những con người gắn bó thiết tha với quê hương và cách mạng. Trong đó, “Vợ nhặt” là một tác phẩm tiêu biểu minh chứng cho tài năng của Kim Lân. Và trong suốt những trang sách kể về tình huống nhặt vợ có một không hai trong nền văn học Việt Nam, diễn biến tâm lí nhân vật Tràng đã để lại cho người đọc những ấn tượng sâu sắc.

Nạn đói năm 1945 đã khiến cho hơn hai triệu người chết, tình hình đất nước rơi hẳn vào cảnh u ám, tối tăm: “Ta đi giữa đường dương thế/ Bóng tối âm thầm rụng xuống chân cây/ Tiếng xe ma chở vội một đêm gầy/ Xác truỵ lạc rũ bên thềm lá phủ” (Văn Cao). Nhiều gia đình trở thành nạn nhân, rơi vào cảnh khốn cùng, bị đe dọa bởi miếng cơm manh áo, trong đó, có gia đình Tràng. Tràng là một thanh niên xấu xí, nghèo khổ, mưu sinh bằng nghề kéo xe bò thuê, cùng sống với mẹ già nơi xóm ngụ cư. Giữa lúc cái đói đang bám riết sự sống, Tràng dẫn về một người phụ nữ xa lạ, đúng hơn là một người vợ anh mới “nhặt” được bằng bốn bát bánh đúc và một câu nói nửa đùa, nửa thật. Bà cụ Tứ - mẹ Tràng đón nhận người con dâu đáng thương kia bằng tâm trạng ngổn ngang, âu lo. Và kết thúc tác phẩm là chi tiết bữa cơm thảm hại ngày đói được đan cài cùng niềm tin tưởng le lói vào tương lai qua hình ảnh lá cờ trong óc Tràng “Trong óc Tràng vẫn thấy đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới…” Trong suốt đoạn trích, ta có thể dễ dàng quan sát tâm trạng của Tràng qua sự kiện nhặt vợ: Tràng trước khi nhặt được vợ và Trang sau khi nhặt được vợ.

Trước khi nhặt được vợ, sự gặp gỡ giữa Tràng và thị chẳng có gì đặc biệt. Thâm chí, đó còn chẳng được gọi là một cuộc gặp gỡ hay một cuộc hẹn hò đúng nghĩa. Họ chỉ là những người lao động nghèo khổ, những người vật vờ đói khát trong thảm cảnh lịch sử. Họ chỉ là những nạn nhân của mất mát đau thương, ngày ngày đi trên lằn ranh của sự sống và cái chết. Mới lần đầu gặp gỡ, “thị cười tít mắt” với Tràng sau khi đẩy xe bò lên dốc tỉnh. Gặp gỡ lần thứ hai, thị “sưng sỉa, cong cớn, chao chát, chỏng lỏn” đòi ăn cho bằng được. Cô dâu của Tràng đích thị là nạn nhân của cái đói. Chỉ tầm phơ tầm phào có hai bận như thế, Tràng và thị đã thành vợ thành chồng. Tràng hò chơi cho đỡ nhọc, Tràng mời thị bốn bát bánh đúc vì lời thất hứa và sự xót thương cho hoàn cảnh: “thị rách quá, áo quần tả tơi như tổ đỉa, thị gầy sọp hẳn đi, trên cái khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt” và cùng lời nói đùa: “Làm đếch gì có vợ. Này nói đùa chứ có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về”. Nhưng ai ngờ được: “Nói thế Tràng cũng được là nói đùa, ai ngờ thị về thật”. Tràng thật sự thấy lo lắng cho cuộc hôn nhân quá đỗi bất ngờ: “Mới đầu anh Tràng cũng chợn, nghĩ: thóc gạo này đến cái thân mình cũng chả biết có nuôi nổi không lại còn đèo bòng”. Nhưng sau đó, sự lo lắng của Tràng bắt đầu nhường chỗ cho hạnh phúc mới – hạnh phúc lứa đôi – dù là lứa đôi khốn khổ và bất hạnh: “Chậc, kệ!”.

Sau khi nhặt được vợ, tâm trạng Tràng có sự thay đổi rõ rệt. Có ai ngờ được làm câu hôn ngờ nghệch đã thay đổi tâm trạng và số phận của những con người trong gia đình đói khổ. Đời sống tinh thần chuyển những gam màu u ám, chết chóc sang ấm áp và hi vọng. Trong hoàn cảnh khốn cùng, Tràng vẫn khao khát hạnh phúc, có ý thức tạo dựng mái ấm gia đình. Khi chấp nhận thị làm vợ, Tràng đã thể hiện sự quan tâm, chăm sóc của một người chồng: “hắn đưa thị vào chợ tỉnh bỏ tiền ra mua cho thị cái thúng con đựng vài thứ lặt vặt và ra hàng cơm đánh một bữa no nê…” Tràng còn hào phóng “mua hai hào dầu để thắp sáng”. Trên đường về nhà, Tràng cảm nhận được niềm vui mới đang len lỏi trong từng nấc thang suy nghĩ “phớn phở khác thường”. Thỉnh thoảng lại còn cười nụ một mình. Khi đi bên thị, Tràng rụt rè bỡ ngỡ khác thường, khi thì hắn đi sát người đàn bà, lúc lại lùi ra sau một tí, hai tay cứ xoa vào vai nọ vai kia. Tràng muốn nói bông đùa đôi câu nhưng lại cứ cảm thấy ngường ngượng. Ngòi bút tài hoa của Kim Lân đã cho người đọc thấy được diễn biến tâm lí chân thực, sinh động của Tràng. Tràng hôm nay đã thực sự khác với Tràng hôm qua. Một cuộc hôn nhân đã khơi dậy biết bao nhiêu cảm xúc thầm kín bên trong, bao nhiêu phẩm chất tốt đẹp chưa có điều kiện bộc lộ. Cảnh đời tối tăm, sự đói khát dường như đã tạm lùi để còn lại là niềm vui sướng miên man: “Trong một lúc Tràng hình như quên hết những cảnh sống ê chề, tăm tối hằng ngày, cái đói khát ghê gớm đang đe dọa, quên cả những tháng ngày trước mặt. Trong lòng hắn bây giờ chỉ còn tình nghĩa giữa hắn với người đàn bà đi bên. Một cái gì mới mẻ, lạ lắm, chưa từng thấy ở người đàn ông nghèo khổ ấy, nó ôm ấp, mơn man khắp da thịt Tràng, tựa hồ như có bàn tay vuốt ve dọc sống lưng”. Hạnh phúc đã thực sự làm thay đổi mọi thứ.

Về đến nhà, lúc đầu Tràng cảm thấy “ngượng nghịu” rồi cứ thế “đứng tây ngây ra giữa nhà, chợt hắn thấy sờ sợ”. Nhưng đó chỉ là cảm giác thoáng qua. Tràng vẫn sung sướng tột bực, sung sướng đến mức không dám tin là mình đã có vợ - lại có vợ trong hoàn cảnh trớ trêu, éo le như thế này: “hắn vẫn ngờ ngợ như không phải thế. Ra hắn đã có vợ rồi đấy ư?”. Trong lúc đợi bà cụ Tứ về, Tràng nôn nóng sốt ruột, cứ đi đi lại lại. Chưa bao giờ hắn lại thấy nôn nóng như thế. Phải chăng Tràng nóng lòng thông báo tin vui này cùng mẹ, nóng lòng khoe cái hạnh phúc đơn sơ giản dị này cho những người thương yêu? Khi mẹ về, hắn mừng rỡ, rối rít như trẻ con. Anh không phải là người vô tư, nông cạn mà vô cùng sâu sắc và hiểu đời. Tràng đã ý thức được việc lấy vợ là hệ trọng cả đời, ý thức được sự thay đổi tinh thần của mình. Đây là khoảnh khắc thiêng liêng mà trong hoàn cảnh đói kém đương thời, không phải ai cũng có được.

Sáng hôm sau, cảm nhận đầu tiên của Tràng là: “Trong người êm ái, lửng lơ như người vừa ở trong giấc mơ đi ra”. Tràng cảm động khi thấy hình ảnh mẹ và vợ dọn dẹp lại nhà cửa, cảm động nghe tiếng chổi sàn sạt trên sân. Sự yêu thương nảy nở từ bên trong: “Bỗng nhiên hắn thấy thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng. Hắn đã có một gia đình. Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đấy. Cái nhà như cái tổ ấm che mưa che nắng”. Tràng bắt đầu suy nghĩ về ý nghĩa của sự sống, suy nghĩ về cuộc đời ở tương lai. Khi nghe tiếng trống thúc thuế ngoài đình vang lên dữ dội, Tràng đã thần mặt ra nghĩ ngợi. Tràng nghĩ đến cảnh “những người nghèo đói ầm ầm kéo nhau đi trên đê Sộp” để cướp kho thóc của Nhật và “đằng trước là lá cờ đỏ”.

Xây dựng nhân vật Tràng, Kim Lân đã cho người đọc thấy được tài miêu tả diễn biến tâm lí nhân vật. Lúc này đây, Tràng không còn là nhân vật khô cứng trên trang giấy nữa mà như một con người thật hiển hiện trước mắt người đọc. Đặt nhân vật trong một hoàn cảnh độc đáo cùng với ngôn ngữ phù hợp với tính cách, Kim Lân đã khắc họa thành công giá trị hiện thực cùng giá trị nhân đạo cao cả, thể hiện niềm tin yêu vào cuộc sống, về tương lai như lời ông từng nói về tác phẩm: “Tôi muốn cho độc giả thấy dù hoàn cảnh thế nào đi nữa thì tình người vẫn vượt lên trên tất cả. Có tình người là có cuộc sống. Có tình người là có hi vọng vào tương lai”.

Tóm lại, qua diễn biến tâm trạng nhân vật Tràng, Kim Lân đã cho người đọc thấy được vẻ đẹp tâm hồn và tính cánh nhân vật. Chính những con người như Tràng, như thị, như bà cụ Tứ đã làm cho ta thực sự yêu thương, khâm phục và kính trọng.

 Bài tập 4: Phân tích giá trị độc đáo của tình huống truyện Vợ Nhặt trong tác phẩm cùng tên của nhà văn Kim Lân. Từ đó nhận xét về thái độ của nhà văn với con người và thực trạng xã hội đương thời.

Bài tham khảo

Sự thăng hoa của tác phẩm phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó không thể không kể đến việc sáng tạo ra tình huống truyện độc đáo. Kim Lân là một nhà văn nông thôn chuyên viết về những chuyện nông thôn như: Làng, Vợ nhặt, Con chó xấu xí, Chuyện ông già trên núi Côi Kê….Trong đó, “Vợ nhặt” là tác phẩm góp phần làm nên tên tuổi nhà văn Kim Lân với những nghệ thuật sáng tạo độc đáo: đó là tình huống truyện.

Tình huống truyện được hiểu là tình thế xảy ra truyện, là “cái khoảnh khắc mà trong đó sự sống hiện ra rất đậm đặc”, là “cái khoảnh khắc chứa đựng cả đời người” (Nguyễn Minh Châu). Qua tình huống truyện, chúng ta có thể thấy rõ mối quan hệ giữa nhân vật với nhân vật, giữa nhân vật với hoàn cảnh, góp phần nổi bật tư tưởng của tác phẩm. Tình huống truyện “Vợ nhặt” vừa là một tình huống lạ, độc đáo lại vừa là một tình huống oái oăm, trớ trêu.

Tình huống truyện trong “Vợ nhặt” vô cùng độc đáo: Đó là việc anh Tràng lấy được vợ trong nạn đói lịch sử, trong những ngày mà người chết đầy đường, đoàn người dắt díu nhau đi tìm cái ăn, xóm ngụ cư đêm dêm vang lên trong tiếng hờ khóc người chết.

Tình huống ấy trước hết được coi là tình huống lạ, độc đáo. Ta thấy hành động lấy được vợ của Tràng vô cùng khác thường mà phải gọi là “nhặt vợ” thì đúng hơn. Dưới mắt những người dân xóm ngụ cư, người như Tràng lấy được vợ là chuyện không tưởng. Quan niệm dân gian trước giờ luôn xem nhẹ việc lấy chồng ngụ cư – vốn là tầng lớp dưới đáy thường bị xã hội xem thường, rẻ khinh. Hơn nữa, Tràng lại là một người xấu xí, nghèo khổ. Giữa thời buổi ấy, nuôi được thân mình đã khó mà lại còn đèo bòng chuyện vợ con. Nhưng đáng thương hơn cả là hành động nhặt vợ ấy. Vợ - đáng lẽ hải được cưới hỏi tử tế, đàng hoàng, phải đầy đủ mâm cỗ rước về nhưng nay lại rẻ rúng bằng một câu nói bông đùa và bốn bát bánh đúc. Tràng nhặt được vợ trong một tình huống vừa kì quặc, vừa oái oăm, vừa vui mừng, vừa bi thảm. Mặc dù lạ nhưng việc Tràng lấy được vợ là điều vô cùng hợp lí. Người đọc toàn hoàn bằng lòng với việc xảy ra. Anh Tràng lấy vợ lúc này là đúng bởi vì nếu không phải năm đói thì chắc chẳng có người đàn bà nào chịu lấy anh. Hơn nữa, hành động nhặt vợ kia còn thể hiện được sự cưu mang, đùm bọc lẫn nhau của những con người năm đói.

Bên cạnh đó, tình huống truyện còn thể được sự éo le, oái oăm, trớ trêu. Nếu trong hoàn cảnh bình thường thì anh Tràng lấy vợ là niềm vui cho bà mẹ và xóm ngụ cư. Vậy mà éo le thay, việc anh Tràng lấy vợ không biết là nên vui hay nên buồn. Chính Tràng ban đầu cũng không ngờ được việc mình lấy được vợ. Chỉ bốn bát bánh đúc và một câu bông đùa – hôn nhân chưa bao giờ tưởng có thể đơn giản được như thế. Dưới con mắt của người dân xóm ngụ cư, anh Tràng lấy vợ khiến người ta tò mò, ngạc nhiên, lo sợ cho anh. Tình hình hiện tại biết bao u ám “cái đói đã tràn đến xóm này tự lúc nào” thế nhưng Tràng vẫn đèo bòng chuyện vợ con. Với bà cụ Tứ, bà còn nghĩ đến những điều tệ hại hơn: “biết rằng chúng nó lấy nhau liệu có nuôi nổi nhau qua cơn đói khát này không?”. Với Tràng, anh đã từng cảm thấy hơi chợn khi nghĩ về niềm hạnh phúc bé nhỏ vừa tìm được “thóc gạo này đến thân mình chẳng biết có nuôi nổi không lại còn đèo bòng?” Với thị - người vợ vừa được nhặt về, nỗi tủi hổ dường như lấn át cả niềm vui. Nói trắng ra, thị lấy Tràng cũng vì muốn sống sót qua cơn đói, muốn tìm một chiếc phao cứu sinh. Sự éo le ấy còn lan tỏa ra khung cảnh xung quanh. Đêm tân hôn của hai người khốn khổ diễn ra trong cái gió lồng lộng từ bờ sông thổi vào, ngọn đèn dầu vàng đục và tiếng hờ khóc của người chết vang lên trong xóm ngụ cư.

Từ những điều đã phân tích trên, ta thấy tình Tràng lấy được vợ mang lại giá trị hiện thực sâu sắc. Trước nhất, nó phơi bày số phận của người nông dân trước cách mạng tháng tám. Vì nghèo khổ nên Tràng không thể nào lấy được vợ, phải chờ đến cơ hội “trời cho”. Càng mỉa mai hơn khi cơ hội ấy chính là nạn đói lịch sử, là thảm cảnh đau thương của biết bao con người chết đói khiến cho người đàn bà tự nguyện vứt bỏ nhân phẩm, vứt bỏ giá trị theo không anh về làm vợ. Con người hiện lên như cái rơm, cái rác bị vứt ngoài lề cuộc sống. Trong khung cảnh đói khát ấy, anh lấy vợ mà chẳng ai mừng cho, bữa cơm đầu tiên sau ngày cưới thật thảm hại, lấy vợ trong nỗi xót xa, cay đắng khôn cùng.

Giá trị nhân đạo trong tác phẩm “Vợ nhặt” cũng là điều khiến người đọc phải suy nghĩ trước sau. Kim Lân đã gợi lên trong lòng người đọc niềm xót xa khôn nguôi, qua đó gợi cho người đọc sự cảm thông về số phận người dân nghèo. Đồng thời, góp phần phát hiện phẩm chất đáng quí của người nông dân ngay giữa hoàn cảnh đói khát. Trong cái đói, mẹ con anh đã biết cưu mang một người xa lạ. Việc Tràng cưới vợ trước xuất phát từ bản chất xót thương, muốn cứu vớt thị. Lời mời “có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về” có vẻ như đùa nhưng thực ra là cơ hội dễ dẫn thị từ bên bờ vực của cái đói, cái chết về đến hạnh phúc gia đình. Tràng lo lắng, quan tâm, trân trọng từng hạnh phúc bình dị, đơn sơ: đưa chị vào hàng ăn một bữa cơm thật no, sắm cho chị một cái thúng con đựng vài thứ lặt vặt, mua dầu thắp đèn cho sáng đêm tân hôn… Tràng còn âm thầm theo dõi thái độ của thị và cảm thấy lo lắng trước sự lặng lẽ: “quái sao nó lại buồn thế nhỉ”? Tràng giới thiệu thị với mẹ một cách đàng hoàng để thị vơi bớt tủi hổ: “Nhà tôi nó mới về làm bạn với tôi đấy u ạ! Chúng tôi phải duyên phải kiếp với nhau”. Đặc biệt, Kim Lân qua việc khắc họa nhân vật còn thể hiện niềm tin vào sự đổi đời. Đây là nét nhân đạo mới mẻ ở ông. Nghe vợ kể chuyện nông dân Thái Nguyên, Bắc Giang phá kho thóc chia cho dân nghèo khiến Tràng chợt nhớ đến cảnh đoàn người với cờ đỏ sao vàng trên đê Sộp. Phải chăng anh thấy tiếc vì không tham gia đoàn biểu tình ấy? Ở những con người năm đói là sự vươn lên mạnh mẽ. Cái đói không những không đánh gục ngã được họ mà làm cho họ tìm thấy niềm tin ở tương lai.

Tóm lại, tính huống Tràng lấy vợ thực sự mang lại cái nhìn tin tưởng của người đọc về sự thay đổi của số phận người nông dân. Chính vì vậy, qua “Vợ nhặt”, chúng ta càng hiểu hơn về tư tưởng của Kim Lân: “Các nhà văn viết về cái đói ở khía cạnh tối tăm và bất lực của con người trước nó (…) Khi tôi viết, ý tưởng thường trực trong tôi là những người dù đói thế nào đi chăng nữa vẫn luôn khao khát cuộc sống tốt đẹp hơn, vẫn tin tưởng một cách mơ hồ vào cuộc sống tương lai. Cái “mơ hồ” ấy là do cuộc sống thực tại luôn hành hạ họ”.

Bài tập 5: Giá trị nội dung và nghệ thuật trong Vợ nhặt của Kim Lân

1. Giá trị nội dung

  •  Giá trị hiện thực:

o Tình cảnh thê thảm của người nông dân VIệt Nam trong nạn đói khủng khiếp năm 1945, đã bị cướp đi sinh mạng.

o Đó là hệ quả của những chính sách hà khắc, vô nhân tính của bọn thực dân Pháp và phát xít Nhật: Đằng thì bắt đóng thuế, đằng thì bắt nhổ lúa trồng đay. Dân ta lâm vào cảnh một cổ hai tròng áp bức do sự đê hèn, đốn mạt của thực dân Pháp

  •  Giá trị nhân đạo

o Tố cáo tội ác của bọn thực dân, phát xít và khẳng định tội ác mà chúng đã gây ra cho mảnh đất, con người Việt Nam

o Niềm cảm thương, chia sẻ của tác giả trước những đau đớn, mất mát mà người nông dân nghèo đang phải đối mặt. 

o Ca ngợi sức sống mãnh liệt, khao khát được yêu thương, được sống hạnh phúc với gia đình nhỏ và niềm tin tưởng vào một tương lai tươi sáng đang chờ đợi họ mặc cho cái chết đang đeo đuổi và có thể đến với họ bất cứ lúc nào.

o Cách mạng chính là con đường đưa họ thoát khỏi cuộc sống khốn cùng này mà đến gần hơn với hi vọng, cuộc sống tốt đẹp với hình ảnh lá cờ đỏ phấp phới trong suy nghĩ của Tràng ở cuối truyện.

2. Giá trị nghệ thuật

  •  Cách xây dựng tình huống truyện độc đáo, đầy éo le nhưng nhờ thế mà các nhân vật của Kim Lân xuất hiện mà bộc lộ hết những phẩm chất tốt đẹp của mình.
  •  Nghệ thuật kể chuyện hấp dẫn, không kịch tính nhưng sự sắp xếp các chi tiết gây được sự hứng thú, tò mò cho người đọc.
  •  Bút pháp miêu tả tâm lí, thế giới nội tâm nhân vật tinh tế
  •  Ngôn ngữ gần gũi, giản dị, mộc mạc

Câu 6. Cảm nhận về nhân vật Tràng trong tác phẩm “Vợ nhặt” của nhà văn Kim Lân.

Bài tham khảo

Kim Lân thuộc tốp những nhà văn viết ít, trong khi một số tác giả như Tô Hoài có đến hàng trăm tác phẩm, thì số tác phẩm của Kim Lân có thể đếm được trên đầu ngón tay. Nhưng những gì mà ông để lại nhớ nhiều , nhớ mãi. Chỉ một “vợ nhặt”, một “làng” cũng đủ để đưa ông lên hàng những tác giả nổi tiếng.

“Vợ Nhặt” chỉ có 3 nhân vật, mà nhân vật nào cũng có ấn tượng. Có những nhân vật không tên nhưng lại có khả năng lưu danh muôn thuở. Nói vậy là để thấy tài sáng tạo cuả Kim Lân và  sức sống tiềm tàng của tác phẩm.

Tràng là một thanh niên đứng tuổi, hình hài thô tháp, lại còn là kẻ nghèo nhất trong xóm ngụ cư. Nhà tràng chỉ là một căn lều dúm dơ, xiêu vẹo mà có thể gió thổi bay lúc nào không biết.

Mẹ Tràng đã già lại yếu “đôi mắt nhòe”, “đôi tai nghễnh đãng, dáng đi lỏng thỏng, cử chỉ lập cập, lóng ngóng”. Nói cách khác,  bà trụ lại với đời như thể đang chờ đợi tử thần đến rước đi. Trong cái đói khủng khiếp  năm Ất Dậu -1945, mẹ con Tràng lê lết cầm hơi, tồn tại từng ngày nhờ vào công việc  kéo xe của Tràng. Tính tình của Tràng ngay cả trẻ con cũng bỡn cợt, trêu chọc chứng tỏ anh có lớn mà trí khôn không lớn. Trong mắt mọi người Tràng luôn luôn có thể bị khinh thường, giễu cợt.

Từ cái hoàn cảnh ấy, có thể khẳng định: Tràng sẽ không bao giờ mơ đến chuyện lấy vợ. 

Nhưng điều đáng quý ở Tràng là ngay cả trước thực trạng ấy, một thực trạng bi thảm anh vẫn trếu táo, tự trào, còn biết bông đùa. Thế rồi trong một lần tình cờ đang gò lưng kéo xe thóc vào dốc tỉnh. Tràng tự hò một câu để an ủi mình cho đỡ mệt. Điều quan trọng là câu hò ấy có cụm “ cơm trắng mấy giò” và dĩ nhiên mấy tiếng ấy lập tức làm cho những người phụ nữ đã mấy ngày ngồi vêu ra ở chợ không thể không để ý, và đã có một ả sán lại gần,biến sự đùa của Tràng thành sự thật. Tràng không ngờ mình đói lại còn có kẻ đói hơn mình. Tràng cho người phụ nữ ấy ăn, tình thương người đã dẫn Tràng đến vơi nghĩa cử hào hiệp trong cơn đó khát. Tràng không chỉ cho người phụ nữ ấy ăn như là cách bố thí mà Tràng còn  cho Thị ăn bằng của tình yêu thương, sự đồng cảm và bằng sự cưu mang, chia sẻ. Nhưng rồi một tình huống không ngờ rằng  người phụ nữ ấy không những cần tràng một bựa ăn mà còn muốn tìm ở Tràng mọt điểm tựa suốt đời. Khi biết Tràng chưa có vợ, người phụ nữ đã dũng cảm tiến lên để được làm vợ Tràng. Vậy là với Tràng lúc này,không còn là chuyện bông lơn, bỡn cợt nữa mà là trở thành chuyện hệ trọng của cả cuộc đời người. Tràng ứng xử hoàn toàn khác, một cách nghiêm túc, đứng đắn và anh đã chủ động  vào chợ sắm cho Thị mấy thứ và “ ra hàng cơm đánh một bữa thật no nê”. Với Tràng đó có thể là những thứ dẫn cưới, một cổ cưới chăng? Từ giây phút này Tràng đã sống với Thị như những người đang yêu và được yêu, cũng cho thấy cũng  từ tình thương mà chuyển đến tình yêu là chuyện quá bất ngờ và đột ngột. Nhưng Tràng không hề lung túng, bối rối trước tình huống đó. Rồi chính anh cũng chủ động dắt người con gái ấy về để tình mẹ một cách đàng hoàng, nghiêm túc.

Thú vị thay, con đường từ chợ về nhà vốn dĩ là con đường tử thần ngự trị, con đường của sự chết chóc, nay đã trở thành một con đường xôn xao, rạo rực của ái tình. Mà Tràng là một nửa làm nên sự xôn xao, rạo rực ấy.

Về đến nhà, tuy chưa tin được rằng là mình đã có vợ, nhưng Tràng đã biết làm tròn nhiệm vụ của một người chồng.  Tràng đã biết cùng với vợ làm nên một tổ ấm trong cảnh cơ hàn. Tràng đã cảm nhận được cái đẹp của tình yêu, cái giá của ái ân, hạnh phúc “phởn phơ hư…” Chính Tràng trong cơn đói khát như một  thân phận, bèo bọt đã dạt trôi đến với một thân phận bèo bọt khác, nhưng cả hai đã không làm cho nhau bèo bọt hơn nữa. Ngược lại đã biết nương tựa vào nhau để sống, để hướng tới tương lai.

Kim Lân đã có những trang viết rất hay để miêu tả tâm lý nhân vật. Tràng giống như một đứa con tinh thần của Kim Lân. Tình huống nhặt vợ đầy bất ngờ và đặc biệt nhưng đã thể hiện được tư tưởng sâu sắc của tác phẩm đó chính là dù người nghèo đói, cùng cực nhưng họ luôn nghĩ đến sự sống chứ không phải là cái chết, luôn có niềm tin vào tương lai tươi đẹp. Qua Tràng ta cũng đã cảm nhận được một tâm hồn trong sáng đẹp đẽ của người dân lao động nghèo, đó chính là tình người và hi vọng.

Người viết: Đặng Triệu Mận

Bài tập 7: Ai đó đã từng nói: “Văn chương có hai loại, một loại đáng thờ và một loại không đáng thờ. Loại không đáng thờ là loại chú ở văn chương, loại đáng thờ là loại chú ở con người”; hãy phân tác phẩm “Vợ nhặt” của Kim Lân để làm rõ luận điểm đó.

Bài tham khảo

“Vợ nhặt” của Kim Lân là một tác phẩm hướng đến con người với những mộc mạc, gần gũi nhất. Rất đúng với lời bình “Văn chương có hai loại, một loại đáng thờ và một loại không đáng thờ. Loại không đáng thờ là loại chú ở văn chương, loại đáng thờ là loại chú ở con người”. Nét bút văn học của Kim Lân chính là loại đáng thờ như trong luận điểm đó, điều này được thấy rõ qua ngòi bút của ông trong tác phẩm “Vợ nhặt”.

Kim Lân là nhà văn chuyên viết về truyện ngắn. Đề tài của ông thường gắn liền với hơi thở ruộng đồng Bắc Bộ nơi những con người quê hương chân chất thật thà, coi trọng nghĩa tình, rất nhân hậu và giàu yêu thương. “Vợ nhặt” là tác phẩm tiêu biểu của Kim Lân được trích trong tập truyện “Con chó xấu xí”. Bằng tài năng nghệ thuật bậc thầy, nhất là bậc thầy của miêu tả tâm lý. Kim Lân đã mang đến cho người đọc sự xúc động mãnh liệt thông qua hình ảnh anh cu Tràng, chị vợ nhặt và bà cụ Tứ.

Giữa những tháng ngày đói khổ, mạng người trở nên rẻ rúng thì bỗng hiện lên tình người lớn lao chợt sáng ngời trong đó, những con người hướng đến tương lai tốt đẹp hơn. Trong luận điểm ở trên có nói văn chương đáng thờ là loại chú ở con người, có nghĩa con người là tâm điểm của vũ trụ văn chương, là cái nên bàn và nên nhắc đến. Vì văn chương là cái thực được tìm tòi và được nhìn thấu, nó sinh ra từ cảm quan của con người. Chỉ khi cái thực ấy được đưa vào văn chương thì nó mới trở nên đáng chú ý và trở nên tốt đẹp hơn.Và tác phẩm này của nhà văn đã toát hết được cái hồn đó của văn chương, làm văn chương đẹp hơn thiết thực và gần gũi hơn.

Theo Kim Lân, “nhặt” có nghĩa là nhặt nhạnh, lựa chọn một cách ngẫu nhiên. Vợ nhặt là vợ theo không, không cưới xin, lễ nghi đàng hoàng, tử tế. Thông thường, người ta chỉ nhặt cọng rơm, cọng rác chứ không ai nhặt được vợ. Trong hoàn cảnh này, thân phận con người rẻ rúng hơn bao giờ hết. Kim Lân đã xây dựng một tình huống truyện bất ngờ nhưng cũng đầy nghịch cảnh, bi hài. Giữa nạn đói, giữa lúc thân mình còn chưa biết có lo nổi hay không thì anh cu Tràng lại nhặt được vợ. Chỉ bằng vài câu nói đùa, bốn bát bánh đúc mà một anh chàng xấu trai, nghèo khổ lấy được vợ. Và cũng có thể do hoàn cảnh đói khát đến cùng quẫn mà thị chịu theo không Tràng.

Nói về anh cu Tràng, là một anh nông dân nghèo khổ, xấu xí, ế vợ; thế mà trong những ngày đói khổ nhất, xác chết nhan nhản đầy đường thì anh lại đèo bòng lại rước thêm cái của nợ đời, thêm một miệng ăn trong khi không biết anh có lo nổi bản thân mình không. Tuy nhiên với một vẻ ngoài hơi dở, thô kệch xấu xí không ai theo đó lại là một tấm lòng nhân hậu, anh được người ta theo không mà vẫn tôn trọng và nhận thấy trách nhiệm của mình. Chỉ với vài câu đùa vu vơ

“Muốn ăn cơm trắng mấy giò

Thì lại đây đẩy xe bò với anh, nì”

 và một chặp bốn cái bánh đúc thì anh bỗng nhiên có được vợ, giữa lúc chính bản thân còn không lo được mà anh lại chấp nhận mang theo một người về nhà mình. Anh còn lo nghĩ chuẩn bị bao nhiêu thứ mặc dù vẫn nhận ra gia cảnh mình nghèo, cái tặc lưỡi “chậc kệ” của anh cũng đã bao chứa biết bao suy nghĩ và lo ấu trong đó. Nhưng anh khao khát hạnh phúc, mong có một mái ấm nho nhỏ như bao người để vun vén và phấn đấu. Mặc dù trong hoàn cảnh khốn cùng nhưng anh cu vẫn luôn rất tử tế với người vợ nhặt của mình anh mua cho thị cái thúng con đựng vài đồ lặt vặt rồi cùng thị đánh chén một bữa no nê rồi mới cùng nhau đẩy xe bò về. Tràng cũng có tâm lý của người đàn ông sắp đưa vợ ra mắt gia đình, cũng bồi hồi và lo lắng, Tràng cứ đi ra đi vào xem mẹ về chưa để nói với mẹ về người con dâu mới, dù là người vợ tầm phơ tầm phào gặp nhau vài bữa nhưng anh vẫn luôn coi trọng thị, nanag niu thị và cứ phớn phở khác thường, ngày hôm sau anh thức giấc trong trạng thái hoàn toàn mới ý thức được trách nhiệm của bản thân với mẹ, với vợ. Kim Lân quả thật rất yêu nhân vật của mình, ông vẽ lên hình ảnh thực mà đẹp đến thế, không vương chút khổ đau, tha hóa của hoàn cảnh tăm tối ấy. Anh cu Tràng như tia sáng giữa bầu trời tối tăm mù mịt.

Nhân vật thị - người vợ nhặt hiện lên giữa cái đói khát ấy mang đầy vất vả, ngay cả cái tên người ta cũng không biết chỉ gọi là “thị”. Trong ba nhân vật, người vợ nhặt là nhân vật được nói đến ít nhất. Thực ra, nếu không có nhân vật người “vợ nhặt” thì nội dung và nghệ thuật của tác phẩm bị ảnh hưởng rất nhiều bởi đây là nhân vật làm nên giá trị nội dung và tư tưởng của tác phẩm, có vai trò quyết định đến sự hình thành các hình thức nghệ thuật khác. Người vợ nhặt là một nhân vật không có tên gọi, lai lịch, gốc gác, ngoại hình tiều tụy nhưng là một người vợ đúng mực, một người con dâu hiếu thảo và là người đem đến niềm vui, niềm lạc quan cho mọi người. Ngoại hình của thị được tác giả miêu tả rất tỉ mỉ: “Cái nón rách tàng nghiêng nghiêng che mất đi nửa mặt”. Khi tác giả quay ngược trở lại thời gian ở lần gặp thứ hai của thị với Tràng, ta thấy thị giống như bao kẻ đói khát khác: “Hôm nay trông thị rách quá, áo quần tả tơi như tổ đỉa, thị gầy sọp hẳn đi, trên cái gương mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt”. Ngoại hình của thị trông rất tiều tụy, thị là hiện thân của những con người bần cùng đói phát phải “tha hương cầu thực”, “tối đâu là nhà, ngã đâu là giường” (Nguyễn Khải). Vì khát vọng được sống mà thị phải chỏng lỏn, phải cong cớn để được ăn và cứ thế theo không một người đàn ông xa lạ, có lẽ thị khổ quá rồi, nhưng niềm hy vọng được sống không cho phép thị buông bỏ, nên thị phải rũ bỏ lòng tự trọng và niềm kiêu hãnh của người phụ nữ để được sống, thị ăn một chặp bốn cái bánh đúc. Thị ăn cho quá khứ cho hiện tại và cho cả tương lai, điều này chứng tỏ khát khao sống mãnh liệt của thị, vẫn mong muốn tương lai. Tuy nhiên nếu thị chỉ hiện lên trong dáng vè chỏng lỏn, cong cớn thì ít ai biết được vẻ đẹp bên trong của thị, thị vẫn là một người phụ nữ đúng nghĩa. Nhưng không, Kim Lân đã cho người ta thấy cái đẹp nơi thi, để người ta thấy hình ảnh một người vợ mới biết thẹn thùng, biết thấu hiểu, khi về đến nhà thấy gia cảnh nhà anh cu Tràng nhúm nhó, tồi tàn thị đã có thất vọng nhưng không hề bộc lộ ra ngoài mà nén lại một tiếng thở dài. Rồi thị lại là người con dâu biết san sẻ niềm vui nỗi buồn, biết yêu thương vun vén và thông cảm cho gia đình chồng. Thị đã ảnh hưởng rất nhiều đến các nhân vật khác trong tác phẩm:  Đối với người dân xóm ngụ cư, người vợ nhặt đem đến cho họ niềm tin vào sự đổi thay. Đối với bà cụ Tứ, người “vợ nhặt” đã đem đến cho bà niềm an ủi, niềm hạnh phúc lớn lao ở cái tuổi gần đất xa trời. Bà cụ Tứ vui mừng khi thấy con cái trưởng thành, con trai mình đã có vợ bà lại nghĩ đến tương lai con cháu mình sau này. Đối với Tràng, người “vợ nhặt” đem đến niềm hạnh phúc thực sự cho Tràng.

Và hình ảnh đẹp nhất về người mẹ, bà cụ Tứ hiện lên thật mộc mạc mà cũng thật lớn lao với tình thương cao cả. Lòng người mẹ nghèo ấy thật đẹp. Khởi đầu tâm lí ở bà cụ Tứ là ngỡ ngàng trước một sự việc dường như không hiểu được. Cô gái xuất hiện trong nhà bà phút đầu là một hiện tượng lạ. Trạng thái ngỡ ngàng của bà cụ Tứ được khơi sâu bởi hàng loạt những câu hỏi nghi vấn: "Quái sao lại có người đàn bà nào ở trong nhà ấy nhỉ? Người đàn bà nào lại đứng ngay đầu giường thằng con mình thế kia? Sao lại chào mình bằng u? Không phải con cái Đục mà. Ai thế nhỉ?" Rồi lại: "Ô hay, thế là thế nào nhỉ?". Sự ngạc nhiên này thể hiện nỗi đau của người viết: chính là sự cùng quẩn của hoàn cảnh đánh mất ở người mẹ sự nhạy cảm trước việc con trai yêu quý của mình có vợ. Người ta có vợ lúc ăn nên làm ra, ấy vậy mà con mình phải đến khi cuộc sống trở nên mong manh, con người phải dựa vào nhau mà sống thì con mình mới lấy được vợ. Lòng người mẹ ấy vừa tủi hờn, vừa thương xót, thương con trai và thương cả người đàn bà lạ kia; vì chúng nó đến với nhau trong những tháng ngày nguy khốn nhất, nuôi một miệng ăn còn chưa đủ nay lại thêm miệng ăn nữa, cuộc sống đã bế tắc lại thêm phân bế tắc. Tấm lòng của người mẹ ấy sáng lên trong thái độ của bà với việc con mình có vợ, bà tủi hờn cho số phận nhưng không hề trách cứ hay xua đuổi người con dâu; bà chỉ cúi đầu nín lặng rồi nhẹ nhàng chấp nhajajn người con dâu. Bữa sáng đầu tiên khi nhà có thành viên mới thật đẹp, bà mẹ ấy đã nấu cháo cám đắng chat nhưng lại đầy ngọt ngào, đó là vị “ngon”, ngọt của tình yêu thương đầy ắp mà người mẹ dành cho những đứa con của mình. Bữa ăn vui vẻ lạ thường, giữa cái đói khổ tưởng như không thoát ra được thì những con người đó lại quay quần bên nhau để bàn chuyện đời, chuyện tương lai phía trước. Đó là niềm tin mãnh liệt của người mẹ nghèo đối với những đứa con của mình, mong sao các con vượt qua được đói khổ mà tiến lên phía trước, hướng đến một tương lai tươi sáng hơn.

Truyện mở ra bằng cảnh chiều chạng vạng và kết thúc trong buổi sáng mùa hè với ánh nắng chói lóa, rực rỡ, các nhân vật bắt đầu bằng không gian ảm đảm chết chóc của xóm ngụ cư dưới gầm trời đói khát và khép lại bằng khung cảnh đầm ấm của một gia đình quây quần bên mâm cơm ngày đói. Cách kết thúc đã cho người đọc tin tưởng và tương lai cuộc đời các nhân vật “hãy hướng về phía mặt trời, bóng tối sẽ ngả về sau lưng bạn”. Dù khó khăn đến đâu thì hạnh phúc lứa đôi vẫn đủ khả năng thay đổi con người và hoàn cảnh. Vẻ đẹp con người trong Vợ Nhặt đã là minh chứng rõ nét cho câu nói “loại đáng thờ là loại chú ở con người”, bởi vì nếu văn chương chỉ là văn chương thôi thì nó thực sự sẽ sáo rỗng và không có linh hồn.

III. Soạn bài ngắn nhất: Vợ Nhặt

Bài tập 1: Bố cục: 4 phần

- Phần 1: từ đầu … tự đắc với mình

=> Tràng đưa người vợ nhặt về nhà.

- Phần 2: tiếp … đẩy xe bò về

=>kể lại chuyện hai người gặp nhau và nên vợ nên chồng.

- Phần 3: tiếp … nước mắt chảy ròng ròng

=> Tình thương của người mẹ nghèo khó.

- Phần 4: còn lại

=>niềm tin vào tương lai tươi sáng.

Mạch truyện dẫn dắt hợp lý, tác phẩm lại mở ra từ cảnh Tràng đưa "vợ nhặt" về nhà gặp mẹ rồi mới kể lại chuyện hai người gặp nhau và nên duyên vợ chồng. 

Bài tập 2:  Bà cụ Tứ, và cả bản thân Tràng đều đã ngạc nhiên vì Tràng có vợ giữa cảnh nạn đói đang đe dọa.

- Sự ngạc nhiên cho thấy xây dựng được một tình huống truyện độc đáo. 

- Thể hiện rõ giá trị hiện thực, giá trị nhân đạo và giá trị nghệ thuật. 

Giá trị hiện thực: tố cáo tội ác thực dân, phát xít , giá trị con người bị phủ nhận khi chỉ vì cùng đường, đói khát mà phải trở nên trơ trẽn, liều lĩnh, bất chấp cả thẹn. Cái đói đã bóp méo cả nhân cách con người. 

Giá trị nhân đạo: Tình nhân ái, cưu mang đùm bọc nhau, khát vọng hướng tới sự sống và hạnh phúc….

  •  Về nghệ thuật: tình huống độc đáo khiến truyện phát triển dễ dàng và làm nổi bật được những cảnh đời, những thân phận con người bất hạnh, làm nổi bật chủ đề tư tưởng tác phẩm.

 Bài tập 3: 

Qua câu chuyện ta hiểu rõ hơn về nhan đề vợ nhặt. Lấy vợ là việc có ý nghĩa quan trọng đánh dấu một bức ngoặc lớn. Vì thế sẽ phải được tổ chức long trọng, nhưng ở đây, chỉ với vài câu bông đùa mà Tràng đã có vợ. Còn chị vợ không cần phải cưới hỏi hay của hồi môn mà chỉ vài bát bánh đúc đã theo không Tràng về nhà. Cái đói, cái rét làm mất đi nhu cầu hạnh phúc của con người, họ phải làm mọi cách để bám víu cuộc sống, để có cái ăn, cái mặc. 

Bài tập 4: Thể hiện qua những tình tiết:

  •  Lúc quyết định lấy vợ: Vì tưởng là mình nói đùa và ngờ đàn bà cũng sẽ không tin là thật. Tràng lo lắng nghĩ "thóc gạo này đến cái thân mình cũng chả biết có nuôi nổi không, lại còn đèo bòng". Thế nhưng, cuối cùng Tràng lại tặc lưỡi một cái "chậc, kệ". =>khát khao của người nông dân về mái ấm gia đình.
  •  Khi dẫn vợ về qua xóm ngụ cư: không lầm lũi như mọi ngày nữa, tâm trạng hắn khác hẳn, vẻ mặt hắn có một vẻ gì phớn phở khác thường. Hắn tủm tỉm cười- nụ cười một mình và hai mắt sáng lên lấp lánh...rồi hắn thấy làm thích, cái mặt cứ vênh lên tự đắc với mình =>người đàn ông tưởng chừng ế vợ lần đầu tiên dẫn vợ về qua xóm mình.
  •  Trong buổi sáng đầu tiên sau khi có vợ: có sự đổi khác, ngủ dậy Tràng thấy người êm ái lửng lơ như người vừa trong giấc mơ đi ra, thay đổi thấy bản thân trưởng thành, thấy mình có bổn phận lo lắng cho vợ con sau này, thấy cái nhà như cái tổ ấm che mưa che nắng. 

Bài tập 5:

- Tâm trạng bà cụ Tứ buồn vui lẫn lộn, bà buồn vì thấy thương và xót xa cho con trai mình.

- Bà vui vì con trai mình đã có vợ, nó yên bề nó. 

- Bà cụ Tứ là hiện thân của nỗi khổ cuộc sống. Người mẹ ấy đã nhìn cuộc hôn nhân éo le của con thông qua toàn bộ nỗi đau khổ của cuộc đời bà. 

Bài tập 6: Thể hiện ở những phương diện:

- Cách kể chuyện hấp dẫn, cách dựng cảnh với nhiều chi tiết đặc sắc, tình huống truyện độc đáo.

- Thể hiện sự tài tình khi miêu tả diễn biễn tâm trạng của  nhân vật một cách tự nhiên chân thực

Phần Luyện tập

Bài tập 1: 

Chi tiết khiến em ấn tượng nhất đó chính là là chi tiết nồi cháo cám của bà cụ Tứ. Nồi cháo cám giữa ngày đói là phương tiện cứu đói bà dành và để đón con dâu. Vừa múc cháo bà vừa khen chè khoán đấy ngon đáo để cơ. 

=>Qua chi tiết nồi cháo cám ta cảm nhận rõ  bà cụ Tứ - người mẹ đảm đang, yêu thương con hết mực, Tràng là người chồng có trách nhiệm, khéo léo trong cách cư xử với mẹ, Vợ Tràng cũng vậy,  thay đổi về tính cách, không còn nét cách đỏng đảnh như xưa nữa mà cô đã chấp nhận hoàn cảnh, đã thực sự sẵn sàng cùng gia đình vượt qua những tháng ngày khó khăn sắp tới. 

Bài tập 2: Phân tích ý nghĩa đoạn kết của tác phẩm. 

Đoạn kết khép lại câu chuyện bằng một hồi trống dồn dập, vội vã. Hình ảnh “đám người đói và lá cờ đỏ” hiện lên trong tâm trí Tràng vừa gợi ra cảnh ngộ đói khát thê thảm vừa gợi ra những tín hiệu của cuộc cách mạng, cả hai đều là những nét chân thực trong bức tranh đời sống lúc bấy giờ. Kết thúc truyện góp phần thể hiện tư tưởng nhân đạo của Kim Lân: trân trọng niềm khát vọng sống ngay bên bờ vực cái chết của người lao động nghèo; niềm tin bất diệt vào tương lai tươi sáng. 

Phần tham khảo, mở rộng

Bài tập 1: Phân tích truyện ngắn “Vợ nhặt” của nhà văn Kim Lân trong chương trình văn 12

Bài tham khảo

Tác phẩm “Vợ nhặt” là được rút ra từ tập truyện "Con chó xấu xí" xuất bản năm 1962. Tiền thân của truyện là tiểu thuyết "Xóm ngụ cư" được viết sau Cách mạng tháng Tám. “Vợ nhặt” được đánh giá là một trong những tác phẩm hay nhất trong kho tàng truyện ngắn Việt Nam sau cách mạng.

Nhan đề tác phẩm tuy gắn gọn nhưng hàm chứa một ý nghĩa tư tưởng sâu xa. “Vợ nhặt” hiểu theo nghĩa đen là nhặt, lượm được vợ. Qua nhan đề này, ta thấy được sự rẻ rúng và tình cảnh thê thảm của người dân lao động nghèo trong nạn đói cũng như tình hình đen tối của xã hội Việt Nam thời bấy giờ. Nói như Kim Lân “Nhặt tức là nhặt nhạnh, nhặt vu vơ. Trong cảnh đói năm 1945 người dân lao động dường như khó ai thoát khỏi cái chết. Bóng tối của nó phủ lấy mọi xóm làng. Trong hoàn cảnh ấy giá trị một con người thật vô cùng rẻ rúng, người ta có thể có vợ theo chỉ nhờ mấy bát bánh đúc ngoài chợ - đúng là nhặt được vợ như tôi nói trong truyện”. Chính nhan đề độc đáo đã góp phần không nhỏ trong việc tạo ấn tượng và gợi sự tò mò của người đọc.

Thành công của “Vợ nhặt”  trước hết là ở cách xây dựng một tình huống truyện độc đáo. Tác giả đã khéo léo dựng lên một tình huống mới lạ nhưng cũng không kém phần trớ trêu: anh cu Tràng nhặt vợ. Là “nhặt” chứ không phải lấy được. Có thể thấy, ở xã hội đó, giá trị của con người bị hạ thấp, không khác gì một món hàng có thể dễ dàng nhặt được ven đường. Với tình huống anh cu Tràng “nhặt” được vợ trong những ngày đói giữa xóm ngụ cư, Kim Lân muốn khắc hoạ số phận bi đát của người nông dân trước cách mạng tháng Tám đồng thời thể hiện sự cảm thông, sẻ chia trước khát khao hạnh phúc của những số phận khốn cùng ấy. Đọc “Vợ nhặt”, có nhận xét rằng: “Bốn bát bánh đúc thành lễ cưới thật rồi – Xin từ điển hãy thêm từ vợ nhặt – Ngòi bút Kim Lân tưởng như đùa như khóc – Đói quắt quay nhưng tha thiết con người”. Đọc những dòng tâm tư này ta hiểu, thẳm sâu của câu chuyện nhặt vợ tội nghiệp là khát khao về mái ấm gia đình, là tình yêu thương, đùm bọc giữa người với người. Cái đói tuy đáng sợ, hiện thực tuy thảm khốc nhưng đằng sau những điều đấy, Kim Lân còn muốn truyền tải một thông điệp khác đậm tính nhân văn: “Khi đói, người ta không nghĩ đến con đường chết mà chỉ nghĩ đến con đường sống. Dù ở trong tình huống bi thảm đến đâu, dù kề bên cái chết vẫn khát khao hạnh phúc, vẫn hướng về ánh sáng, vẫn tin vào sự sống và vẫn hi vọng ở tương lai, vẫn muốn sống, sống cho ra người”. 

Nét đặc sắc của “Vợ nhặt” còn là ở cách xây dựng hình tượng nhân vật chân thật, sống động với những biến chuyển tinh vi trong thế giới nội tâm. Trước hết phải kể đến Tràng, chàng trai nghèo hiền lành luôn mang trong mình niềm khát khao về mái ấm gia đình. Diện mạo Tràng được miêu tả bằng những đường nét thô kệch “Hai con mắt nhỏ tí, hai bên quai hàm bạnh ra, bộ mặt thô kệch, thân hình to lớn vập vạp”. Tính tình lại nông nổi, có tật vừa đi vừa nói, thường tủm tỉm cười một mình. Gia cảnh Tràng cũng chả khá khẩm gì, anh sống với mẹ già và làm nghề kéo xe bò thuê để kiếm sống qua ngày. Có thể thấy, ở Tràng không có gì hấp dẫn và cuốn hút cả, vậy mà anh không những lấy được vợ mà còn lấy bằng cách đơn giản nhất: nhặt. Lần đầu chỉ bằng câu hò vu vơ – Tràng quen thị. Vài ngày sau gặp lại, Tràng sẵn sàng mời thị ăn mặc dù chính anh cũng chẳng giàu có gì. Miếng ăn lúc đó là cả mạng sống của con người nhưng anh vẫn sẻ chia với thị bởi đó là tình cảm của những con người đồng cảnh ngộ dành cho nhau. Chỉ vài câu bông lơn, đùa cợt “Nói đùa chứ có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về” mà từ một chàng trai ế chỏng chơ, Tràng có thêm một cô vợ mới. Trong hoàn cảnh mà người ta tranh nhau từng miếng ăn để sống như thế, hành động đưa thị về cùng đồng nghĩa với việc Tràng “đèo bòng” thêm một gánh nặng. Dù vô tư, vô lo đến đâu, lúc này bản thân anh cũng “chợn” khi nghĩ về tương lai, nhưng cuối cùng Tràng vẫn chậc lưỡi “kệ”. Qua cái chậc lưỡi và hành động có phần liều lĩnh ấy, ta thấy được tấm lòng nhân hậu, tình thương người và sâu xa hơn là khát khao về hạnh phúc gia đình ẩn dưới diện mạo có phần thô kệch. 

Hạnh phúc gia đình cũng làm Tràng thay đổi. Nó giúp anh tạm quên đi cái đói trước mắt “Trong một lúc Tràng như quên hết những cảnh sống ê chề tăm tối hằng ngày, quên cả cái đói khát đang đe doạ” để chỉ còn “tình nghĩa” giữa hắn và người đàn bà đi bên cạnh “Một cái gì mới mẻ, lạ lắm chưa từng thấy ở người đàn ông ấy”. Tràng thấy mình như bước ra từ một giấc mơ, trong người “êm ái, lơ lửng”, anh thấy “yêu thương, gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng. Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đấy. Cái nhà như tổ ấm che mưa, che nắng. Một nguồn vui sướng mới, phấn chấn, tràn ngập trong lòng. Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người, hắn thấy hắn có bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau này.”  Vượt qua thực tại, niềm hạnh phúc gia đình đã đem sinh khí đến cho cuộc sống đang tràn ngập sự chết chóc bủa vây, cho những con người nghèo khổ đang đấu tranh với cái đói.

Tiếp theo là bà cụ Tứ - hình tượng người mẹ Việt Nam hiền lành, nhân hậu giàu đức hi sinh. Nhân vật bà cụ Tứ hiện lên với dáng đi lọng khọng, chậm chạp, run rẩy, lưng còng vì tuổi tác “lọng khọng đi vào ngõ vừa đi vừa lẩm bẩm tính toán gì trong miệng”. Bà ngạc nhiên trước thái độ trịnh trọng  khác thường của người con trai vô tâm tính. Khi thấy người đàn bà lạ ngồi ở đầu giường con trai hai lần chào mình bằng u, bà thấy  mắt nhoèn đi, bà im lặng vì quá ngạc nhiên, hoàn toàn không hiểu đầu đuôi câu chuyện. Hàng loạt câu hỏi đặt ra trong đầu óc già nua của bà: “Người đàn bà nào lại đứng ở đầu giường thằng con mình thế kia? Không phải cái đục mà. Ai thế nhỉ ? Sao lại chào mình bằng u ?”. Phải, bà làm sao ngờ được giữa năm đói, nhà lại nghèo mà con bà dẫn về một cô vợ! Nghĩ về Tràng, bà thương con phải nhờ cơn đói khát mới lấy được vợ, về bản thân, bà thấy tủi vì chưa làm tròn bổn phận của người mẹ: lấy vợ cho con, bà thương và tủi cho vong linh chồng không biết mặt con dâu, không được chứng kiến ngày con trai lấy vợ. Và, về người đàn bà lạ bỗng trở thành con dâu mình, cụ Tứ cảm thấy thương cho số phận khốn khổ của thị, bởi vì cùng đường người ta mới lấy đến con trai bà mà không cần cưới hỏi. Trược “sự kiện” anh cu Tràng nhặt được vợ, lòng bà cụ ngổn ngang bao tâm trạng buồn vui, mừng tủi, và nhất là lo lắng vì nạn đói, lo “vợ chồng chúng nó có sống qua nổi cái thời tao loạn này không” – tất cả hoà trong dòng nước mắt nghẹn ngào. “Nước mắt cứ chảy xuống ròng ròng”, những giọt nước mắt ấy đã nói lên tất cả tấm lòng chân thật người mẹ hiền lành, nhân hậu. Có thể thấy, diễn biến tâm trạng bà cụ Tứ được khắc họa vô cùng chân thật, logic và xúc động. Đó là tấm lòng nhân hậu, bao dung, đầy hi sinh của người mẹ nghèo Việt Nam

Cuối cùng là nhân vật người vợ nhặt – nạn nhân của nạn đói. Đó là một người đàn bà tội nghiệp, đáng thương, không có gì kể cả tên riêng. Chính cái đói, cái nghèo đã đẩy thị vào bước đường cùng, đã khiến thị theo không người lạ về làm vợ chỉ vì được sống. Những mảnh đời như thị không phải là hiếm trong bối cảnh nạn đói. Trước khi trở thành vợ Tràng, thị là  một người phụ nữ ăn nói chỏng lỏn, táo bạo và liều lĩnh : Lần gặp đầu  tiên, thị chủ động làm quen, ra đẩy xe bò cho và “liếc mắt cười  tít” với Tràng. Lần gặp thứ hai, thị “sầm sập chạy tới”, “sưng sỉa nói”  và lại còn “đứng cong cớn” trước mặt Tràng. Khi được Tràng mời ăn bánh đúc, thị đã cúi gằm ăn một mạch bốn bát. Ăn xong còn lấy đũa quẹt ngang miệng và khen ngon… Tất cả những biểu hiện trên của thị suy cho cùng cũng là vì  đói. Cái đói trong một lúc nào đó nó có thể làm biến dạng tính cách của  con người. Xây dựng nhân vật thị, nhà văn thể hiện sự xót xa và cảm thông  cho cảnh ngộ đói nghèo của người lao động trong những năm trước cách mạng. Khi trở thành vợ Tràng, thị đã trở về với chính con người thật của mình, một người đàn bà hiền thục, e lệ, lễ phép, đảm đang.“Thị ngồi im, bần thần nhìn ra sân, tay giữ chặt cái thúng”, dậy sớm, quét tước, dọn dẹp nhà cửa cùng mẹ chồng. Ngay đến người vô tâm như anh Tràng vẫn nhận ra sự thay đổi kỳ lạ ở con người thị. Tràng nom thị hôm nay khác lắm, rõ ràng là người đàn bà hiền hậu đúng mực không có vẻ gì chao chát, chỏng lỏn như mấy lần gặp ngoài chợ tỉnh. Đó là hình ảnh của một người vợ  biết lo toan, thu vén cho cuộc sống gia đình. Hoá ra cái đanh đá, chỏng lỏn trước kia ở người đàn bà chẳng qua là do đói do khát mà ra. Khi được sống trong tình thương, trong mái ấm gia đình, người đàn bà ấy đã sống với bản chất tốt đẹp vốn có của mình, của một người phụ nữ Việt Nam.

Hình ảnh cuối tác phẩm “Trong mắt Tràng vẫn thấy đám người đói và lá cờ đỏ sao vàng bay phấp phới…” kết thúc câu chuyện nhưng cũng mở ra một niềm hi vọng mới. Nó gieo vào gia đình Tràng niềm tin vào một tương lai tươi sáng hơn, mà ở đó, không còn nạn đói, không còn lưu lạc, không còn áp bức. Nó cũng gieo vào lòng người đọc một niềm tin mãnh liệt rằng những con người khốn khổ sẽđược giải phóng dưới sự dẫn đường của lá cờ đỏ Cách mạng. Đây là một kết thúc phát triển theo chiều hướng tích cực của tác phẩm: Khi bị đẩy vào tình trạng đói khổ cùng đường thì người nông dân lao động sẽ hướng tới cách mạng. Đây cũng là xu hướng vận động chủ yếu của văn học Việt Nam từ 1945 đến 1975. 

“Vợ nhặt” là một truyện ngắn đặc sắc của Kim Lân và của văn xuôi sau cách mạng. Giá trị hiện thực của tác phẩm ở chỗ, nó tái hiện chân thực hiện thực cuộc sống khốn cùng, bi thảm của người nông dân trong nạn đói khủng khiếp có thật trong lịch sử dân tộc năm 1945 đồng thời phơi bày tội ác của bon thực dân, phát xít khi ban hành chính sách vô lý: nhổ lúa trồng đay. Tác phẩm cũng mang một giá trị nhân đạo sâu sắc. Qua “Vợ nhặt” Kim Lân đã tố cáo tội ác của thực dân Pháp và phát xít Nhật đồng thời bày tỏ niềm xót thương, đồng cảm cho số phận những người nông dân nghèo trong xã hội. “Vợ nhặt” cũng là một bài ca về tình người, tình mẫu tử khi mà ở đó, trong cái đói, cái nghèo, con người vẫn yêu thương, cảm thông, đùm bọc nhau và không từ bỏ hi vọng sống.

Về nghệ thuật, tác phẩm đã dựng lên một tình huống truyện lạ, độc đáo, đầy ý nghĩa. Nghệ thuật trần thuật linh hoạt và sử dụng ngôn ngữ có tính tạo hình đặc sắc cũng góp phần truyền tải nội dung và tư tưởng của tác phẩm một cách hiệu quả. Bên cạnh đó, cách xây dựng hình tượng nhân vật, miêu tả diễn biến tâm lí và hành động cũng đạt tới trình độ tinh vi và mẫu mực.

Có thể nói, qua “Vợ nhặt”, Kim Lân đã để lại một dấu ấn sâu đậm trong lòng người đọc và góp vào văn đàn Việt Nam một bức tranh đầy chân thực, xúc động về người nông dân trong xã hội cũ.

Bài tập 2: Cảm nhận về nhân vật người vợ nhặt trong truyện ngắn “Vợ nhặt” (Kim Lân)

Bai tham khảo

Trong kí ức của mỗi người Việt Nam, nạn đói năm Ất Dậu vẫn là một cơn ác mộng khó quên. Cũng từ đó, miếng cơm manh áo từ nỗi đau hiện thực trở thành đề tài sáng tác của những nhà văn. Thân phận những con người trở nên tầm thường, đến cả chuyện hạnh phúc lứa đôi cũng là chuyện rẻ rúng. Tất cả những điều đó đều được ghi lại bằng ngòi bút của Kim Lân qua nhân vật người vợ nhặt trong tác phẩm cùng tên.

Trước tiên, ta thấy người vợ nhặt là nạn nhân của nạn đói với cuộc sống trôi nổi, bấp bênh. Là nhân vật vô danh, người vợ nhặt là đại diện chung của số phận của những người phụ nữ không may sinh ra trong hoàn cảnh bất hạnh. Người phụ nữ ấy không tên, không tuổi, không quê hương, không quá khứ. Từ đầu đến cuối tác phẩm, Kim Lân chỉ ban tặng cho nhân vật này những cách gọi tên rất chung chung như “cô ả”, “thị”, “người đàn bà”, “nàng dâu mới”, “nhà tôi”. Thị xuất hiện một cách bạo dạn, đáng thương trong hai lần gặp Tràng. Thị “ngồi vêu ra” lẫn trong đám con gái ngồi chờ nhặt hạt thóc rơi. Thị ton ton chạy lại đẩy xe tiếp Tràng với hi vọng được “kiếm ăn” nhưng thất bại. Từ sự cong cớn, liếc mắt cười tít, Thị chuyển sang vẻ tiều tụy, hốc hác vì cái đói trong lần gặp thứ hai “Hôm nay thị rách quá, áo quần tả tơi như tổ đỉa, thị gầy sọp hẳn đi, trên cái khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt”. Tràng dường như không thể nhận ra thị. Cùng với sự thay đổi về hình thức, cái đói đã xóa đi cái hồn nhiên hóm hỉnh của thị khi gặp Tràng, chị biến thành một người phụ nữ “đon đả”, táo bạo và liều lĩnh. Thị đói đến mức cắm đầu ăn bốn bát bánh đúc liền “Thị cắm đầu ăn một chặp bốn bát bánh đúc liền chẳng chuyện trò gì. Ăn xong thị cầm dọc đôi đũa quệt ngang miệng”. Kim Lân đã khắc họa hình ảnh một người phụ nữ thật đáng thương! Từ ngoại hình đến cử chỉ, hành động, thị đều hiện lên trên trang giấy với sự khắc khổ, nhếch nhác, tội nghiệp. Cái đói chẳng những tàn hại dung nhan mà còn tước đoạt cả tính cách và nhân phẩm của thị. Vì đói mà trở nên “chao chát”, “chỏng lỏn”, “sưng sỉa”.. Cái đói khiến thị quên đi việc giữ gìn ý tứ và lòng tự trọng của con gái. Càng tội nghiệp hơn khi cái đói buộc thị phải trở thành “người vợ nhặt” sau một câu nói nửa đùa nửa thật “này nói đùa chứ có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cũng về”. Thế là xong một câu chuyện tình, một cuộc hôn nhân! Sự lãng mạn chỉ là điều không tưởng. Đang trên bờ vực của cái chết, thị còn lựa chọn nào hơn? Trong suy nghĩ của thị, Tràng như một cái phao cứu sinh, cứu thị ra khỏi sự đói khát của thế kỉ. Cái đói đã làm cho thị và biết bao người dân lúc bấy giờ rẻ rúng như vậy. Có ai ngờ được hạnh phúc lứa đôi được xây đắp bằng bốn bát bánh đúc và một lời nói bông đùa? Nhưng trong hoàn cảnh “người chết như ngả rạ”, “không khí ẩm lên mùi ẩm thối của rác tưởi và mùi gây của xác người” thì hạnh phúc tầm thường, đơn sơ kia cũng đáng quý biết bao.

Bên cạnh đó, người vợ nhặt còn là người phụ nữ với lòng ham sống mãnh liệt. Thị đồng ý theo không Tràng là vì để được sống chứ không phải là lẳng lơ. Khát vọng sống mãnh liệt thúc giục thị phải tìm ra lối thoát cho hoàn cảnh thương tâm. Niềm lạc quan lạc sống ấy chính là một phẩm chất đáng quý mà nói như Kim Lân: “Khi viết về con người năm đói người ta hay nghĩ đến những con người chỉ nghĩ đến cái chết. Tôi muốn viết một truyện ngắn với ý thức khác. Trong hoàn cảnh khốn cùng, dù cận kề bên cái chết nhưng những con người ấy không nghĩ đến cái chết mà vẫn hướng tới sự sống, vẫn hi vọng, tin tưởng ở tương lai”. Thị đến với Tràng trước hết làm tìm một chỗ nương tựa trong đói kém. Bởi thế, thị không thể giấu nổi sự thất vọng thầm kín trước gia cảnh thảm thương của gia đình Tràng “cái nhà vắng teo đứng rúm ró trên mảnh vườn mọc lổn nhổn những búi cỏ dại. Thị đảo mắt nhìn quanh, cái ngực gầy lép nhô lên, nén một tiếng thở dài”. Trên đường về nhà chồng, trước những lời bàn tán xôn xao, những chỉ trỏ chòng ghẹo của người dân ngụ cư, người vợ nhặt cảm thấy xấu hổ, ngượng nghịu đến mức “chân nọ bước díu cả vào chân kia”. Về đến nhà chồng, thị thất vọng trước cảnh nhà quá tồi tàn, khổ sở nhưng cố nén lại tất cả vào trong suy nghĩ. Trong tiếng thở dài ấy không chỉ có nỗi thất vọng mà còn xen cả lo toan, ý thức trách nhiệm, bổn phận của mình trong việc xây dựng cuộc sống gia đình về sau..

Nhân vật người vợ nhặt còn để lại ấn tượng sâu sắc cho người đọc bởi những phẩm chất tốt đẹp. Vào trong nhà, thị e thẹn “ngồi mớm” vào mép giường và chào u một cách lúng túng. Khác với vẻ chao chát, cong cớn, chỏng lỏn ban đầu, thị bây giờ là nàng dâu mới với đầy đủ sự ý tứ, cung kính, mực thước. Chính tình cảm yêu thương, sự đùm bọc sẻ chia trong cơn hoạn nạn đã khiến con người sống tốt hơn, ý thức sâu sắc hơn về bổ phận và trách nhiệm của mình. Sáng hôm sau, thị dậy sớm để cùng mẹ chồng dọn dẹp trong ngoài. Đến cả chính Tràng cũng phải ngạc nhiên: “Tràng nom thị hôm nay khác lắm, rõ ràng là người đàn bà hiền hậu, đúng mực, không còn vẻ gì chao chát chỏng lỏn như mấy lần Tràng gặp ở ngoài tỉnh”. Trong bữa cơm đón nàng dâu mới – bữa cơm thảm hại ngày đói, thị vẫn vui vẻ bằng lòng với bát cháo cám đắng chát. Thị là một cơn gió mới trong gia đình. Hiện thực khắc nghiệt, xót xa “người con dâu đón lấy cái bát, đưa lên mắt nhìn, hai con mắt thị tối lại” nhưng thị vẫn “điềm nhiên và vào miệng”. Hoàn cảnh đấy, ai cũng phải cất lại nỗi tủi hờn bên trong để vui vầy cũng hạnh phúc bình dị, đơn sơ. Sự lạc quan được gói trọn trong lời của bà cụ Tứ: “Cám đấy mày ạ, hì. Ngon đáo để, cứ thử ăn mà xem. Xóm ta khối nhà còn chả có cám mà ăn đấy”. Bên cạnh đó, người vợ nhặt còn là người phụ nữ thông minh hiểu biết. Nghe tiếng trống thúc thuế, thị tỏ ra ngạc nhiên hỏi mẹ chồng “Ở đây vẫn phải đóng thuế cơ à?” Câu nói của thị làm Tràng ngờ ngợ vỡ ra trong suy nghĩ “hắn đang nghĩ đến những người phá kho thóc Nhật”, “trong ý nghĩ của hắn vụt ra cảnh những người nghèo đói ầm ầm éo nhau đi trên đê Sộp. Đằng trước có lá cờ đỏ to lắm”…

Điểm nhấn nghệ thuật ở người vợ nhặt chính là nghệ thuật khắc họa nhân vật của nhà văn Kim Lân. Tác giả đã đặt nhân vật trong tình huống “lạ”, “éo le”; diễn biến tâm lí được khắc họa qua các sự kiện với sự quan sát tỉ mỉ, tinh tế qua hệ thống ngôn ngữ giản dị, mộc mạc.

Như vậy, nhân vật người vợ nhặt trong tác phẩm “Vợ nhặt” của Kim Lân là một nhân vật tiêu biểu cho hình tượng người phụ nữ lao động nghèo khổ, đáng thương. Nhưng dù bị đẩy vào hoàn cảnh khốn cùng, thị vẫn ngời sáng bởi lòng ham sống, những phẩm chất tốt đẹp và niềm tin tưởng ở tương lai.

Câu 3: Anh/ chị hãy phân tích tâm trạng nhân vật Tràng trong truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân.

Bài tham khảo

Kim Lân là một cây bút chuyên viết truyện ngắn với đề tài quen thuộc là hình ảnh nông thôn và người nông dân. Khác với tác giả Tô Hoài – ông không khai thác cuộc sống của người dân nơi rẻo cao Tây Bắc mà lại lặn sâu vào cuộc sống của người dân quê – những con người gắn bó thiết tha với quê hương và cách mạng. Trong đó, “Vợ nhặt” là một tác phẩm tiêu biểu minh chứng cho tài năng của Kim Lân. Và trong suốt những trang sách kể về tình huống nhặt vợ có một không hai trong nền văn học Việt Nam, diễn biến tâm lí nhân vật Tràng đã để lại cho người đọc những ấn tượng sâu sắc.

Nạn đói năm 1945 đã khiến cho hơn hai triệu người chết, tình hình đất nước rơi hẳn vào cảnh u ám, tối tăm: “Ta đi giữa đường dương thế/ Bóng tối âm thầm rụng xuống chân cây/ Tiếng xe ma chở vội một đêm gầy/ Xác truỵ lạc rũ bên thềm lá phủ” (Văn Cao). Nhiều gia đình trở thành nạn nhân, rơi vào cảnh khốn cùng, bị đe dọa bởi miếng cơm manh áo, trong đó, có gia đình Tràng. Tràng là một thanh niên xấu xí, nghèo khổ, mưu sinh bằng nghề kéo xe bò thuê, cùng sống với mẹ già nơi xóm ngụ cư. Giữa lúc cái đói đang bám riết sự sống, Tràng dẫn về một người phụ nữ xa lạ, đúng hơn là một người vợ anh mới “nhặt” được bằng bốn bát bánh đúc và một câu nói nửa đùa, nửa thật. Bà cụ Tứ - mẹ Tràng đón nhận người con dâu đáng thương kia bằng tâm trạng ngổn ngang, âu lo. Và kết thúc tác phẩm là chi tiết bữa cơm thảm hại ngày đói được đan cài cùng niềm tin tưởng le lói vào tương lai qua hình ảnh lá cờ trong óc Tràng “Trong óc Tràng vẫn thấy đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới…” Trong suốt đoạn trích, ta có thể dễ dàng quan sát tâm trạng của Tràng qua sự kiện nhặt vợ: Tràng trước khi nhặt được vợ và Trang sau khi nhặt được vợ.

Trước khi nhặt được vợ, sự gặp gỡ giữa Tràng và thị chẳng có gì đặc biệt. Thâm chí, đó còn chẳng được gọi là một cuộc gặp gỡ hay một cuộc hẹn hò đúng nghĩa. Họ chỉ là những người lao động nghèo khổ, những người vật vờ đói khát trong thảm cảnh lịch sử. Họ chỉ là những nạn nhân của mất mát đau thương, ngày ngày đi trên lằn ranh của sự sống và cái chết. Mới lần đầu gặp gỡ, “thị cười tít mắt” với Tràng sau khi đẩy xe bò lên dốc tỉnh. Gặp gỡ lần thứ hai, thị “sưng sỉa, cong cớn, chao chát, chỏng lỏn” đòi ăn cho bằng được. Cô dâu của Tràng đích thị là nạn nhân của cái đói. Chỉ tầm phơ tầm phào có hai bận như thế, Tràng và thị đã thành vợ thành chồng. Tràng hò chơi cho đỡ nhọc, Tràng mời thị bốn bát bánh đúc vì lời thất hứa và sự xót thương cho hoàn cảnh: “thị rách quá, áo quần tả tơi như tổ đỉa, thị gầy sọp hẳn đi, trên cái khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt” và cùng lời nói đùa: “Làm đếch gì có vợ. Này nói đùa chứ có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về”. Nhưng ai ngờ được: “Nói thế Tràng cũng được là nói đùa, ai ngờ thị về thật”. Tràng thật sự thấy lo lắng cho cuộc hôn nhân quá đỗi bất ngờ: “Mới đầu anh Tràng cũng chợn, nghĩ: thóc gạo này đến cái thân mình cũng chả biết có nuôi nổi không lại còn đèo bòng”. Nhưng sau đó, sự lo lắng của Tràng bắt đầu nhường chỗ cho hạnh phúc mới – hạnh phúc lứa đôi – dù là lứa đôi khốn khổ và bất hạnh: “Chậc, kệ!”.

Sau khi nhặt được vợ, tâm trạng Tràng có sự thay đổi rõ rệt. Có ai ngờ được làm câu hôn ngờ nghệch đã thay đổi tâm trạng và số phận của những con người trong gia đình đói khổ. Đời sống tinh thần chuyển những gam màu u ám, chết chóc sang ấm áp và hi vọng. Trong hoàn cảnh khốn cùng, Tràng vẫn khao khát hạnh phúc, có ý thức tạo dựng mái ấm gia đình. Khi chấp nhận thị làm vợ, Tràng đã thể hiện sự quan tâm, chăm sóc của một người chồng: “hắn đưa thị vào chợ tỉnh bỏ tiền ra mua cho thị cái thúng con đựng vài thứ lặt vặt và ra hàng cơm đánh một bữa no nê…” Tràng còn hào phóng “mua hai hào dầu để thắp sáng”. Trên đường về nhà, Tràng cảm nhận được niềm vui mới đang len lỏi trong từng nấc thang suy nghĩ “phớn phở khác thường”. Thỉnh thoảng lại còn cười nụ một mình. Khi đi bên thị, Tràng rụt rè bỡ ngỡ khác thường, khi thì hắn đi sát người đàn bà, lúc lại lùi ra sau một tí, hai tay cứ xoa vào vai nọ vai kia. Tràng muốn nói bông đùa đôi câu nhưng lại cứ cảm thấy ngường ngượng. Ngòi bút tài hoa của Kim Lân đã cho người đọc thấy được diễn biến tâm lí chân thực, sinh động của Tràng. Tràng hôm nay đã thực sự khác với Tràng hôm qua. Một cuộc hôn nhân đã khơi dậy biết bao nhiêu cảm xúc thầm kín bên trong, bao nhiêu phẩm chất tốt đẹp chưa có điều kiện bộc lộ. Cảnh đời tối tăm, sự đói khát dường như đã tạm lùi để còn lại là niềm vui sướng miên man: “Trong một lúc Tràng hình như quên hết những cảnh sống ê chề, tăm tối hằng ngày, cái đói khát ghê gớm đang đe dọa, quên cả những tháng ngày trước mặt. Trong lòng hắn bây giờ chỉ còn tình nghĩa giữa hắn với người đàn bà đi bên. Một cái gì mới mẻ, lạ lắm, chưa từng thấy ở người đàn ông nghèo khổ ấy, nó ôm ấp, mơn man khắp da thịt Tràng, tựa hồ như có bàn tay vuốt ve dọc sống lưng”. Hạnh phúc đã thực sự làm thay đổi mọi thứ.

Về đến nhà, lúc đầu Tràng cảm thấy “ngượng nghịu” rồi cứ thế “đứng tây ngây ra giữa nhà, chợt hắn thấy sờ sợ”. Nhưng đó chỉ là cảm giác thoáng qua. Tràng vẫn sung sướng tột bực, sung sướng đến mức không dám tin là mình đã có vợ - lại có vợ trong hoàn cảnh trớ trêu, éo le như thế này: “hắn vẫn ngờ ngợ như không phải thế. Ra hắn đã có vợ rồi đấy ư?”. Trong lúc đợi bà cụ Tứ về, Tràng nôn nóng sốt ruột, cứ đi đi lại lại. Chưa bao giờ hắn lại thấy nôn nóng như thế. Phải chăng Tràng nóng lòng thông báo tin vui này cùng mẹ, nóng lòng khoe cái hạnh phúc đơn sơ giản dị này cho những người thương yêu? Khi mẹ về, hắn mừng rỡ, rối rít như trẻ con. Anh không phải là người vô tư, nông cạn mà vô cùng sâu sắc và hiểu đời. Tràng đã ý thức được việc lấy vợ là hệ trọng cả đời, ý thức được sự thay đổi tinh thần của mình. Đây là khoảnh khắc thiêng liêng mà trong hoàn cảnh đói kém đương thời, không phải ai cũng có được.

Sáng hôm sau, cảm nhận đầu tiên của Tràng là: “Trong người êm ái, lửng lơ như người vừa ở trong giấc mơ đi ra”. Tràng cảm động khi thấy hình ảnh mẹ và vợ dọn dẹp lại nhà cửa, cảm động nghe tiếng chổi sàn sạt trên sân. Sự yêu thương nảy nở từ bên trong: “Bỗng nhiên hắn thấy thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng. Hắn đã có một gia đình. Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đấy. Cái nhà như cái tổ ấm che mưa che nắng”. Tràng bắt đầu suy nghĩ về ý nghĩa của sự sống, suy nghĩ về cuộc đời ở tương lai. Khi nghe tiếng trống thúc thuế ngoài đình vang lên dữ dội, Tràng đã thần mặt ra nghĩ ngợi. Tràng nghĩ đến cảnh “những người nghèo đói ầm ầm kéo nhau đi trên đê Sộp” để cướp kho thóc của Nhật và “đằng trước là lá cờ đỏ”.

Xây dựng nhân vật Tràng, Kim Lân đã cho người đọc thấy được tài miêu tả diễn biến tâm lí nhân vật. Lúc này đây, Tràng không còn là nhân vật khô cứng trên trang giấy nữa mà như một con người thật hiển hiện trước mắt người đọc. Đặt nhân vật trong một hoàn cảnh độc đáo cùng với ngôn ngữ phù hợp với tính cách, Kim Lân đã khắc họa thành công giá trị hiện thực cùng giá trị nhân đạo cao cả, thể hiện niềm tin yêu vào cuộc sống, về tương lai như lời ông từng nói về tác phẩm: “Tôi muốn cho độc giả thấy dù hoàn cảnh thế nào đi nữa thì tình người vẫn vượt lên trên tất cả. Có tình người là có cuộc sống. Có tình người là có hi vọng vào tương lai”.

Tóm lại, qua diễn biến tâm trạng nhân vật Tràng, Kim Lân đã cho người đọc thấy được vẻ đẹp tâm hồn và tính cánh nhân vật. Chính những con người như Tràng, như thị, như bà cụ Tứ đã làm cho ta thực sự yêu thương, khâm phục và kính trọng.

 Bài tập 4: Phân tích giá trị độc đáo của tình huống truyện Vợ Nhặt trong tác phẩm cùng tên của nhà văn Kim Lân. Từ đó nhận xét về thái độ của nhà văn với con người và thực trạng xã hội đương thời.

Bài tham khảo

Sự thăng hoa của tác phẩm phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó không thể không kể đến việc sáng tạo ra tình huống truyện độc đáo. Kim Lân là một nhà văn nông thôn chuyên viết về những chuyện nông thôn như: Làng, Vợ nhặt, Con chó xấu xí, Chuyện ông già trên núi Côi Kê….Trong đó, “Vợ nhặt” là tác phẩm góp phần làm nên tên tuổi nhà văn Kim Lân với những nghệ thuật sáng tạo độc đáo: đó là tình huống truyện.

Tình huống truyện được hiểu là tình thế xảy ra truyện, là “cái khoảnh khắc mà trong đó sự sống hiện ra rất đậm đặc”, là “cái khoảnh khắc chứa đựng cả đời người” (Nguyễn Minh Châu). Qua tình huống truyện, chúng ta có thể thấy rõ mối quan hệ giữa nhân vật với nhân vật, giữa nhân vật với hoàn cảnh, góp phần nổi bật tư tưởng của tác phẩm. Tình huống truyện “Vợ nhặt” vừa là một tình huống lạ, độc đáo lại vừa là một tình huống oái oăm, trớ trêu.

Tình huống truyện trong “Vợ nhặt” vô cùng độc đáo: Đó là việc anh Tràng lấy được vợ trong nạn đói lịch sử, trong những ngày mà người chết đầy đường, đoàn người dắt díu nhau đi tìm cái ăn, xóm ngụ cư đêm dêm vang lên trong tiếng hờ khóc người chết.

Tình huống ấy trước hết được coi là tình huống lạ, độc đáo. Ta thấy hành động lấy được vợ của Tràng vô cùng khác thường mà phải gọi là “nhặt vợ” thì đúng hơn. Dưới mắt những người dân xóm ngụ cư, người như Tràng lấy được vợ là chuyện không tưởng. Quan niệm dân gian trước giờ luôn xem nhẹ việc lấy chồng ngụ cư – vốn là tầng lớp dưới đáy thường bị xã hội xem thường, rẻ khinh. Hơn nữa, Tràng lại là một người xấu xí, nghèo khổ. Giữa thời buổi ấy, nuôi được thân mình đã khó mà lại còn đèo bòng chuyện vợ con. Nhưng đáng thương hơn cả là hành động nhặt vợ ấy. Vợ - đáng lẽ hải được cưới hỏi tử tế, đàng hoàng, phải đầy đủ mâm cỗ rước về nhưng nay lại rẻ rúng bằng một câu nói bông đùa và bốn bát bánh đúc. Tràng nhặt được vợ trong một tình huống vừa kì quặc, vừa oái oăm, vừa vui mừng, vừa bi thảm. Mặc dù lạ nhưng việc Tràng lấy được vợ là điều vô cùng hợp lí. Người đọc toàn hoàn bằng lòng với việc xảy ra. Anh Tràng lấy vợ lúc này là đúng bởi vì nếu không phải năm đói thì chắc chẳng có người đàn bà nào chịu lấy anh. Hơn nữa, hành động nhặt vợ kia còn thể hiện được sự cưu mang, đùm bọc lẫn nhau của những con người năm đói.

Bên cạnh đó, tình huống truyện còn thể được sự éo le, oái oăm, trớ trêu. Nếu trong hoàn cảnh bình thường thì anh Tràng lấy vợ là niềm vui cho bà mẹ và xóm ngụ cư. Vậy mà éo le thay, việc anh Tràng lấy vợ không biết là nên vui hay nên buồn. Chính Tràng ban đầu cũng không ngờ được việc mình lấy được vợ. Chỉ bốn bát bánh đúc và một câu bông đùa – hôn nhân chưa bao giờ tưởng có thể đơn giản được như thế. Dưới con mắt của người dân xóm ngụ cư, anh Tràng lấy vợ khiến người ta tò mò, ngạc nhiên, lo sợ cho anh. Tình hình hiện tại biết bao u ám “cái đói đã tràn đến xóm này tự lúc nào” thế nhưng Tràng vẫn đèo bòng chuyện vợ con. Với bà cụ Tứ, bà còn nghĩ đến những điều tệ hại hơn: “biết rằng chúng nó lấy nhau liệu có nuôi nổi nhau qua cơn đói khát này không?”. Với Tràng, anh đã từng cảm thấy hơi chợn khi nghĩ về niềm hạnh phúc bé nhỏ vừa tìm được “thóc gạo này đến thân mình chẳng biết có nuôi nổi không lại còn đèo bòng?” Với thị - người vợ vừa được nhặt về, nỗi tủi hổ dường như lấn át cả niềm vui. Nói trắng ra, thị lấy Tràng cũng vì muốn sống sót qua cơn đói, muốn tìm một chiếc phao cứu sinh. Sự éo le ấy còn lan tỏa ra khung cảnh xung quanh. Đêm tân hôn của hai người khốn khổ diễn ra trong cái gió lồng lộng từ bờ sông thổi vào, ngọn đèn dầu vàng đục và tiếng hờ khóc của người chết vang lên trong xóm ngụ cư.

Từ những điều đã phân tích trên, ta thấy tình Tràng lấy được vợ mang lại giá trị hiện thực sâu sắc. Trước nhất, nó phơi bày số phận của người nông dân trước cách mạng tháng tám. Vì nghèo khổ nên Tràng không thể nào lấy được vợ, phải chờ đến cơ hội “trời cho”. Càng mỉa mai hơn khi cơ hội ấy chính là nạn đói lịch sử, là thảm cảnh đau thương của biết bao con người chết đói khiến cho người đàn bà tự nguyện vứt bỏ nhân phẩm, vứt bỏ giá trị theo không anh về làm vợ. Con người hiện lên như cái rơm, cái rác bị vứt ngoài lề cuộc sống. Trong khung cảnh đói khát ấy, anh lấy vợ mà chẳng ai mừng cho, bữa cơm đầu tiên sau ngày cưới thật thảm hại, lấy vợ trong nỗi xót xa, cay đắng khôn cùng.

Giá trị nhân đạo trong tác phẩm “Vợ nhặt” cũng là điều khiến người đọc phải suy nghĩ trước sau. Kim Lân đã gợi lên trong lòng người đọc niềm xót xa khôn nguôi, qua đó gợi cho người đọc sự cảm thông về số phận người dân nghèo. Đồng thời, góp phần phát hiện phẩm chất đáng quí của người nông dân ngay giữa hoàn cảnh đói khát. Trong cái đói, mẹ con anh đã biết cưu mang một người xa lạ. Việc Tràng cưới vợ trước xuất phát từ bản chất xót thương, muốn cứu vớt thị. Lời mời “có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về” có vẻ như đùa nhưng thực ra là cơ hội dễ dẫn thị từ bên bờ vực của cái đói, cái chết về đến hạnh phúc gia đình. Tràng lo lắng, quan tâm, trân trọng từng hạnh phúc bình dị, đơn sơ: đưa chị vào hàng ăn một bữa cơm thật no, sắm cho chị một cái thúng con đựng vài thứ lặt vặt, mua dầu thắp đèn cho sáng đêm tân hôn… Tràng còn âm thầm theo dõi thái độ của thị và cảm thấy lo lắng trước sự lặng lẽ: “quái sao nó lại buồn thế nhỉ”? Tràng giới thiệu thị với mẹ một cách đàng hoàng để thị vơi bớt tủi hổ: “Nhà tôi nó mới về làm bạn với tôi đấy u ạ! Chúng tôi phải duyên phải kiếp với nhau”. Đặc biệt, Kim Lân qua việc khắc họa nhân vật còn thể hiện niềm tin vào sự đổi đời. Đây là nét nhân đạo mới mẻ ở ông. Nghe vợ kể chuyện nông dân Thái Nguyên, Bắc Giang phá kho thóc chia cho dân nghèo khiến Tràng chợt nhớ đến cảnh đoàn người với cờ đỏ sao vàng trên đê Sộp. Phải chăng anh thấy tiếc vì không tham gia đoàn biểu tình ấy? Ở những con người năm đói là sự vươn lên mạnh mẽ. Cái đói không những không đánh gục ngã được họ mà làm cho họ tìm thấy niềm tin ở tương lai.

Tóm lại, tính huống Tràng lấy vợ thực sự mang lại cái nhìn tin tưởng của người đọc về sự thay đổi của số phận người nông dân. Chính vì vậy, qua “Vợ nhặt”, chúng ta càng hiểu hơn về tư tưởng của Kim Lân: “Các nhà văn viết về cái đói ở khía cạnh tối tăm và bất lực của con người trước nó (…) Khi tôi viết, ý tưởng thường trực trong tôi là những người dù đói thế nào đi chăng nữa vẫn luôn khao khát cuộc sống tốt đẹp hơn, vẫn tin tưởng một cách mơ hồ vào cuộc sống tương lai. Cái “mơ hồ” ấy là do cuộc sống thực tại luôn hành hạ họ”.

Bài tập 5: Giá trị nội dung và nghệ thuật trong Vợ nhặt của Kim Lân

1. Giá trị nội dung

  • Giá trị hiện thực:

o Tình cảnh thê thảm của người nông dân VIệt Nam trong nạn đói khủng khiếp năm 1945.

o Đằng thì bắt đóng thuế, đằng thì bắt nhổ lúa trồng đay. Dân ta lâm vào cảnh một cổ hai tròng áp bức do sự đê hèn, đốn mạt của thực dân Pháp

  •  Giá trị nhân đạo

o Tố cáo tội ác của bọn thực dân, phát xít và khẳng định tội ác mà chúng đã gây ra cho mảnh đất, con người Việt Nam

o Niềm cảm thương, chia sẻ của tác giả trước những đau đớn.

o Ca ngợi sức sống mãnh liệt, khao khát được yêu thương, được sống hạnh phúc, tin tưởng vào một tương lai tươi sáng đang chờ đợi họ.

o Cách mạng chính là con đường đưa họ thoát khỏi cuộc sống khốn cùng này.

2. Nghệ thuật

  •  Xây dựng tình huống truyện độc đáo
  •  Nghệ thuật kể chuyện hấp dẫn.
  •  Bút pháp miêu tả tâm lí
  •  Ngôn ngữ gần gũi

Câu 6: Cảm nhận về nhân vật Tràng trong tác phẩm “Vợ nhặt” của nhà văn Kim Lân.

Bài tham khảo

“Vợ Nhặt” chỉ có 3 nhân vật, mà nhân vật nào cũng có ấn tượng. Có những nhân vật không tên nhưng lại có khả năng lưu danh muôn thuở. Nói vậy là để thấy tài sáng tạo cuả Kim Lân và  sức sống tiềm tàng của tác phẩm.

Tràng là một thanh niên đứng tuổi, hình hài thô tháp, lại còn là kẻ nghèo nhất trong xóm ngụ cư. Nhà tràng chỉ là một căn lều dúm dơ, xiêu vẹo mà có thể gió thổi bay lúc nào không biết.

Mẹ Tràng đã già lại yếu “đôi mắt nhòe”, “đôi tai nghễnh đãng, dáng đi lỏng thỏng, cử chỉ lập cập, lóng ngóng”. Nói cách khác,  bà trụ lại với đời như thể đang chờ đợi tử thần đến rước đi. Trong cái đói khủng khiếp  năm Ất Dậu -1945, mẹ con Tràng lê lết cầm hơi, tồn tại từng ngày nhờ vào công việc  kéo xe của Tràng. Tính tình của Tràng ngay cả trẻ con cũng bỡn cợt, trêu chọc chứng tỏ anh có lớn mà trí khôn không lớn. Trong mắt mọi người Tràng luôn luôn có thể bị khinh thường, giễu cợt.

Từ cái hoàn cảnh ấy, có thể khẳng định: Tràng sẽ không bao giờ mơ đến chuyện lấy vợ. 

Nhưng điều đáng quý ở Tràng là ngay cả trước thực trạng ấy, một thực trạng bi thảm anh vẫn trếu táo, tự trào, còn biết bông đùa. Thế rồi trong một lần tình cờ đang gò lưng kéo xe thóc vào dốc tỉnh. Tràng tự hò một câu để an ủi mình cho đỡ mệt. Điều quan trọng là câu hò ấy có cụm “ cơm trắng mấy giò” và dĩ nhiên mấy tiếng ấy lập tức làm cho những người phụ nữ đã mấy ngày ngồi vêu ra ở chợ không thể không để ý, và đã có một ả sán lại gần,biến sự đùa của Tràng thành sự thật. Tràng không ngờ mình đói lại còn có kẻ đói hơn mình. Tràng cho người phụ nữ ấy ăn, tình thương người đã dẫn Tràng đến vơi nghĩa cử hào hiệp trong cơn đó khát. Tràng không chỉ cho người phụ nữ ấy ăn như là cách bố thí mà Tràng còn  cho Thị ăn bằng của tình yêu thương, sự đồng cảm và bằng sự cưu mang, chia sẻ. Nhưng rồi một tình huống không ngờ rằng  người phụ nữ ấy không những cần tràng một bựa ăn mà còn muốn tìm ở Tràng mọt điểm tựa suốt đời. Khi biết Tràng chưa có vợ, người phụ nữ đã dũng cảm tiến lên để được làm vợ Tràng. Vậy là với Tràng lúc này,không còn là chuyện bông lơn, bỡn cợt nữa mà là trở thành chuyện hệ trọng của cả cuộc đời người. Tràng ứng xử hoàn toàn khác, một cách nghiêm túc, đứng đắn và anh đã chủ động  vào chợ sắm cho Thị mấy thứ và “ ra hàng cơm đánh một bữa thật no nê”. Với Tràng đó có thể là những thứ dẫn cưới, một cổ cưới chăng? Từ giây phút này Tràng đã sống với Thị như những người đang yêu và được yêu, cũng cho thấy cũng  từ tình thương mà chuyển đến tình yêu là chuyện quá bất ngờ và đột ngột. Nhưng Tràng không hề lung túng, bối rối trước tình huống đó. Rồi chính anh cũng chủ động dắt người con gái ấy về để tình mẹ một cách đàng hoàng, nghiêm túc.

Về đến nhà, tuy chưa tin được rằng là mình đã có vợ, nhưng Tràng đã biết làm tròn nhiệm vụ của một người chồng.  Tràng đã biết cùng với vợ làm nên một tổ ấm trong cảnh cơ hàn. Tràng đã cảm nhận được cái đẹp của tình yêu, cái giá của ái ân, hạnh phúc “phởn phơ hư…” Chính Tràng trong cơn đói khát như một  thân phận, bèo bọt đã dạt trôi đến với một thân phận bèo bọt khác, nhưng cả hai đã không làm cho nhau bèo bọt hơn nữa. Ngược lại đã biết nương tựa vào nhau để sống, để hướng tới tương lai.

Kim Lân đã có những trang viết rất hay để miêu tả tâm lý nhân vật. Tràng giống như một đứa con tinh thần của Kim Lân. Tình huống nhặt vợ đầy bất ngờ và đặc biệt nhưng đã thể hiện được tư tưởng sâu sắc của tác phẩm đó chính là dù người nghèo đói, cùng cực nhưng họ luôn nghĩ đến sự sống chứ không phải là cái chết, luôn có niềm tin vào tương lai tươi đẹp. Qua Tràng ta cũng đã cảm nhận được một tâm hồn trong sáng đẹp đẽ của người dân lao động nghèo, đó chính là tình người và hi vọng.

Người viết: Đặng Triệu Mận

Bài tập 7: Ai đó đã từng nói: “Văn chương có hai loại, một loại đáng thờ và một loại không đáng thờ. Loại không đáng thờ là loại chú ở văn chương, loại đáng thờ là loại chú ở con người”; hãy phân tác phẩm “Vợ nhặt” của Kim Lân để làm rõ luận điểm đó.

Bài tham khảo

“Vợ nhặt” của Kim Lân là một tác phẩm hướng đến con người với những mộc mạc, gần gũi nhất. Rất đúng với lời bình “Văn chương có hai loại, một loại đáng thờ và một loại không đáng thờ. Loại không đáng thờ là loại chú ở văn chương, loại đáng thờ là loại chú ở con người”. Nét bút văn học của Kim Lân chính là loại đáng thờ như trong luận điểm đó, điều này được thấy rõ qua ngòi bút của ông trong tác phẩm “Vợ nhặt”.

Kim Lân là nhà văn chuyên viết về truyện ngắn. Đề tài của ông thường gắn liền với hơi thở ruộng đồng Bắc Bộ nơi những con người quê hương chân chất thật thà, coi trọng nghĩa tình, rất nhân hậu và giàu yêu thương. “Vợ nhặt” là tác phẩm tiêu biểu của Kim Lân được trích trong tập truyện “Con chó xấu xí”. Bằng tài năng nghệ thuật bậc thầy, nhất là bậc thầy của miêu tả tâm lý. Kim Lân đã mang đến cho người đọc sự xúc động mãnh liệt thông qua hình ảnh anh cu Tràng, chị vợ nhặt và bà cụ Tứ.

Theo Kim Lân, “nhặt” có nghĩa là nhặt nhạnh, lựa chọn một cách ngẫu nhiên. Vợ nhặt là vợ theo không, không cưới xin, lễ nghi đàng hoàng, tử tế. Thông thường, người ta chỉ nhặt cọng rơm, cọng rác chứ không ai nhặt được vợ. Trong hoàn cảnh này, thân phận con người rẻ rúng hơn bao giờ hết. Kim Lân đã xây dựng một tình huống truyện bất ngờ nhưng cũng đầy nghịch cảnh, bi hài. Giữa nạn đói, giữa lúc thân mình còn chưa biết có lo nổi hay không thì anh cu Tràng lại nhặt được vợ. Chỉ bằng vài câu nói đùa, bốn bát bánh đúc mà một anh chàng xấu trai, nghèo khổ lấy được vợ. Và cũng có thể do hoàn cảnh đói khát đến cùng quẫn mà thị chịu theo không Tràng.

Nói về anh cu Tràng, là một anh nông dân nghèo khổ, xấu xí, ế vợ; thế mà trong những ngày đói khổ nhất, xác chết nhan nhản đầy đường thì anh lại đèo bòng lại rước thêm cái của nợ đời, thêm một miệng ăn trong khi không biết anh có lo nổi bản thân mình không. Tuy nhiên với một vẻ ngoài hơi dở, thô kệch xấu xí không ai theo đó lại là một tấm lòng nhân hậu, anh được người ta theo không mà vẫn tôn trọng và nhận thấy trách nhiệm của mình. Chỉ với vài câu đùa vu vơ

“Muốn ăn cơm trắng mấy giò

Thì lại đây đẩy xe bò với anh, nì”

 và một chặp bốn cái bánh đúc thì anh bỗng nhiên có được vợ, giữa lúc chính bản thân còn không lo được mà anh lại chấp nhận mang theo một người về nhà mình. Anh còn lo nghĩ chuẩn bị bao nhiêu thứ mặc dù vẫn nhận ra gia cảnh mình nghèo, cái tặc lưỡi “chậc kệ” của anh cũng đã bao chứa biết bao suy nghĩ và lo ấu trong đó. Nhưng anh khao khát hạnh phúc, mong có một mái ấm nho nhỏ như bao người để vun vén và phấn đấu. Mặc dù trong hoàn cảnh khốn cùng nhưng anh cu vẫn luôn rất tử tế với người vợ nhặt của mình anh mua cho thị cái thúng con đựng vài đồ lặt vặt rồi cùng thị đánh chén một bữa no nê rồi mới cùng nhau đẩy xe bò về. Tràng cũng có tâm lý của người đàn ông sắp đưa vợ ra mắt gia đình, cũng bồi hồi và lo lắng, Tràng cứ đi ra đi vào xem mẹ về chưa để nói với mẹ về người con dâu mới, dù là người vợ tầm phơ tầm phào gặp nhau vài bữa nhưng anh vẫn luôn coi trọng thị, nanag niu thị và cứ phớn phở khác thường, ngày hôm sau anh thức giấc trong trạng thái hoàn toàn mới ý thức được trách nhiệm của bản thân với mẹ, với vợ. Kim Lân quả thật rất yêu nhân vật của mình, ông vẽ lên hình ảnh thực mà đẹp đến thế, không vương chút khổ đau, tha hóa của hoàn cảnh tăm tối ấy. Anh cu Tràng như tia sáng giữa bầu trời tối tăm mù mịt.

Nhân vật thị - người vợ nhặt hiện lên giữa cái đói khát ấy mang đầy vất vả, ngay cả cái tên người ta cũng không biết chỉ gọi là “thị”. Trong ba nhân vật, người vợ nhặt là nhân vật được nói đến ít nhất. Thực ra, nếu không có nhân vật người “vợ nhặt” thì nội dung và nghệ thuật của tác phẩm bị ảnh hưởng rất nhiều bởi đây là nhân vật làm nên giá trị nội dung và tư tưởng của tác phẩm, có vai trò quyết định đến sự hình thành các hình thức nghệ thuật khác. Người vợ nhặt là một nhân vật không có tên gọi, lai lịch, gốc gác, ngoại hình tiều tụy nhưng là một người vợ đúng mực, một người con dâu hiếu thảo và là người đem đến niềm vui, niềm lạc quan cho mọi người. Ngoại hình của thị được tác giả miêu tả rất tỉ mỉ: “Cái nón rách tàng nghiêng nghiêng che mất đi nửa mặt”.  Vì khát vọng được sống mà thị phải chỏng lỏn, phải cong cớn để được ăn và cứ thế theo không một người đàn ông xa lạ, có lẽ thị khổ quá rồi, nhưng niềm hy vọng được sống không cho phép thị buông bỏ, nên thị phải rũ bỏ lòng tự trọng và niềm kiêu hãnh của người phụ nữ để được sống, thị ăn một chặp bốn cái bánh đúc. Thị ăn cho quá khứ cho hiện tại và cho cả tương lai, điều này chứng tỏ khát khao sống mãnh liệt của thị, vẫn mong muốn tương lai. Tuy nhiên nếu thị chỉ hiện lên trong dáng vè chỏng lỏn, cong cớn thì ít ai biết được vẻ đẹp bên trong của thị, thị vẫn là một người phụ nữ đúng nghĩa. Đối với người dân xóm ngụ cư, người vợ nhặt đem đến cho họ niềm tin vào sự đổi thay. Đối với bà cụ Tứ, người “vợ nhặt” đã đem đến cho bà niềm an ủi, niềm hạnh phúc lớn lao ở cái tuổi gần đất xa trời. Bà cụ Tứ vui mừng khi thấy con cái trưởng thành, con trai mình đã có vợ bà lại nghĩ đến tương lai con cháu mình sau này. Đối với Tràng, người “vợ nhặt” đem đến niềm hạnh phúc thực sự cho Tràng.

Và hình ảnh đẹp nhất về người mẹ, bà cụ Tứ hiện lên thật mộc mạc mà cũng thật lớn lao với tình thương cao cả. Lòng người mẹ nghèo ấy thật đẹp. Khởi đầu tâm lí ở bà cụ Tứ là ngỡ ngàng trước một sự việc dường như không hiểu được. Cô gái xuất hiện trong nhà bà phút đầu là một hiện tượng lạ. Trạng thái ngỡ ngàng của bà cụ Tứ được khơi sâu bởi hàng loạt những câu hỏi nghi vấn: "Quái sao lại có người đàn bà nào ở trong nhà ấy nhỉ? Người đàn bà nào lại đứng ngay đầu giường thằng con mình thế kia? Sao lại chào mình bằng u? Không phải con cái Đục mà. Ai thế nhỉ?" Rồi lại: "Ô hay, thế là thế nào nhỉ?". Sự ngạc nhiên này thể hiện nỗi đau của người viết: chính là sự cùng quẩn của hoàn cảnh đánh mất ở người mẹ sự nhạy cảm trước việc con trai yêu quý của mình có vợ. Người ta có vợ lúc ăn nên làm ra, ấy vậy mà con mình phải đến khi cuộc sống trở nên mong manh, con người phải dựa vào nhau mà sống thì con mình mới lấy được vợ. Lòng người mẹ ấy vừa tủi hờn, vừa thương xót, thương con trai và thương cả người đàn bà lạ kia; vì chúng nó đến với nhau trong những tháng ngày nguy khốn nhất, nuôi một miệng ăn còn chưa đủ nay lại thêm miệng ăn nữa, cuộc sống đã bế tắc lại thêm phân bế tắc. Tấm lòng của người mẹ ấy sáng lên trong thái độ của bà với việc con mình có vợ, bà tủi hờn cho số phận nhưng không hề trách cứ hay xua đuổi người con dâu; bà chỉ cúi đầu nín lặng rồi nhẹ nhàng chấp nhajajn người con dâu. Bữa sáng đầu tiên khi nhà có thành viên mới thật đẹp, bà mẹ ấy đã nấu cháo cám đắng chat nhưng lại đầy ngọt ngào, đó là vị “ngon”, ngọt của tình yêu thương đầy ắp mà người mẹ dành cho những đứa con của mình. Bữa ăn vui vẻ lạ thường, giữa cái đói khổ tưởng như không thoát ra được thì những con người đó lại quay quần bên nhau để bàn chuyện đời, chuyện tương lai phía trước. 

Truyện mở ra bằng cảnh chiều chạng vạng và kết thúc trong buổi sáng mùa hè với ánh nắng chói lóa, rực rỡ, các nhân vật bắt đầu bằng không gian ảm đảm chết chóc của xóm ngụ cư dưới gầm trời đói khát và khép lại bằng khung cảnh đầm ấm của một gia đình quây quần bên mâm cơm ngày đói. Cách kết thúc đã cho người đọc tin tưởng và tương lai cuộc đời các nhân vật “hãy hướng về phía mặt trời, bóng tối sẽ ngả về sau lưng bạn”. Dù khó khăn đến đâu thì hạnh phúc lứa đôi vẫn đủ khả năng thay đổi con người và hoàn cảnh. Vẻ đẹp con người trong Vợ Nhặt đã là minh chứng rõ nét cho câu nói “loại đáng thờ là loại chú ở con người”, bởi vì nếu văn chương chỉ là văn chương thôi thì nó thực sự sẽ sáo rỗng và không có linh hồn.

IV. Soạn bài cực ngắn: Vợ Nhặt

Bài tập 1:  4 phần

1. từ đầu … tự đắc với mình => Tràng đưa người vợ nhặt về nhà.

2. tiếp … đẩy xe bò về =>kể lại chuyện hai người gặp nhau và nên vợ nên chồng.

4.  còn lại =>niềm tin vào tương lai tươi sáng.

=>Mạch truyện hợp lý, mở ra từ cảnh Tràng đưa "vợ nhặt" về nhà gặp mẹ rồi mới kể lại chuyện hai người gặp nhau và nên duyên vợ chồng. 

Bài tập 2:  

1. Ngạc nhiên vì Tràng có vợ giữa cảnh nạn đói đang đe dọa =>tình huống truyện độc đáo, Thể hiện rõ giá trị hiện thực, giá trị nhân đạo và giá trị nghệ thuật. 

2. Giá trị hiện thực: tố cáo tội ác thực dân, phát xít , giá trị con người bị phủ nhận khi chỉ vì cùng đường, cái đói đã bóp méo cả nhân cách con người. 

3. Giá trị nhân đạo: Tình nhân ái, cưu mang, khát vọng hướng tới sự sống và hạnh phúc….

4. Nghệ thuật: tình huống độc đáo, phát triển dễ dàng => nổi bật được những cảnh đời, những thân phận con người bất hạnh, làm nổi bật chủ đề tư tưởng tác phẩm.

 Bài tập 3: 

- Lấy vợ là việc có ý nghĩa quan trọng đánh dấu một bức ngoặc lớn, ở đây, chỉ với vài câu bông đùa mà Tràng đã có vợ. Còn chị vợ không cần phải cưới hỏi hay của hồi môn mà chỉ vài bát bánh đúc đã theo không Tràng về nhà. Cái đói, cái rét làm mất đi nhu cầu hạnh phúc của con người, họ phải làm mọi cách để bám víu cuộc sống, để có cái ăn, cái mặc. 

Bài tập 4: Thể hiện 

1. Lúc quyết định lấy vợ: Vì tưởng là mình nói đùa và ngờ đàn bà cũng sẽ không tin là thật =>khát khao về mái ấm gia đình.

2. Khi dẫn vợ về qua xóm ngụ cư: không lầm lũi như mọi ngày nữa, tâm trạng hắn khác hẳn, vẻ mặt hắn có một vẻ gì phớn phở khác thường, tủm tỉm cười- nụ cười một mình và hai mắt sáng lên lấp lánh...rồi hắn thấy làm thích, cái mặt cứ vênh lên tự đắc với mình 

3. Trong buổi sáng đầu tiên sau khi có vợ: có sự đổi khác, ngủ dậy Tràng thấy người êm ái lửng lơ như người vừa trong giấc mơ đi ra, thay đổi thấy bản thân trưởng thành, thấy mình có bổn phận lo lắng cho vợ con sau này, thấy cái nhà như cái tổ ấm che mưa che nắng. 

Bài tập 5:

1. Tâm trạng bà cụ Tứ buồn vui lẫn lộn, bà buồn vì thấy thương và xót xa cho con trai mình.

2. Bà vui vì con trai mình đã có vợ, nó yên bề nó. 

=>Bà cụ Tứ là hiện thân của nỗi khổ cuộc sống. Người mẹ ấy đã nhìn cuộc hôn nhân éo le của con thông qua toàn bộ nỗi đau khổ của cuộc đời bà. 

Bài tập 6: Thể hiện: Cách kể chuyện hấp dẫn, cách dựng cảnh với nhiều chi tiết đặc sắc, tình huống truyện độc đáo. Thể hiện sự tài tình khi miêu tả diễn biễn tâm trạng của  nhân vật một cách tự nhiên chân thực

Phần Luyện tập

Bài tập 1: Chi tiết khiến em ấn tượng nhất đó chính là là chi tiết nồi cháo cám của bà cụ Tứ. 

1. Qua chi tiết ta cảm nhận rõ  bà cụ Tứ - người mẹ đảm đang, yêu thương con hết mực.

2. Tràng là người chồng có trách nhiệm, khéo léo trong cách cư xử với mẹ.

3. Vợ Tràng cũng vậy,  thay đổi về tính cách, không còn nét cách đỏng đảnh như xưa nữa mà cô đã chấp nhận hoàn cảnh, đã thực sự sẵn sàng cùng gia đình vượt qua những tháng ngày khó khăn sắp tới. 

Bài tập 2: Phân tích ý nghĩa đoạn kết của tác phẩm. 

Hình ảnh “đám người đói và lá cờ đỏ” hiện lên trong tâm trí Tràng vừa gợi ra cảnh ngộ đói khát thê thảm vừa gợi ra những tín hiệu của cuộc cách mạng, cả hai đều là những nét chân thực trong bức tranh đời sống lúc bấy giờ. Kết thúc truyện góp phần thể hiện tư tưởng nhân đạo, trân trọng niềm khát vọng sống ngay bên bờ vực cái chết của người lao động nghèo; niềm tin bất diệt vào tương lai tươi sáng. 

 Phần tham khảo, mở rộng

Bài tập 1: Phân tích truyện ngắn “Vợ nhặt” của nhà văn Kim Lân trong chương trình văn 12

Bài tham khảo

Tác phẩm “Vợ nhặt” là được rút ra từ tập truyện "Con chó xấu xí" xuất bản năm 1962. Tiền thân của truyện là tiểu thuyết "Xóm ngụ cư" được viết sau Cách mạng tháng Tám. “Vợ nhặt” được đánh giá là một trong những tác phẩm hay nhất trong kho tàng truyện ngắn Việt Nam sau cách mạng.

Nhan đề tác phẩm tuy gắn gọn nhưng hàm chứa một ý nghĩa tư tưởng sâu xa. “Vợ nhặt” hiểu theo nghĩa đen là nhặt, lượm được vợ. Qua nhan đề này, ta thấy được sự rẻ rúng và tình cảnh thê thảm của người dân lao động nghèo trong nạn đói cũng như tình hình đen tối của xã hội Việt Nam thời bấy giờ. Nói như Kim Lân “Nhặt tức là nhặt nhạnh, nhặt vu vơ. Trong cảnh đói năm 1945 người dân lao động dường như khó ai thoát khỏi cái chết. Bóng tối của nó phủ lấy mọi xóm làng. Trong hoàn cảnh ấy giá trị một con người thật vô cùng rẻ rúng, người ta có thể có vợ theo chỉ nhờ mấy bát bánh đúc ngoài chợ - đúng là nhặt được vợ như tôi nói trong truyện”. Chính nhan đề độc đáo đã góp phần không nhỏ trong việc tạo ấn tượng và gợi sự tò mò của người đọc.

Thành công của “Vợ nhặt”  trước hết là ở cách xây dựng một tình huống truyện độc đáo. Tác giả đã khéo léo dựng lên một tình huống mới lạ nhưng cũng không kém phần trớ trêu: anh cu Tràng nhặt vợ. Là “nhặt” chứ không phải lấy được. Có thể thấy, ở xã hội đó, giá trị của con người bị hạ thấp, không khác gì một món hàng có thể dễ dàng nhặt được ven đường. Với tình huống anh cu Tràng “nhặt” được vợ trong những ngày đói giữa xóm ngụ cư, Kim Lân muốn khắc hoạ số phận bi đát của người nông dân trước cách mạng tháng Tám đồng thời thể hiện sự cảm thông, sẻ chia trước khát khao hạnh phúc của những số phận khốn cùng ấy. Đọc “Vợ nhặt”, có nhận xét rằng: “Bốn bát bánh đúc thành lễ cưới thật rồi – Xin từ điển hãy thêm từ vợ nhặt – Ngòi bút Kim Lân tưởng như đùa như khóc – Đói quắt quay nhưng tha thiết con người”. Đọc những dòng tâm tư này ta hiểu, thẳm sâu của câu chuyện nhặt vợ tội nghiệp là khát khao về mái ấm gia đình, là tình yêu thương, đùm bọc giữa người với người. Cái đói tuy đáng sợ, hiện thực tuy thảm khốc nhưng đằng sau những điều đấy, Kim Lân còn muốn truyền tải một thông điệp khác đậm tính nhân văn: “Khi đói, người ta không nghĩ đến con đường chết mà chỉ nghĩ đến con đường sống. Dù ở trong tình huống bi thảm đến đâu, dù kề bên cái chết vẫn khát khao hạnh phúc, vẫn hướng về ánh sáng, vẫn tin vào sự sống và vẫn hi vọng ở tương lai, vẫn muốn sống, sống cho ra người”. 

Nét đặc sắc của “Vợ nhặt” còn là ở cách xây dựng hình tượng nhân vật chân thật, sống động với những biến chuyển tinh vi trong thế giới nội tâm. Trước hết phải kể đến Tràng, chàng trai nghèo hiền lành luôn mang trong mình niềm khát khao về mái ấm gia đình. Diện mạo Tràng được miêu tả bằng những đường nét thô kệch “Hai con mắt nhỏ tí, hai bên quai hàm bạnh ra, bộ mặt thô kệch, thân hình to lớn vập vạp”. Tính tình lại nông nổi, có tật vừa đi vừa nói, thường tủm tỉm cười một mình. Gia cảnh Tràng cũng chả khá khẩm gì, anh sống với mẹ già và làm nghề kéo xe bò thuê để kiếm sống qua ngày. Có thể thấy, ở Tràng không có gì hấp dẫn và cuốn hút cả, vậy mà anh không những lấy được vợ mà còn lấy bằng cách đơn giản nhất: nhặt. Lần đầu chỉ bằng câu hò vu vơ – Tràng quen thị. Vài ngày sau gặp lại, Tràng sẵn sàng mời thị ăn mặc dù chính anh cũng chẳng giàu có gì. Miếng ăn lúc đó là cả mạng sống của con người nhưng anh vẫn sẻ chia với thị bởi đó là tình cảm của những con người đồng cảnh ngộ dành cho nhau. Chỉ vài câu bông lơn, đùa cợt “Nói đùa chứ có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về” mà từ một chàng trai ế chỏng chơ, Tràng có thêm một cô vợ mới. Trong hoàn cảnh mà người ta tranh nhau từng miếng ăn để sống như thế, hành động đưa thị về cùng đồng nghĩa với việc Tràng “đèo bòng” thêm một gánh nặng. Dù vô tư, vô lo đến đâu, lúc này bản thân anh cũng “chợn” khi nghĩ về tương lai, nhưng cuối cùng Tràng vẫn chậc lưỡi “kệ”. Qua cái chậc lưỡi và hành động có phần liều lĩnh ấy, ta thấy được tấm lòng nhân hậu, tình thương người và sâu xa hơn là khát khao về hạnh phúc gia đình ẩn dưới diện mạo có phần thô kệch. 

Hạnh phúc gia đình cũng làm Tràng thay đổi. Nó giúp anh tạm quên đi cái đói trước mắt “Trong một lúc Tràng như quên hết những cảnh sống ê chề tăm tối hằng ngày, quên cả cái đói khát đang đe doạ” để chỉ còn “tình nghĩa” giữa hắn và người đàn bà đi bên cạnh “Một cái gì mới mẻ, lạ lắm chưa từng thấy ở người đàn ông ấy”. Tràng thấy mình như bước ra từ một giấc mơ, trong người “êm ái, lơ lửng”, anh thấy “yêu thương, gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng. Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đấy. Cái nhà như tổ ấm che mưa, che nắng. Một nguồn vui sướng mới, phấn chấn, tràn ngập trong lòng. Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người, hắn thấy hắn có bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau này.”  Vượt qua thực tại, niềm hạnh phúc gia đình đã đem sinh khí đến cho cuộc sống đang tràn ngập sự chết chóc bủa vây, cho những con người nghèo khổ đang đấu tranh với cái đói.

Tiếp theo là bà cụ Tứ - hình tượng người mẹ Việt Nam hiền lành, nhân hậu giàu đức hi sinh. Nhân vật bà cụ Tứ hiện lên với dáng đi lọng khọng, chậm chạp, run rẩy, lưng còng vì tuổi tác “lọng khọng đi vào ngõ vừa đi vừa lẩm bẩm tính toán gì trong miệng”. Bà ngạc nhiên trước thái độ trịnh trọng  khác thường của người con trai vô tâm tính. Khi thấy người đàn bà lạ ngồi ở đầu giường con trai hai lần chào mình bằng u, bà thấy  mắt nhoèn đi, bà im lặng vì quá ngạc nhiên, hoàn toàn không hiểu đầu đuôi câu chuyện. Hàng loạt câu hỏi đặt ra trong đầu óc già nua của bà: “Người đàn bà nào lại đứng ở đầu giường thằng con mình thế kia? Không phải cái đục mà. Ai thế nhỉ ? Sao lại chào mình bằng u ?”. Phải, bà làm sao ngờ được giữa năm đói, nhà lại nghèo mà con bà dẫn về một cô vợ! Nghĩ về Tràng, bà thương con phải nhờ cơn đói khát mới lấy được vợ, về bản thân, bà thấy tủi vì chưa làm tròn bổn phận của người mẹ: lấy vợ cho con, bà thương và tủi cho vong linh chồng không biết mặt con dâu, không được chứng kiến ngày con trai lấy vợ. Và, về người đàn bà lạ bỗng trở thành con dâu mình, cụ Tứ cảm thấy thương cho số phận khốn khổ của thị, bởi vì cùng đường người ta mới lấy đến con trai bà mà không cần cưới hỏi. Trược “sự kiện” anh cu Tràng nhặt được vợ, lòng bà cụ ngổn ngang bao tâm trạng buồn vui, mừng tủi, và nhất là lo lắng vì nạn đói, lo “vợ chồng chúng nó có sống qua nổi cái thời tao loạn này không” – tất cả hoà trong dòng nước mắt nghẹn ngào. “Nước mắt cứ chảy xuống ròng ròng”, những giọt nước mắt ấy đã nói lên tất cả tấm lòng chân thật người mẹ hiền lành, nhân hậu. Có thể thấy, diễn biến tâm trạng bà cụ Tứ được khắc họa vô cùng chân thật, logic và xúc động. Đó là tấm lòng nhân hậu, bao dung, đầy hi sinh của người mẹ nghèo Việt Nam

Cuối cùng là nhân vật người vợ nhặt – nạn nhân của nạn đói. Đó là một người đàn bà tội nghiệp, đáng thương, không có gì kể cả tên riêng. Chính cái đói, cái nghèo đã đẩy thị vào bước đường cùng, đã khiến thị theo không người lạ về làm vợ chỉ vì được sống. Những mảnh đời như thị không phải là hiếm trong bối cảnh nạn đói. Trước khi trở thành vợ Tràng, thị là  một người phụ nữ ăn nói chỏng lỏn, táo bạo và liều lĩnh : Lần gặp đầu  tiên, thị chủ động làm quen, ra đẩy xe bò cho và “liếc mắt cười  tít” với Tràng. Lần gặp thứ hai, thị “sầm sập chạy tới”, “sưng sỉa nói”  và lại còn “đứng cong cớn” trước mặt Tràng. Khi được Tràng mời ăn bánh đúc, thị đã cúi gằm ăn một mạch bốn bát. Ăn xong còn lấy đũa quẹt ngang miệng và khen ngon… Tất cả những biểu hiện trên của thị suy cho cùng cũng là vì  đói. Cái đói trong một lúc nào đó nó có thể làm biến dạng tính cách của  con người. Xây dựng nhân vật thị, nhà văn thể hiện sự xót xa và cảm thông  cho cảnh ngộ đói nghèo của người lao động trong những năm trước cách mạng. Khi trở thành vợ Tràng, thị đã trở về với chính con người thật của mình, một người đàn bà hiền thục, e lệ, lễ phép, đảm đang.“Thị ngồi im, bần thần nhìn ra sân, tay giữ chặt cái thúng”, dậy sớm, quét tước, dọn dẹp nhà cửa cùng mẹ chồng. Ngay đến người vô tâm như anh Tràng vẫn nhận ra sự thay đổi kỳ lạ ở con người thị. Tràng nom thị hôm nay khác lắm, rõ ràng là người đàn bà hiền hậu đúng mực không có vẻ gì chao chát, chỏng lỏn như mấy lần gặp ngoài chợ tỉnh. Đó là hình ảnh của một người vợ  biết lo toan, thu vén cho cuộc sống gia đình. Hoá ra cái đanh đá, chỏng lỏn trước kia ở người đàn bà chẳng qua là do đói do khát mà ra. Khi được sống trong tình thương, trong mái ấm gia đình, người đàn bà ấy đã sống với bản chất tốt đẹp vốn có của mình, của một người phụ nữ Việt Nam.

Hình ảnh cuối tác phẩm “Trong mắt Tràng vẫn thấy đám người đói và lá cờ đỏ sao vàng bay phấp phới…” kết thúc câu chuyện nhưng cũng mở ra một niềm hi vọng mới. Nó gieo vào gia đình Tràng niềm tin vào một tương lai tươi sáng hơn, mà ở đó, không còn nạn đói, không còn lưu lạc, không còn áp bức. Nó cũng gieo vào lòng người đọc một niềm tin mãnh liệt rằng những con người khốn khổ sẽđược giải phóng dưới sự dẫn đường của lá cờ đỏ Cách mạng. Đây là một kết thúc phát triển theo chiều hướng tích cực của tác phẩm: Khi bị đẩy vào tình trạng đói khổ cùng đường thì người nông dân lao động sẽ hướng tới cách mạng. Đây cũng là xu hướng vận động chủ yếu của văn học Việt Nam từ 1945 đến 1975. 

“Vợ nhặt” là một truyện ngắn đặc sắc của Kim Lân và của văn xuôi sau cách mạng. Giá trị hiện thực của tác phẩm ở chỗ, nó tái hiện chân thực hiện thực cuộc sống khốn cùng, bi thảm của người nông dân trong nạn đói khủng khiếp có thật trong lịch sử dân tộc năm 1945 đồng thời phơi bày tội ác của bon thực dân, phát xít khi ban hành chính sách vô lý: nhổ lúa trồng đay. Tác phẩm cũng mang một giá trị nhân đạo sâu sắc. Qua “Vợ nhặt” Kim Lân đã tố cáo tội ác của thực dân Pháp và phát xít Nhật đồng thời bày tỏ niềm xót thương, đồng cảm cho số phận những người nông dân nghèo trong xã hội. “Vợ nhặt” cũng là một bài ca về tình người, tình mẫu tử khi mà ở đó, trong cái đói, cái nghèo, con người vẫn yêu thương, cảm thông, đùm bọc nhau và không từ bỏ hi vọng sống.

Về nghệ thuật, tác phẩm đã dựng lên một tình huống truyện lạ, độc đáo, đầy ý nghĩa. Nghệ thuật trần thuật linh hoạt và sử dụng ngôn ngữ có tính tạo hình đặc sắc cũng góp phần truyền tải nội dung và tư tưởng của tác phẩm một cách hiệu quả. Bên cạnh đó, cách xây dựng hình tượng nhân vật, miêu tả diễn biến tâm lí và hành động cũng đạt tới trình độ tinh vi và mẫu mực.

Có thể nói, qua “Vợ nhặt”, Kim Lân đã để lại một dấu ấn sâu đậm trong lòng người đọc và góp vào văn đàn Việt Nam một bức tranh đầy chân thực, xúc động về người nông dân trong xã hội cũ.

Bài tập 2: Cảm nhận về nhân vật người vợ nhặt trong truyện ngắn “Vợ nhặt” (Kim Lân)

Bai tham khảo

Trong kí ức của mỗi người Việt Nam, nạn đói năm Ất Dậu vẫn là một cơn ác mộng khó quên. Cũng từ đó, miếng cơm manh áo từ nỗi đau hiện thực trở thành đề tài sáng tác của những nhà văn. Thân phận những con người trở nên tầm thường, đến cả chuyện hạnh phúc lứa đôi cũng là chuyện rẻ rúng. Tất cả những điều đó đều được ghi lại bằng ngòi bút của Kim Lân qua nhân vật người vợ nhặt trong tác phẩm cùng tên.

Trước tiên, ta thấy người vợ nhặt là nạn nhân của nạn đói với cuộc sống trôi nổi, bấp bênh. Là nhân vật vô danh, người vợ nhặt là đại diện chung của số phận của những người phụ nữ không may sinh ra trong hoàn cảnh bất hạnh. Người phụ nữ ấy không tên, không tuổi, không quê hương, không quá khứ. Từ đầu đến cuối tác phẩm, Kim Lân chỉ ban tặng cho nhân vật này những cách gọi tên rất chung chung như “cô ả”, “thị”, “người đàn bà”, “nàng dâu mới”, “nhà tôi”. Thị xuất hiện một cách bạo dạn, đáng thương trong hai lần gặp Tràng. Thị “ngồi vêu ra” lẫn trong đám con gái ngồi chờ nhặt hạt thóc rơi. Thị ton ton chạy lại đẩy xe tiếp Tràng với hi vọng được “kiếm ăn” nhưng thất bại. Từ sự cong cớn, liếc mắt cười tít, Thị chuyển sang vẻ tiều tụy, hốc hác vì cái đói trong lần gặp thứ hai “Hôm nay thị rách quá, áo quần tả tơi như tổ đỉa, thị gầy sọp hẳn đi, trên cái khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt”. Tràng dường như không thể nhận ra thị. Cùng với sự thay đổi về hình thức, cái đói đã xóa đi cái hồn nhiên hóm hỉnh của thị khi gặp Tràng, chị biến thành một người phụ nữ “đon đả”, táo bạo và liều lĩnh. Thị đói đến mức cắm đầu ăn bốn bát bánh đúc liền “Thị cắm đầu ăn một chặp bốn bát bánh đúc liền chẳng chuyện trò gì. Ăn xong thị cầm dọc đôi đũa quệt ngang miệng”. Kim Lân đã khắc họa hình ảnh một người phụ nữ thật đáng thương! Từ ngoại hình đến cử chỉ, hành động, thị đều hiện lên trên trang giấy với sự khắc khổ, nhếch nhác, tội nghiệp. Cái đói chẳng những tàn hại dung nhan mà còn tước đoạt cả tính cách và nhân phẩm của thị. Vì đói mà trở nên “chao chát”, “chỏng lỏn”, “sưng sỉa”.. Cái đói khiến thị quên đi việc giữ gìn ý tứ và lòng tự trọng của con gái. Càng tội nghiệp hơn khi cái đói buộc thị phải trở thành “người vợ nhặt” sau một câu nói nửa đùa nửa thật “này nói đùa chứ có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cũng về”. Thế là xong một câu chuyện tình, một cuộc hôn nhân! Sự lãng mạn chỉ là điều không tưởng. Đang trên bờ vực của cái chết, thị còn lựa chọn nào hơn? Trong suy nghĩ của thị, Tràng như một cái phao cứu sinh, cứu thị ra khỏi sự đói khát của thế kỉ. Cái đói đã làm cho thị và biết bao người dân lúc bấy giờ rẻ rúng như vậy. Có ai ngờ được hạnh phúc lứa đôi được xây đắp bằng bốn bát bánh đúc và một lời nói bông đùa? Nhưng trong hoàn cảnh “người chết như ngả rạ”, “không khí ẩm lên mùi ẩm thối của rác tưởi và mùi gây của xác người” thì hạnh phúc tầm thường, đơn sơ kia cũng đáng quý biết bao.

Bên cạnh đó, người vợ nhặt còn là người phụ nữ với lòng ham sống mãnh liệt. Thị đồng ý theo không Tràng là vì để được sống chứ không phải là lẳng lơ. Khát vọng sống mãnh liệt thúc giục thị phải tìm ra lối thoát cho hoàn cảnh thương tâm. Niềm lạc quan lạc sống ấy chính là một phẩm chất đáng quý mà nói như Kim Lân: “Khi viết về con người năm đói người ta hay nghĩ đến những con người chỉ nghĩ đến cái chết. Tôi muốn viết một truyện ngắn với ý thức khác. Trong hoàn cảnh khốn cùng, dù cận kề bên cái chết nhưng những con người ấy không nghĩ đến cái chết mà vẫn hướng tới sự sống, vẫn hi vọng, tin tưởng ở tương lai”. Thị đến với Tràng trước hết làm tìm một chỗ nương tựa trong đói kém. Bởi thế, thị không thể giấu nổi sự thất vọng thầm kín trước gia cảnh thảm thương của gia đình Tràng “cái nhà vắng teo đứng rúm ró trên mảnh vườn mọc lổn nhổn những búi cỏ dại. Thị đảo mắt nhìn quanh, cái ngực gầy lép nhô lên, nén một tiếng thở dài”. Trên đường về nhà chồng, trước những lời bàn tán xôn xao, những chỉ trỏ chòng ghẹo của người dân ngụ cư, người vợ nhặt cảm thấy xấu hổ, ngượng nghịu đến mức “chân nọ bước díu cả vào chân kia”. Về đến nhà chồng, thị thất vọng trước cảnh nhà quá tồi tàn, khổ sở nhưng cố nén lại tất cả vào trong suy nghĩ. Trong tiếng thở dài ấy không chỉ có nỗi thất vọng mà còn xen cả lo toan, ý thức trách nhiệm, bổn phận của mình trong việc xây dựng cuộc sống gia đình về sau..

Nhân vật người vợ nhặt còn để lại ấn tượng sâu sắc cho người đọc bởi những phẩm chất tốt đẹp. Vào trong nhà, thị e thẹn “ngồi mớm” vào mép giường và chào u một cách lúng túng. Khác với vẻ chao chát, cong cớn, chỏng lỏn ban đầu, thị bây giờ là nàng dâu mới với đầy đủ sự ý tứ, cung kính, mực thước. Chính tình cảm yêu thương, sự đùm bọc sẻ chia trong cơn hoạn nạn đã khiến con người sống tốt hơn, ý thức sâu sắc hơn về bổ phận và trách nhiệm của mình. Sáng hôm sau, thị dậy sớm để cùng mẹ chồng dọn dẹp trong ngoài. Đến cả chính Tràng cũng phải ngạc nhiên: “Tràng nom thị hôm nay khác lắm, rõ ràng là người đàn bà hiền hậu, đúng mực, không còn vẻ gì chao chát chỏng lỏn như mấy lần Tràng gặp ở ngoài tỉnh”. Trong bữa cơm đón nàng dâu mới – bữa cơm thảm hại ngày đói, thị vẫn vui vẻ bằng lòng với bát cháo cám đắng chát. Thị là một cơn gió mới trong gia đình. Hiện thực khắc nghiệt, xót xa “người con dâu đón lấy cái bát, đưa lên mắt nhìn, hai con mắt thị tối lại” nhưng thị vẫn “điềm nhiên và vào miệng”. Hoàn cảnh đấy, ai cũng phải cất lại nỗi tủi hờn bên trong để vui vầy cũng hạnh phúc bình dị, đơn sơ. Sự lạc quan được gói trọn trong lời của bà cụ Tứ: “Cám đấy mày ạ, hì. Ngon đáo để, cứ thử ăn mà xem. Xóm ta khối nhà còn chả có cám mà ăn đấy”. Bên cạnh đó, người vợ nhặt còn là người phụ nữ thông minh hiểu biết. Nghe tiếng trống thúc thuế, thị tỏ ra ngạc nhiên hỏi mẹ chồng “Ở đây vẫn phải đóng thuế cơ à?” Câu nói của thị làm Tràng ngờ ngợ vỡ ra trong suy nghĩ “hắn đang nghĩ đến những người phá kho thóc Nhật”, “trong ý nghĩ của hắn vụt ra cảnh những người nghèo đói ầm ầm éo nhau đi trên đê Sộp. Đằng trước có lá cờ đỏ to lắm”…

Điểm nhấn nghệ thuật ở người vợ nhặt chính là nghệ thuật khắc họa nhân vật của nhà văn Kim Lân. Tác giả đã đặt nhân vật trong tình huống “lạ”, “éo le”; diễn biến tâm lí được khắc họa qua các sự kiện với sự quan sát tỉ mỉ, tinh tế qua hệ thống ngôn ngữ giản dị, mộc mạc.

Như vậy, nhân vật người vợ nhặt trong tác phẩm “Vợ nhặt” của Kim Lân là một nhân vật tiêu biểu cho hình tượng người phụ nữ lao động nghèo khổ, đáng thương. Nhưng dù bị đẩy vào hoàn cảnh khốn cùng, thị vẫn ngời sáng bởi lòng ham sống, những phẩm chất tốt đẹp và niềm tin tưởng ở tương lai.

Câu 3: Anh/ chị hãy phân tích tâm trạng nhân vật Tràng trong truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân.

Bài tham khảo

Kim Lân là một cây bút chuyên viết truyện ngắn với đề tài quen thuộc là hình ảnh nông thôn và người nông dân. Khác với tác giả Tô Hoài – ông không khai thác cuộc sống của người dân nơi rẻo cao Tây Bắc mà lại lặn sâu vào cuộc sống của người dân quê – những con người gắn bó thiết tha với quê hương và cách mạng. Trong đó, “Vợ nhặt” là một tác phẩm tiêu biểu minh chứng cho tài năng của Kim Lân. Và trong suốt những trang sách kể về tình huống nhặt vợ có một không hai trong nền văn học Việt Nam, diễn biến tâm lí nhân vật Tràng đã để lại cho người đọc những ấn tượng sâu sắc.

Nạn đói năm 1945 đã khiến cho hơn hai triệu người chết, tình hình đất nước rơi hẳn vào cảnh u ám, tối tăm: “Ta đi giữa đường dương thế/ Bóng tối âm thầm rụng xuống chân cây/ Tiếng xe ma chở vội một đêm gầy/ Xác truỵ lạc rũ bên thềm lá phủ” (Văn Cao). Nhiều gia đình trở thành nạn nhân, rơi vào cảnh khốn cùng, bị đe dọa bởi miếng cơm manh áo, trong đó, có gia đình Tràng. Tràng là một thanh niên xấu xí, nghèo khổ, mưu sinh bằng nghề kéo xe bò thuê, cùng sống với mẹ già nơi xóm ngụ cư. Giữa lúc cái đói đang bám riết sự sống, Tràng dẫn về một người phụ nữ xa lạ, đúng hơn là một người vợ anh mới “nhặt” được bằng bốn bát bánh đúc và một câu nói nửa đùa, nửa thật. Bà cụ Tứ - mẹ Tràng đón nhận người con dâu đáng thương kia bằng tâm trạng ngổn ngang, âu lo. Và kết thúc tác phẩm là chi tiết bữa cơm thảm hại ngày đói được đan cài cùng niềm tin tưởng le lói vào tương lai qua hình ảnh lá cờ trong óc Tràng “Trong óc Tràng vẫn thấy đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới…” Trong suốt đoạn trích, ta có thể dễ dàng quan sát tâm trạng của Tràng qua sự kiện nhặt vợ: Tràng trước khi nhặt được vợ và Trang sau khi nhặt được vợ.

Trước khi nhặt được vợ, sự gặp gỡ giữa Tràng và thị chẳng có gì đặc biệt. Thâm chí, đó còn chẳng được gọi là một cuộc gặp gỡ hay một cuộc hẹn hò đúng nghĩa. Họ chỉ là những người lao động nghèo khổ, những người vật vờ đói khát trong thảm cảnh lịch sử. Họ chỉ là những nạn nhân của mất mát đau thương, ngày ngày đi trên lằn ranh của sự sống và cái chết. Mới lần đầu gặp gỡ, “thị cười tít mắt” với Tràng sau khi đẩy xe bò lên dốc tỉnh. Gặp gỡ lần thứ hai, thị “sưng sỉa, cong cớn, chao chát, chỏng lỏn” đòi ăn cho bằng được. Cô dâu của Tràng đích thị là nạn nhân của cái đói. Chỉ tầm phơ tầm phào có hai bận như thế, Tràng và thị đã thành vợ thành chồng. Tràng hò chơi cho đỡ nhọc, Tràng mời thị bốn bát bánh đúc vì lời thất hứa và sự xót thương cho hoàn cảnh: “thị rách quá, áo quần tả tơi như tổ đỉa, thị gầy sọp hẳn đi, trên cái khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt” và cùng lời nói đùa: “Làm đếch gì có vợ. Này nói đùa chứ có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về”. Nhưng ai ngờ được: “Nói thế Tràng cũng được là nói đùa, ai ngờ thị về thật”. Tràng thật sự thấy lo lắng cho cuộc hôn nhân quá đỗi bất ngờ: “Mới đầu anh Tràng cũng chợn, nghĩ: thóc gạo này đến cái thân mình cũng chả biết có nuôi nổi không lại còn đèo bòng”. Nhưng sau đó, sự lo lắng của Tràng bắt đầu nhường chỗ cho hạnh phúc mới – hạnh phúc lứa đôi – dù là lứa đôi khốn khổ và bất hạnh: “Chậc, kệ!”.

Sau khi nhặt được vợ, tâm trạng Tràng có sự thay đổi rõ rệt. Có ai ngờ được làm câu hôn ngờ nghệch đã thay đổi tâm trạng và số phận của những con người trong gia đình đói khổ. Đời sống tinh thần chuyển những gam màu u ám, chết chóc sang ấm áp và hi vọng. Trong hoàn cảnh khốn cùng, Tràng vẫn khao khát hạnh phúc, có ý thức tạo dựng mái ấm gia đình. Khi chấp nhận thị làm vợ, Tràng đã thể hiện sự quan tâm, chăm sóc của một người chồng: “hắn đưa thị vào chợ tỉnh bỏ tiền ra mua cho thị cái thúng con đựng vài thứ lặt vặt và ra hàng cơm đánh một bữa no nê…” Tràng còn hào phóng “mua hai hào dầu để thắp sáng”. Trên đường về nhà, Tràng cảm nhận được niềm vui mới đang len lỏi trong từng nấc thang suy nghĩ “phớn phở khác thường”. Thỉnh thoảng lại còn cười nụ một mình. Khi đi bên thị, Tràng rụt rè bỡ ngỡ khác thường, khi thì hắn đi sát người đàn bà, lúc lại lùi ra sau một tí, hai tay cứ xoa vào vai nọ vai kia. Tràng muốn nói bông đùa đôi câu nhưng lại cứ cảm thấy ngường ngượng. Ngòi bút tài hoa của Kim Lân đã cho người đọc thấy được diễn biến tâm lí chân thực, sinh động của Tràng. Tràng hôm nay đã thực sự khác với Tràng hôm qua. Một cuộc hôn nhân đã khơi dậy biết bao nhiêu cảm xúc thầm kín bên trong, bao nhiêu phẩm chất tốt đẹp chưa có điều kiện bộc lộ. Cảnh đời tối tăm, sự đói khát dường như đã tạm lùi để còn lại là niềm vui sướng miên man: “Trong một lúc Tràng hình như quên hết những cảnh sống ê chề, tăm tối hằng ngày, cái đói khát ghê gớm đang đe dọa, quên cả những tháng ngày trước mặt. Trong lòng hắn bây giờ chỉ còn tình nghĩa giữa hắn với người đàn bà đi bên. Một cái gì mới mẻ, lạ lắm, chưa từng thấy ở người đàn ông nghèo khổ ấy, nó ôm ấp, mơn man khắp da thịt Tràng, tựa hồ như có bàn tay vuốt ve dọc sống lưng”. Hạnh phúc đã thực sự làm thay đổi mọi thứ.

Về đến nhà, lúc đầu Tràng cảm thấy “ngượng nghịu” rồi cứ thế “đứng tây ngây ra giữa nhà, chợt hắn thấy sờ sợ”. Nhưng đó chỉ là cảm giác thoáng qua. Tràng vẫn sung sướng tột bực, sung sướng đến mức không dám tin là mình đã có vợ - lại có vợ trong hoàn cảnh trớ trêu, éo le như thế này: “hắn vẫn ngờ ngợ như không phải thế. Ra hắn đã có vợ rồi đấy ư?”. Trong lúc đợi bà cụ Tứ về, Tràng nôn nóng sốt ruột, cứ đi đi lại lại. Chưa bao giờ hắn lại thấy nôn nóng như thế. Phải chăng Tràng nóng lòng thông báo tin vui này cùng mẹ, nóng lòng khoe cái hạnh phúc đơn sơ giản dị này cho những người thương yêu? Khi mẹ về, hắn mừng rỡ, rối rít như trẻ con. Anh không phải là người vô tư, nông cạn mà vô cùng sâu sắc và hiểu đời. Tràng đã ý thức được việc lấy vợ là hệ trọng cả đời, ý thức được sự thay đổi tinh thần của mình. Đây là khoảnh khắc thiêng liêng mà trong hoàn cảnh đói kém đương thời, không phải ai cũng có được.

Sáng hôm sau, cảm nhận đầu tiên của Tràng là: “Trong người êm ái, lửng lơ như người vừa ở trong giấc mơ đi ra”. Tràng cảm động khi thấy hình ảnh mẹ và vợ dọn dẹp lại nhà cửa, cảm động nghe tiếng chổi sàn sạt trên sân. Sự yêu thương nảy nở từ bên trong: “Bỗng nhiên hắn thấy thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng. Hắn đã có một gia đình. Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đấy. Cái nhà như cái tổ ấm che mưa che nắng”. Tràng bắt đầu suy nghĩ về ý nghĩa của sự sống, suy nghĩ về cuộc đời ở tương lai. Khi nghe tiếng trống thúc thuế ngoài đình vang lên dữ dội, Tràng đã thần mặt ra nghĩ ngợi. Tràng nghĩ đến cảnh “những người nghèo đói ầm ầm kéo nhau đi trên đê Sộp” để cướp kho thóc của Nhật và “đằng trước là lá cờ đỏ”.

Xây dựng nhân vật Tràng, Kim Lân đã cho người đọc thấy được tài miêu tả diễn biến tâm lí nhân vật. Lúc này đây, Tràng không còn là nhân vật khô cứng trên trang giấy nữa mà như một con người thật hiển hiện trước mắt người đọc. Đặt nhân vật trong một hoàn cảnh độc đáo cùng với ngôn ngữ phù hợp với tính cách, Kim Lân đã khắc họa thành công giá trị hiện thực cùng giá trị nhân đạo cao cả, thể hiện niềm tin yêu vào cuộc sống, về tương lai như lời ông từng nói về tác phẩm: “Tôi muốn cho độc giả thấy dù hoàn cảnh thế nào đi nữa thì tình người vẫn vượt lên trên tất cả. Có tình người là có cuộc sống. Có tình người là có hi vọng vào tương lai”.

Tóm lại, qua diễn biến tâm trạng nhân vật Tràng, Kim Lân đã cho người đọc thấy được vẻ đẹp tâm hồn và tính cánh nhân vật. Chính những con người như Tràng, như thị, như bà cụ Tứ đã làm cho ta thực sự yêu thương, khâm phục và kính trọng.

 Bài tập 4: Phân tích giá trị độc đáo của tình huống truyện Vợ Nhặt trong tác phẩm cùng tên của nhà văn Kim Lân. Từ đó nhận xét về thái độ của nhà văn với con người và thực trạng xã hội đương thời.

Bài tham khảo

Sự thăng hoa của tác phẩm phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó không thể không kể đến việc sáng tạo ra tình huống truyện độc đáo. Kim Lân là một nhà văn nông thôn chuyên viết về những chuyện nông thôn như: Làng, Vợ nhặt, Con chó xấu xí, Chuyện ông già trên núi Côi Kê….Trong đó, “Vợ nhặt” là tác phẩm góp phần làm nên tên tuổi nhà văn Kim Lân với những nghệ thuật sáng tạo độc đáo: đó là tình huống truyện.

Tình huống truyện được hiểu là tình thế xảy ra truyện, là “cái khoảnh khắc mà trong đó sự sống hiện ra rất đậm đặc”, là “cái khoảnh khắc chứa đựng cả đời người” (Nguyễn Minh Châu). Qua tình huống truyện, chúng ta có thể thấy rõ mối quan hệ giữa nhân vật với nhân vật, giữa nhân vật với hoàn cảnh, góp phần nổi bật tư tưởng của tác phẩm. Tình huống truyện “Vợ nhặt” vừa là một tình huống lạ, độc đáo lại vừa là một tình huống oái oăm, trớ trêu.

Tình huống truyện trong “Vợ nhặt” vô cùng độc đáo: Đó là việc anh Tràng lấy được vợ trong nạn đói lịch sử, trong những ngày mà người chết đầy đường, đoàn người dắt díu nhau đi tìm cái ăn, xóm ngụ cư đêm dêm vang lên trong tiếng hờ khóc người chết.

Tình huống ấy trước hết được coi là tình huống lạ, độc đáo. Ta thấy hành động lấy được vợ của Tràng vô cùng khác thường mà phải gọi là “nhặt vợ” thì đúng hơn. Dưới mắt những người dân xóm ngụ cư, người như Tràng lấy được vợ là chuyện không tưởng. Quan niệm dân gian trước giờ luôn xem nhẹ việc lấy chồng ngụ cư – vốn là tầng lớp dưới đáy thường bị xã hội xem thường, rẻ khinh. Hơn nữa, Tràng lại là một người xấu xí, nghèo khổ. Giữa thời buổi ấy, nuôi được thân mình đã khó mà lại còn đèo bòng chuyện vợ con. Nhưng đáng thương hơn cả là hành động nhặt vợ ấy. Vợ - đáng lẽ hải được cưới hỏi tử tế, đàng hoàng, phải đầy đủ mâm cỗ rước về nhưng nay lại rẻ rúng bằng một câu nói bông đùa và bốn bát bánh đúc. Tràng nhặt được vợ trong một tình huống vừa kì quặc, vừa oái oăm, vừa vui mừng, vừa bi thảm. Mặc dù lạ nhưng việc Tràng lấy được vợ là điều vô cùng hợp lí. Người đọc toàn hoàn bằng lòng với việc xảy ra. Anh Tràng lấy vợ lúc này là đúng bởi vì nếu không phải năm đói thì chắc chẳng có người đàn bà nào chịu lấy anh. Hơn nữa, hành động nhặt vợ kia còn thể hiện được sự cưu mang, đùm bọc lẫn nhau của những con người năm đói.

Bên cạnh đó, tình huống truyện còn thể được sự éo le, oái oăm, trớ trêu. Nếu trong hoàn cảnh bình thường thì anh Tràng lấy vợ là niềm vui cho bà mẹ và xóm ngụ cư. Vậy mà éo le thay, việc anh Tràng lấy vợ không biết là nên vui hay nên buồn. Chính Tràng ban đầu cũng không ngờ được việc mình lấy được vợ. Chỉ bốn bát bánh đúc và một câu bông đùa – hôn nhân chưa bao giờ tưởng có thể đơn giản được như thế. Dưới con mắt của người dân xóm ngụ cư, anh Tràng lấy vợ khiến người ta tò mò, ngạc nhiên, lo sợ cho anh. Tình hình hiện tại biết bao u ám “cái đói đã tràn đến xóm này tự lúc nào” thế nhưng Tràng vẫn đèo bòng chuyện vợ con. Với bà cụ Tứ, bà còn nghĩ đến những điều tệ hại hơn: “biết rằng chúng nó lấy nhau liệu có nuôi nổi nhau qua cơn đói khát này không?”. Với Tràng, anh đã từng cảm thấy hơi chợn khi nghĩ về niềm hạnh phúc bé nhỏ vừa tìm được “thóc gạo này đến thân mình chẳng biết có nuôi nổi không lại còn đèo bòng?” Với thị - người vợ vừa được nhặt về, nỗi tủi hổ dường như lấn át cả niềm vui. Nói trắng ra, thị lấy Tràng cũng vì muốn sống sót qua cơn đói, muốn tìm một chiếc phao cứu sinh. Sự éo le ấy còn lan tỏa ra khung cảnh xung quanh. Đêm tân hôn của hai người khốn khổ diễn ra trong cái gió lồng lộng từ bờ sông thổi vào, ngọn đèn dầu vàng đục và tiếng hờ khóc của người chết vang lên trong xóm ngụ cư.

Từ những điều đã phân tích trên, ta thấy tình Tràng lấy được vợ mang lại giá trị hiện thực sâu sắc. Trước nhất, nó phơi bày số phận của người nông dân trước cách mạng tháng tám. Vì nghèo khổ nên Tràng không thể nào lấy được vợ, phải chờ đến cơ hội “trời cho”. Càng mỉa mai hơn khi cơ hội ấy chính là nạn đói lịch sử, là thảm cảnh đau thương của biết bao con người chết đói khiến cho người đàn bà tự nguyện vứt bỏ nhân phẩm, vứt bỏ giá trị theo không anh về làm vợ. Con người hiện lên như cái rơm, cái rác bị vứt ngoài lề cuộc sống. Trong khung cảnh đói khát ấy, anh lấy vợ mà chẳng ai mừng cho, bữa cơm đầu tiên sau ngày cưới thật thảm hại, lấy vợ trong nỗi xót xa, cay đắng khôn cùng.

Giá trị nhân đạo trong tác phẩm “Vợ nhặt” cũng là điều khiến người đọc phải suy nghĩ trước sau. Kim Lân đã gợi lên trong lòng người đọc niềm xót xa khôn nguôi, qua đó gợi cho người đọc sự cảm thông về số phận người dân nghèo. Đồng thời, góp phần phát hiện phẩm chất đáng quí của người nông dân ngay giữa hoàn cảnh đói khát. Trong cái đói, mẹ con anh đã biết cưu mang một người xa lạ. Việc Tràng cưới vợ trước xuất phát từ bản chất xót thương, muốn cứu vớt thị. Lời mời “có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về” có vẻ như đùa nhưng thực ra là cơ hội dễ dẫn thị từ bên bờ vực của cái đói, cái chết về đến hạnh phúc gia đình. Tràng lo lắng, quan tâm, trân trọng từng hạnh phúc bình dị, đơn sơ: đưa chị vào hàng ăn một bữa cơm thật no, sắm cho chị một cái thúng con đựng vài thứ lặt vặt, mua dầu thắp đèn cho sáng đêm tân hôn… Tràng còn âm thầm theo dõi thái độ của thị và cảm thấy lo lắng trước sự lặng lẽ: “quái sao nó lại buồn thế nhỉ”? Tràng giới thiệu thị với mẹ một cách đàng hoàng để thị vơi bớt tủi hổ: “Nhà tôi nó mới về làm bạn với tôi đấy u ạ! Chúng tôi phải duyên phải kiếp với nhau”. Đặc biệt, Kim Lân qua việc khắc họa nhân vật còn thể hiện niềm tin vào sự đổi đời. Đây là nét nhân đạo mới mẻ ở ông. Nghe vợ kể chuyện nông dân Thái Nguyên, Bắc Giang phá kho thóc chia cho dân nghèo khiến Tràng chợt nhớ đến cảnh đoàn người với cờ đỏ sao vàng trên đê Sộp. Phải chăng anh thấy tiếc vì không tham gia đoàn biểu tình ấy? Ở những con người năm đói là sự vươn lên mạnh mẽ. Cái đói không những không đánh gục ngã được họ mà làm cho họ tìm thấy niềm tin ở tương lai.

Tóm lại, tính huống Tràng lấy vợ thực sự mang lại cái nhìn tin tưởng của người đọc về sự thay đổi của số phận người nông dân. Chính vì vậy, qua “Vợ nhặt”, chúng ta càng hiểu hơn về tư tưởng của Kim Lân: “Các nhà văn viết về cái đói ở khía cạnh tối tăm và bất lực của con người trước nó (…) Khi tôi viết, ý tưởng thường trực trong tôi là những người dù đói thế nào đi chăng nữa vẫn luôn khao khát cuộc sống tốt đẹp hơn, vẫn tin tưởng một cách mơ hồ vào cuộc sống tương lai. Cái “mơ hồ” ấy là do cuộc sống thực tại luôn hành hạ họ”.

Bài tập 5: Giá trị nội dung và nghệ thuật 

Nội dung

1. Giá trị hiện thực: Tình cảnh thê thảm của người nông dân VIệt Nam trong nạn đói khủng khiếp năm 1945, dân ta lâm vào cảnh một cổ hai tròng áp bức do sự đê hèn, đốn mạt của thực dân Pháp

2. Giá trị nhân đạo: Tố cáo tội ác của bọn thực dân, phát xít và khẳng định tội ác mà chúng đã gây ra cho mảnh đất, con người Việt Nam. Niềm cảm thương, chia sẻ của tác giả trước những đau đớn, Ca ngợi sức sống mãnh liệt, khao khát được yêu thương, được sống hạnh phúc, tin tưởng vào một tương lai tươi sáng đang chờ đợi họ, Cách mạng chính là con đường đưa họ thoát khỏi cuộc sống khốn cùng này.

Nghệ thuật: Xây dựng tình huống truyện độc đáo, Nghệ thuật kể chuyện hấp dẫn, Bút pháp miêu tả tâm lí, Ngôn ngữ gần gũi

Câu 6:  Cảm nhận về nhân vật Tràng trong tác phẩm “Vợ nhặt” của nhà văn Kim Lân.

Bài tham khảo

“Vợ Nhặt” chỉ có 3 nhân vật, mà nhân vật nào cũng có ấn tượng. Có những nhân vật không tên nhưng lại có khả năng lưu danh muôn thuở. Nói vậy là để thấy tài sáng tạo cuả Kim Lân và  sức sống tiềm tàng của tác phẩm.

Tràng là một thanh niên đứng tuổi, hình hài thô tháp, lại còn là kẻ nghèo nhất trong xóm ngụ cư. Nhà tràng chỉ là một căn lều dúm dơ, xiêu vẹo mà có thể gió thổi bay lúc nào không biết.

Mẹ Tràng đã già lại yếu “đôi mắt nhòe”, “đôi tai nghễnh đãng, dáng đi lỏng thỏng, cử chỉ lập cập, lóng ngóng”. Nói cách khác,  bà trụ lại với đời như thể đang chờ đợi tử thần đến rước đi. Trong cái đói khủng khiếp  năm Ất Dậu -1945, mẹ con Tràng lê lết cầm hơi, tồn tại từng ngày nhờ vào công việc  kéo xe của Tràng. Tính tình của Tràng ngay cả trẻ con cũng bỡn cợt, trêu chọc chứng tỏ anh có lớn mà trí khôn không lớn. Trong mắt mọi người Tràng luôn luôn có thể bị khinh thường, giễu cợt.

Từ cái hoàn cảnh ấy, có thể khẳng định: Tràng sẽ không bao giờ mơ đến chuyện lấy vợ. 

Nhưng điều đáng quý ở Tràng là ngay cả trước thực trạng ấy, một thực trạng bi thảm anh vẫn trếu táo, tự trào, còn biết bông đùa. Thế rồi trong một lần tình cờ đang gò lưng kéo xe thóc vào dốc tỉnh. Tràng tự hò một câu để an ủi mình cho đỡ mệt. Điều quan trọng là câu hò ấy có cụm “ cơm trắng mấy giò” và dĩ nhiên mấy tiếng ấy lập tức làm cho những người phụ nữ đã mấy ngày ngồi vêu ra ở chợ không thể không để ý, và đã có một ả sán lại gần,biến sự đùa của Tràng thành sự thật. Tràng không ngờ mình đói lại còn có kẻ đói hơn mình. Tràng cho người phụ nữ ấy ăn, tình thương người đã dẫn Tràng đến vơi nghĩa cử hào hiệp trong cơn đó khát. Tràng không chỉ cho người phụ nữ ấy ăn như là cách bố thí mà Tràng còn  cho Thị ăn bằng của tình yêu thương, sự đồng cảm và bằng sự cưu mang, chia sẻ. Nhưng rồi một tình huống không ngờ rằng  người phụ nữ ấy không những cần tràng một bựa ăn mà còn muốn tìm ở Tràng mọt điểm tựa suốt đời. Khi biết Tràng chưa có vợ, người phụ nữ đã dũng cảm tiến lên để được làm vợ Tràng. Vậy là với Tràng lúc này,không còn là chuyện bông lơn, bỡn cợt nữa mà là trở thành chuyện hệ trọng của cả cuộc đời người. Tràng ứng xử hoàn toàn khác, một cách nghiêm túc, đứng đắn và anh đã chủ động  vào chợ sắm cho Thị mấy thứ và “ ra hàng cơm đánh một bữa thật no nê”. Với Tràng đó có thể là những thứ dẫn cưới, một cổ cưới chăng? Từ giây phút này Tràng đã sống với Thị như những người đang yêu và được yêu, cũng cho thấy cũng  từ tình thương mà chuyển đến tình yêu là chuyện quá bất ngờ và đột ngột. Nhưng Tràng không hề lung túng, bối rối trước tình huống đó. Rồi chính anh cũng chủ động dắt người con gái ấy về để tình mẹ một cách đàng hoàng, nghiêm túc.

Về đến nhà, tuy chưa tin được rằng là mình đã có vợ, nhưng Tràng đã biết làm tròn nhiệm vụ của một người chồng.  Tràng đã biết cùng với vợ làm nên một tổ ấm trong cảnh cơ hàn. Tràng đã cảm nhận được cái đẹp của tình yêu, cái giá của ái ân, hạnh phúc “phởn phơ hư…” Chính Tràng trong cơn đói khát như một  thân phận, bèo bọt đã dạt trôi đến với một thân phận bèo bọt khác, nhưng cả hai đã không làm cho nhau bèo bọt hơn nữa. Ngược lại đã biết nương tựa vào nhau để sống, để hướng tới tương lai.

Kim Lân đã có những trang viết rất hay để miêu tả tâm lý nhân vật. Tràng giống như một đứa con tinh thần của Kim Lân. Tình huống nhặt vợ đầy bất ngờ và đặc biệt nhưng đã thể hiện được tư tưởng sâu sắc của tác phẩm đó chính là dù người nghèo đói, cùng cực nhưng họ luôn nghĩ đến sự sống chứ không phải là cái chết, luôn có niềm tin vào tương lai tươi đẹp. Qua Tràng ta cũng đã cảm nhận được một tâm hồn trong sáng đẹp đẽ của người dân lao động nghèo, đó chính là tình người và hi vọng.

Người viết: Đặng Triệu Mận

Bài tập 7: Ai đó đã từng nói: “Văn chương có hai loại, một loại đáng thờ và một loại không đáng thờ. Loại không đáng thờ là loại chú ở văn chương, loại đáng thờ là loại chú ở con người”; hãy phân tác phẩm “Vợ nhặt” của Kim Lân để làm rõ luận điểm đó.

Bài tham khảo

“Vợ nhặt” của Kim Lân là một tác phẩm hướng đến con người với những mộc mạc, gần gũi nhất. Rất đúng với lời bình “Văn chương có hai loại, một loại đáng thờ và một loại không đáng thờ. Loại không đáng thờ là loại chú ở văn chương, loại đáng thờ là loại chú ở con người”. Nét bút văn học của Kim Lân chính là loại đáng thờ như trong luận điểm đó, điều này được thấy rõ qua ngòi bút của ông trong tác phẩm “Vợ nhặt”.

Kim Lân là nhà văn chuyên viết về truyện ngắn. Đề tài của ông thường gắn liền với hơi thở ruộng đồng Bắc Bộ nơi những con người quê hương chân chất thật thà, coi trọng nghĩa tình, rất nhân hậu và giàu yêu thương. “Vợ nhặt” là tác phẩm tiêu biểu của Kim Lân được trích trong tập truyện “Con chó xấu xí”. Bằng tài năng nghệ thuật bậc thầy, nhất là bậc thầy của miêu tả tâm lý. Kim Lân đã mang đến cho người đọc sự xúc động mãnh liệt thông qua hình ảnh anh cu Tràng, chị vợ nhặt và bà cụ Tứ.

Theo Kim Lân, “nhặt” có nghĩa là nhặt nhạnh, lựa chọn một cách ngẫu nhiên. Vợ nhặt là vợ theo không, không cưới xin, lễ nghi đàng hoàng, tử tế. Thông thường, người ta chỉ nhặt cọng rơm, cọng rác chứ không ai nhặt được vợ. Trong hoàn cảnh này, thân phận con người rẻ rúng hơn bao giờ hết. Kim Lân đã xây dựng một tình huống truyện bất ngờ nhưng cũng đầy nghịch cảnh, bi hài. Giữa nạn đói, giữa lúc thân mình còn chưa biết có lo nổi hay không thì anh cu Tràng lại nhặt được vợ. Chỉ bằng vài câu nói đùa, bốn bát bánh đúc mà một anh chàng xấu trai, nghèo khổ lấy được vợ. Và cũng có thể do hoàn cảnh đói khát đến cùng quẫn mà thị chịu theo không Tràng.

Nói về anh cu Tràng, là một anh nông dân nghèo khổ, xấu xí, ế vợ; thế mà trong những ngày đói khổ nhất, xác chết nhan nhản đầy đường thì anh lại đèo bòng lại rước thêm cái của nợ đời, thêm một miệng ăn trong khi không biết anh có lo nổi bản thân mình không. Tuy nhiên với một vẻ ngoài hơi dở, thô kệch xấu xí không ai theo đó lại là một tấm lòng nhân hậu, anh được người ta theo không mà vẫn tôn trọng và nhận thấy trách nhiệm của mình. Chỉ với vài câu đùa vu vơ

“Muốn ăn cơm trắng mấy giò

Thì lại đây đẩy xe bò với anh, nì”

 và một chặp bốn cái bánh đúc thì anh bỗng nhiên có được vợ, giữa lúc chính bản thân còn không lo được mà anh lại chấp nhận mang theo một người về nhà mình. Anh còn lo nghĩ chuẩn bị bao nhiêu thứ mặc dù vẫn nhận ra gia cảnh mình nghèo, cái tặc lưỡi “chậc kệ” của anh cũng đã bao chứa biết bao suy nghĩ và lo ấu trong đó. Nhưng anh khao khát hạnh phúc, mong có một mái ấm nho nhỏ như bao người để vun vén và phấn đấu. Mặc dù trong hoàn cảnh khốn cùng nhưng anh cu vẫn luôn rất tử tế với người vợ nhặt của mình anh mua cho thị cái thúng con đựng vài đồ lặt vặt rồi cùng thị đánh chén một bữa no nê rồi mới cùng nhau đẩy xe bò về. Tràng cũng có tâm lý của người đàn ông sắp đưa vợ ra mắt gia đình, cũng bồi hồi và lo lắng, Tràng cứ đi ra đi vào xem mẹ về chưa để nói với mẹ về người con dâu mới, dù là người vợ tầm phơ tầm phào gặp nhau vài bữa nhưng anh vẫn luôn coi trọng thị, nanag niu thị và cứ phớn phở khác thường, ngày hôm sau anh thức giấc trong trạng thái hoàn toàn mới ý thức được trách nhiệm của bản thân với mẹ, với vợ. Kim Lân quả thật rất yêu nhân vật của mình, ông vẽ lên hình ảnh thực mà đẹp đến thế, không vương chút khổ đau, tha hóa của hoàn cảnh tăm tối ấy. Anh cu Tràng như tia sáng giữa bầu trời tối tăm mù mịt.

Nhân vật thị - người vợ nhặt hiện lên giữa cái đói khát ấy mang đầy vất vả, ngay cả cái tên người ta cũng không biết chỉ gọi là “thị”. Trong ba nhân vật, người vợ nhặt là nhân vật được nói đến ít nhất. Thực ra, nếu không có nhân vật người “vợ nhặt” thì nội dung và nghệ thuật của tác phẩm bị ảnh hưởng rất nhiều bởi đây là nhân vật làm nên giá trị nội dung và tư tưởng của tác phẩm, có vai trò quyết định đến sự hình thành các hình thức nghệ thuật khác. Người vợ nhặt là một nhân vật không có tên gọi, lai lịch, gốc gác, ngoại hình tiều tụy nhưng là một người vợ đúng mực, một người con dâu hiếu thảo và là người đem đến niềm vui, niềm lạc quan cho mọi người. Ngoại hình của thị được tác giả miêu tả rất tỉ mỉ: “Cái nón rách tàng nghiêng nghiêng che mất đi nửa mặt”.  Vì khát vọng được sống mà thị phải chỏng lỏn, phải cong cớn để được ăn và cứ thế theo không một người đàn ông xa lạ, có lẽ thị khổ quá rồi, nhưng niềm hy vọng được sống không cho phép thị buông bỏ, nên thị phải rũ bỏ lòng tự trọng và niềm kiêu hãnh của người phụ nữ để được sống, thị ăn một chặp bốn cái bánh đúc. Thị ăn cho quá khứ cho hiện tại và cho cả tương lai, điều này chứng tỏ khát khao sống mãnh liệt của thị, vẫn mong muốn tương lai. Tuy nhiên nếu thị chỉ hiện lên trong dáng vè chỏng lỏn, cong cớn thì ít ai biết được vẻ đẹp bên trong của thị, thị vẫn là một người phụ nữ đúng nghĩa. Đối với người dân xóm ngụ cư, người vợ nhặt đem đến cho họ niềm tin vào sự đổi thay. Đối với bà cụ Tứ, người “vợ nhặt” đã đem đến cho bà niềm an ủi, niềm hạnh phúc lớn lao ở cái tuổi gần đất xa trời. Bà cụ Tứ vui mừng khi thấy con cái trưởng thành, con trai mình đã có vợ bà lại nghĩ đến tương lai con cháu mình sau này. Đối với Tràng, người “vợ nhặt” đem đến niềm hạnh phúc thực sự cho Tràng.

Và hình ảnh đẹp nhất về người mẹ, bà cụ Tứ hiện lên thật mộc mạc mà cũng thật lớn lao với tình thương cao cả. Lòng người mẹ nghèo ấy thật đẹp. Khởi đầu tâm lí ở bà cụ Tứ là ngỡ ngàng trước một sự việc dường như không hiểu được. Cô gái xuất hiện trong nhà bà phút đầu là một hiện tượng lạ. Trạng thái ngỡ ngàng của bà cụ Tứ được khơi sâu bởi hàng loạt những câu hỏi nghi vấn: "Quái sao lại có người đàn bà nào ở trong nhà ấy nhỉ? Người đàn bà nào lại đứng ngay đầu giường thằng con mình thế kia? Sao lại chào mình bằng u? Không phải con cái Đục mà. Ai thế nhỉ?" Rồi lại: "Ô hay, thế là thế nào nhỉ?". Sự ngạc nhiên này thể hiện nỗi đau của người viết: chính là sự cùng quẩn của hoàn cảnh đánh mất ở người mẹ sự nhạy cảm trước việc con trai yêu quý của mình có vợ. Người ta có vợ lúc ăn nên làm ra, ấy vậy mà con mình phải đến khi cuộc sống trở nên mong manh, con người phải dựa vào nhau mà sống thì con mình mới lấy được vợ. Lòng người mẹ ấy vừa tủi hờn, vừa thương xót, thương con trai và thương cả người đàn bà lạ kia; vì chúng nó đến với nhau trong những tháng ngày nguy khốn nhất, nuôi một miệng ăn còn chưa đủ nay lại thêm miệng ăn nữa, cuộc sống đã bế tắc lại thêm phân bế tắc. Tấm lòng của người mẹ ấy sáng lên trong thái độ của bà với việc con mình có vợ, bà tủi hờn cho số phận nhưng không hề trách cứ hay xua đuổi người con dâu; bà chỉ cúi đầu nín lặng rồi nhẹ nhàng chấp nhajajn người con dâu. Bữa sáng đầu tiên khi nhà có thành viên mới thật đẹp, bà mẹ ấy đã nấu cháo cám đắng chat nhưng lại đầy ngọt ngào, đó là vị “ngon”, ngọt của tình yêu thương đầy ắp mà người mẹ dành cho những đứa con của mình. Bữa ăn vui vẻ lạ thường, giữa cái đói khổ tưởng như không thoát ra được thì những con người đó lại quay quần bên nhau để bàn chuyện đời, chuyện tương lai phía trước. 

Truyện mở ra bằng cảnh chiều chạng vạng và kết thúc trong buổi sáng mùa hè với ánh nắng chói lóa, rực rỡ, các nhân vật bắt đầu bằng không gian ảm đảm chết chóc của xóm ngụ cư dưới gầm trời đói khát và khép lại bằng khung cảnh đầm ấm của một gia đình quây quần bên mâm cơm ngày đói. Cách kết thúc đã cho người đọc tin tưởng và tương lai cuộc đời các nhân vật “hãy hướng về phía mặt trời, bóng tối sẽ ngả về sau lưng bạn”. Dù khó khăn đến đâu thì hạnh phúc lứa đôi vẫn đủ khả năng thay đổi con người và hoàn cảnh. Vẻ đẹp con người trong Vợ Nhặt đã là minh chứng rõ nét cho câu nói “loại đáng thờ là loại chú ở con người”, bởi vì nếu văn chương chỉ là văn chương thôi thì nó thực sự sẽ sáo rỗng và không có linh hồn.

 

 

Tìm kiếm google: soạn bài Vợ Nhặt ngắn nhất, hướng dẫn soạn bài Vợ Nhặt cực ngắn, Vợ Nhặt ngữ văn 12 tập 1.

Xem thêm các môn học


Copyright @2024 - Designed by baivan.net