Soạn văn 10 ngắn nhất bài: Trao duyên

Soạn bài: “Trao duyên” - ngữ văn 10 tập 2 ngắn gọn nhất. Nhằm giúp học sinh giảm bớt thời gian soạn bài nhưng vẫn đảm bảo nắm đủ ý, baivan giới thiệu các em tổ hợp bài soạn cực ngắn, siêu ngắn và ngắn nhất. Từ đó, học sinh có thêm lựa chọn bài soạn phù hợp với của mình. Soạn “Trao duyên” cực ngắn – baivan.

[toc:ul]

I. Câu hỏi trong bài học: 

Bài tập 1: trang 106 sgk Ngữ văn 10 tập 2

Việc Kiều nhắc đến các kỉ niệm của tình yêu có ý nghĩa gì?

Bài tập 2: trang 106 sgk Ngữ văn 10 tập 2

Hãy tìm những từ ngữ cho thấy Kiều nghĩ đến cái chết. Việc tập trung dày đặc những từ ngữ đó có ý nghĩa gì?

Bài tập 3: trang 106 sgk Ngữ văn 10 tập 2

Kiều đối thoại với những ai? Phân tích diễn biến tâm trạng của Kiều qua lời đối thoại trong đoạn trích.

Bài tập 4: trang 106 sgk Ngữ văn 10 tập 2

Nhận xét về môi quan hệ giữa tình cảm và lí trí, nhân cách và thân phận của Kiều qua đoạn trích.

Phân tích đoạn trích Trao duyên Truyện Kiều

Giá trị nội dung và nghệ thuật trong đoạn trích Trao duyên (Trích Truyện Kiều) của Nguyễn Du

Đề bài: Phân tích đoạn trích Trao duyên (Trích Truyện Kiều) của Nguyễn Du để thấy bi kịch tình yêu, thân phận bất hạnh và nhân cách cao đẹp của Thúy Kiều.

Đề bài: Bàn về thơ, có ý kiến cho rằng: “Thơ hay là thơ có sức đồng cảm mãnh liệt và quảng đại đối với con người ”. Anh/chị hiểu ý kiến trên như thế nào? Qua đoạn trích Trao duyên trong "Truyện Kiều" của Nguyễn Du hãy làm sáng tỏ.

II. Soạn bài siêu ngắn: Trao duyên

Bài tập 1: Kiều nhắc đến các kỉ niệm của tình yêu với Kim Trọng: Ngày quạt ước, Đêm chén thề

  •  Ý nghĩa: 

o Kiều nhớ tới những kỉ niệm tình yêu, ngày tháng bình yên, hạnh phúc nhất trong cuộc đời mình, cách nàng khắc ghi mối tình đẹp đẽ này trong tim mình.

o Là một cách nhắc khéo léo để buộc Thúy Vân nhận lời giúp Kiều trả nghĩa chàng Kim. 

=> Sự khéo léo trong cách ứng xử, nhờ vả Vân của Kiều

Bài tập 2: Những từ ngữ: thịt nát xương mòn, Ngậm cười chín suối…; người mệnh bạc ; Mất người ; Thấy hiu hiu gió thì hay chị về ; hồn ; Dạ đài cách mặt khuất lời ; người thác oan.

  • Ý nghĩa:

o Nàng cảm thấy cuộc đời trống trải vô nghĩa khi không còn tình yêu nữa, nàng nghĩ đến cái chết và cảm thấy đây sẽ là cái chết đầy oan nghiệ. => tiếng nói thương thân xót phận của một người con gái tha thiết với tình yêu, gieo vào lòng người đọc một nỗi niềm thương cảm sâu sắc.

o Làm nên giá trị nhân đạo, không chỉ thể hiện sự đau đớn thương cảm với Thúy Kiều mà còn thể hiện sự băn khoăn, day dứt của Nguyễn Du trước nỗi đau của con người, thương thân xót phận cho người con gái tha thiết yêu thương mà số kiếp nghiệt ngã.

Bài tập 3: Kiều đối thoại ba người, là với Vân, với chính mình và với Kim Trọng:

  • Với Vân : Kiều đã nhờ cậy Vân chấp nhận mối duyên tình và trả lễ cho chàng Kim hộ mình vì nàng đã phải chọn chữ hiếu thay cho chữ tình. Với Vân, Kiều mang sự biết ơn chân thành, yên tâm, thanh thản bớt nỗi day dứt trong lòng khi bội thề với Kim Trọng, vì nàng tin tưởng Vân sẽ giúp mình thực hiện lời thề, giữ mối lương duyên này với Kim Trọng.

=> Khi lựa chọn chữ hiếu thay chữ tình và quyết định bán mình chuộc cha và em, trong lòng Kiều giằng xé và day dứt đầy mâu thuẫn. Mãi cho đến khi Vân nhận lời thì mâu thuẫn được giải quyết tạm thời trong lòng của Kiều. 

  • Với chính mình : tâm trạng giằng xé đầy mâu thuẫn, đau đớn tột cùng khi không trọn tình yêu và lời thề với Kim Trọng. Trò chuyện với chính mình, Kiều đã trách thân phận, có duyên mà không có phận với chàng Kim "phận bạc như vôi" và xác định rằng cuộc đời mình sẽ là "nước chảy hoa trôi lỡ làng". 
  • Với Kim Trọng : Khát vọng tình yêu mãnh liệt với hiện thực phũ phàng, Kiều ngất đi trong hình bóng Kim Trọng Ôi Kim Lang…, Kiều tự trách than và đau đớn, coi mình như một kẻ phụ bạc, phản bội lời thề 

Bài tập 4: Nhận xét về mối quan hệ giữa tình cảm và lí trí, nhân cách và thân phận của Kiều.

  • Mối quan hệ tình cảm – lí trí, nhân cách – thân phận, chữ tình – chữ hiếu.
  • Kiều tha thiết với tình yêu Kim Trọng, nhưng chữ hiếu buộc nàng lựa chọn sự hi sinh tình yêu. Lí trí bảo nàng trao duyên cho Vân, hy sinh cứu cha mẹ trong khi con tim hướng về tình yêu lại khiến nàng thổn thức, đau đớn. Đó cũng là mâu thuẫn giữa các phạm trù đạo đức phong kiến với tâm hồn con người, cũng là sự đau khổ khi nhân cách đa tình, đa cảm song hành cùng thân phận người làm con.

Phân tích đoạn trích Trao duyên Truyện Kiều

Bài tham khảo

“Truyện Kiều” không chỉ là một kiệt tác vĩ đại của nền văn học Việt Nam mà còn của toàn thế giới. Trong đó, đoạn trích nổi tiếng “Trao duyên” đã thể hiện cái nhìn hiện thực và nhân đạo của Nguyễn Du về con người, đặc biệt là đối với số phận của khách hồng nhan, số phận của Thúy Kiều. Ngoài ra, “Trao duyên” còn là tâm sự, là tiếng khóc đau thương được bật ra từ một hoàn cảnh éo le “tình chị duyên em”.

“Trao duyên” là câu chuyện đặc biệt đằng sau một hoàn cảnh đặc biệt. Sau đêm thề nguyền với Thúy Kiều, Kim Trọng phải về hộ tang chú ở Liêu Dương. Ngay lúc đó, gia đình Kiều bị thằng bán tơ vu oan, Vương Ông và Vương Quan bị hành hạ, gia sản bị cướp hết. Kiều đứng trước cảnh gia biến phải bán mình chuộc cha. Đêm trước ngày phải theo Mã Giám Sinh, Kiều cậy Thúy Vân tiếp nối mối duyên dang dở của mình với chàng Kim. 

Mở đầu đoạn trích là hình ảnh Kiều mở lời nhờ cậy Vân thay mình trả nghĩa cho Kim Trọng:

“Cậy em em có chịu lời

Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa”

Ta thấy cách sử dụng ngôn ngữ, ở đây là sử dụng động từ đã đạt tới những thành công nhất định. Từ “cậy” với thanh trắc âm điệu nặng nề gợi sự quằn quại, đau đớn, khó nói, nó trái hẳn với “nhờ”. Cậy mang hàm ý hi vọng tha thiết, có ý tựa nương, gửi gắm, van nài, tin tưởng nơi quan hệ ruột thịt. Từ “chịu” thể hiện nài ép, bắt buộc, không nhận không được. Hai động từ “lạy”, “thưa” trong câu thứ hai đã thái độ kính cẩn, trang trọng với người bề trên hoặc với người mình hàm ơn. Thúy Kiều trong vế ở trên, là chị của Thúy Vân nhưng trong cuộc “trao duyên” hoàn toàn nhận về sự thua thiệt. Chữ hiếu đè nặng lên vai và bổn phận “làm con trước phải đền ơn sinh thành” đã trở thành niềm lo lắng khôn nguôi của nàng Kiều lúc này.

Những câu thơ tiếp theo là lời trình bày đầy thuyết phục:

“Giữa đường đứt gánh tương tư,

Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em.

Kể từ khi gặp chàng Kim,

Khi ngày quạt ước khi đêm chén thề

Sự đâu sóng gió bất kì,

Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai

Ngày xuân em hãy còn dài 

Xót tình máu mủ thay lời nước non”

Rơi vào cảnh ngộ éo le, tình yêu vừa chớm nở nay phải cam chịu cảnh dở dang, đứt quãng “đứt gánh tương tư” bởi tai họa ập đến gia đình “sóng gió bất kì”. Từng nấc thang tâm trạng là từng lời giằng xé, từng ai oán thương tâm. Bên tình bên hiếu đang chờ đợi sự lựa chọn của nàng. Không thể từ bỏ cha già, em thơ, Kiều chỉ còn cách bán mình cứu cả gia đình qua cơn sóng gió. Hiểu rõ sự thiệt thòi của Thúy Vân, Kiều tha thiết van nài, trông mong ở mối quan hệ thâm tình ruột thịt để trả nghĩa cho chàng Kim. Niềm vui hẹn ước, thề nguyền xưa kia giờ chỉ còn biết nhờ tình máu mủ thay thế. Để rồi đằng sau lời lẽ đầy lí trí của một người con hiếu thảo kia là dự cảm không lành ở tương lai:

“Chị dù thịt nát xương mòn

Ngậm cười chín suốt hãy còn thơm lây”

Từ bỏ tình duyên với Kim Trọng, nàng chẳng khác nào từ bỏ đi cuộc sống của mình. Nàng nghĩ đến cái chết của chính mình, tự nhận thức về bi kịch tình yêu đang hiện hữu. 

Và càng đau đớn hơn khi các kỉ vật tình yêu vẫn còn nguyên vẹn, vẫn ấm áp hơi người, Kiều trao kỉ vật và dặn dò ở nơi em:

“Chiếc vành với bức tờ mây,

Duyên này thì giữ vật này của chung.

Dù em nên vợ nên chồng,

Xót người bạc mệnh ắt lòng chẳng quên.

Mất người còn chút của tin,

Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa”

Hoài Thanh từng viết: “Của chung là của ai? Bao nhiêu đau đớn trong hai tiếng đơn sơ!”. Rõ ràng, trong Thúy Kiều dường như có gì đó không nỡ, có gì đó lưu luyến. Đã nhờ Thúy Vân thay mình tiếp nối tình yêu với Kim Trọng nhưng kỉ vật xưa kia vẫn là “của chung”. Nàng không từ bỏ được chúng cũng như không từ bỏ được tình yêu sâu kín trong tận đáy lòng. Có cái gì đó uất nghẹn âm vang trong câu thơ bởi sự giằng xé, phân đôi xót xa giữa cái riêng với cái chung, giữa hạnh phúc với bất hạnh, giữa mất với còn, giữa tương lai và hiện tại. Kiều nhận về  mình tất cả những xót xa, những đau đớn của một đời người bạc mệnh bởi đây cũng là số phận mà nàng phải vương mang: “lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”.

Mạch tự sự của thơ tiếp tục diễn ra để thể hiện một bi kịch tình yêu:

“Mai sau dù có bao giờ

Đốt lò hương ấy so tơ phím này.

Trông ra ngọn cỏ lá cây,

Thấy hiu hiu gió thì hay chị về.

Hồn còn mang nặng lời thề,

Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai.

Dạ đài cách mặt khuất lời

Dưới xin giọt nước cho người thác oan”

Kiều tưởng tượng về cảnh ngộ của mình trong tương lai qua hình ảnh nhuốm màu tang tóc. Những “lò hương”, “ngọn cỏ lá cây”, “hiu hiu gió”, “hồn”, “thân bồ liễu”, “đền nghì trúc mai”, “dạ đài”, “giọt nước”, “người thác oan”…. gợi ra cuộc sống cõi âm lạnh lẽo. Hơn thế nữa, nhịp thơ chậm rãi, nghẹn ngào, tức tưởi như tiếng khóc não nùng cố nén lại để không bật thành lời. Kiều đang tưởng tượng đau đớn đến tột bực bởi trong lòng còn mang nặng tình cảm với chàng Kim.

Cuối cùng, sau những giờ phút gửi gắm tình duyên là lúc Kiều đối diện với thực tại và lời nhắn gửi cho “người yêu cũ”:

“Bây giờ trâm gãy gương tan

Kể sao cho xiết muôn vàn ái ân!

Trăm nghìn gửi lạy tình quân,

Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi!

Phận sau phận bạc như vôi!

Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng”

Đang đối thoại với Thúy Vân, Kiều quay sang độc thoại với chính mình. Ý thức hiện tại đầy xót xa qua hai tiếng “bây giờ”. “Bây giờ” ấy thế nào? Là “trâm gãy gương tan”, là “kể sao cho xiết muôn vàn ái ân”, là “trăm nghìn gửi lại tình quân”, là “tơ duyên ngắn ngủi”….. Còn gì đau đớn hơn, còn gì xót xa hơn! Sự trôi nổi của số phận và đứt đoạn của tình duyên đã khiến nàng gần như rơi vào cơn mê sảng. Nàng nhận hết tất cả thiệt thòi, nhận mình là người phụ bạc để gửi lại cái tạ tình tha thiết và chấp nhận đoạn trường riêng mang: “Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng”. Kiều lúc này như buông xuôi tất cả, nàng mặc cho sự xô đẩy vô tình của số phận, sự dày vò của con tạo để bật ra tiếng gọi, tiếng khóc, tiếng thét đai đớn, nghẹn ngào:

“Ôi Kim Lang! Hỡi Kim Lang!

Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!"

Tiếng gọi Kim Lang được lặp đi lặp lại vừa thiết tha trân trọng nhưng cũng đầy đau đớn tuyệt vọng. Câu thơ ngắt theo nhịp 3/3 như một tiếng nấc để rồi ở câu sau nhịp thơ trải ra như một lời than trách chính mình. Thúy Kiều đã quên đi nỗi đau của mình mà nghĩ nhiều đến người khác, đó chính là đức hy sinh cao quý mà Nguyễn Du đã ban tặng cho nàng. 

Về nghệ thuật, đoạn trích đã miêu tả tinh tế diễn biến tâm trạng nhân vật, ở đây chính là Thúy Kiều. Qua đó, chúng ta cảm nhận được tình yêu, được trách nhiệm, được sự hi sinh, được kiếp số bạc mệnh của nàng. Vừa là một người con hiếu thảo, một người yêu thủy chung, Kiều đã thực sự lấy đi biết bao nước mắt, biết bao sự đồng cảm, xót xa. Bên cạnh đó, đoạn trích đã sử dụng thành công ngôn ngữ kết hợp giữa tự sự và trữ tình và đặc biệt là ngôn ngữ độc thoại nội tâm sinh động. Việc sáng tạo các thành ngữ dân gian, sự giao thoa giữa bình dân và bác học đã khiến cho ngòi bút Nguyễn Du được hậu thế ca ngợi đời đời. 

Tóm lại, đoạn trích “Trao duyên” đã khắc họa nên bức tranh cảm động về số phận nàng Kiều, về sự giằng xé đau đớn giữa chữ hiếu và chữ tình, giữa lí trí và tình cảm. Qua đó, chúng ta càng có thêm cơ hội để nhìn nhận tài năng của Nguyễn Du, để nhìn nhận giá trị của “Truyện Kiều”, để hiểu vì sao người đời gọi đây là một hòn ngọc quý cơ hồ không thể thay đổi, thêm bớt một tí gì, như một tiếng đàn lạ gần như không một lần nào lỡ nhịp ngang cung.

Giá trị nội dung và nghệ thuật trong đoạn trích Trao duyên 

Giá trị nội dung:

  • Bi kịch tình yêu, thân phận bất hạnh của Thúy Kiều khi phải dứt lòng trao lại cho Thúy Vân mối tình đầu tiên. 
  • Nhân cách cao đẹp của Kiều còn thể hiện rõ bởi sự hi sinh hạnh phúc cá nhân đổi lấy hạnh phúc và sự bình yên cho gia đình. Giữa chữ “tình” và chữ “hiếu”, Kiều buộc lòng phải chọn chữ “hiếu” vì nàng không thể giương mắt nhìn cha và em bị hành hạ tới chết được.

Giá trị nghệ thuật

  • Thể thơ lúc bát giàu nhạc tính cùng với cách ngắt nhịp đầy dụng ýtạo nên nhịp điệu của tâm trạn Kiều khi trao duyên.
  • Biện pháp ẩn dụ, điệp từ, vận dụng nhuần nhuyễn các thành ngữ đã xây dựng thành công diễn biến tâm lí phức tạp, giằng xé, đau khổ của Kiều qua những lời độc thoại nội tâm khéo léo.

Đề bài: Phân tích đoạn trích Trao duyên (Trích Truyện Kiều) của Nguyễn Du để thấy bi kịch tình yêu, thân phận bất hạnh và nhân cách cao đẹp của Thúy Kiều.

Bài tham khảo

Ở bất cứ một thời đại nào, con người cũng có khao khát được hưởng hạnh phúc, khao khát yêu và được yêu. Nhưng dường như, không phải lúc nào hi vọng ấy cũng có thể thực hiện được. Điều này đã được thể hiện thông qua đoạn trích “Trao duyên” (Trích Truyện Kiều) của Nguyễn Du, đoạn trích đã thể hiện bi kịch tình yêu, thân phận bất hạnh và nhân cách cao đẹp của Thúy Kiều khi ở trong một hoàn cảnh éo le và trớ trêu: Trao duyên cho người em gái của mình.

Tình yêu giữa Thúy Kiều và Kim Trọng đang tươi đẹp, nồng nàn thì Kim Trọng phải về Liêu Dương hộ tang chú. Trong khi đó tai họa đổ ập xuống gia đình Thúy Kiều. Của cải bị bọn sai nha vét sạch. Cha và em trai Thúy Kiều bị bắt, bị đánh. Bọn quan lại đòi đút lót “có ba trăm lạng việc này mới xuôi”. Trước biến cố đau lòng đó, một người giàu tình cảm, giàu đức hi sinh như Thúy Kiều không còn cách nào khác là phải bán mình lấy tiền cứu cha và em. Nhưng còn mối tình với Kim Trọng thì sao?

Bi kịch tình yêu của Thúy Kiều bắt đầu từ đây, nàng quyết định sẽ gửi chữ duyên của mình cho Thúy Vân.

“Cậy em em có chịu lời

Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa”

Từ “cậy” được đặt lên đầu câu diễn tả hoàn cảnh ngặt nghèo, khó thưa, khó gửi của Thúy Kiều. Vốn dĩ Thúy Kiều là chi, sẽ không có chuyện “thưa”, “lạy” Thúy Vân bất cứ việc gì; nhưng trong hoàn cảnh này, nàng đã phải làm những việc tưởng chừng như nghịch lý như vậy. Mối duyên với chàng Kim là mối duyên trời cho, nhưng số phận của Thúy Kiều giờ nổi trôi, bấp bênh, nàng không muốn phụ chàng, nên đã muốn cậy nhờ em gái nối tiếp mối duyên dở dang ấy. Câu thơ như cứa vào lòng người đọc nỗi chua xót cùng cực. Từ “cậy” là điểm nhấn, là sự thành công về mặt ngôn ngữ của Nguyễn Du.

“Kể từ khi gặp chàng Kim

Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề

 Sự đâu sóng gió bất kì

Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai”.

Thúy Kiều bắt đầu thuật lại câu chuyện tình của mình, những điều mà Vân hẳn đã biết. Nhưng có một điều mà đến lúc này Kiều mới tâm sự: nàng đang bị giằng xé giữa Hiếu và Tình. Sóng gió ập đến gia đình, lúc này nàng sẽ phải hi sinh đoạn tình của mình để cứu lấy cha và em.

“Ngày xuân em hãy còn dài

Xót tình máu mủ thay lời nước non

Chị dù thịt nát xương mòn

Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây”.

Hai chị em đều “xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê” vậy mà nàng nói “ngày xuân em hãy còn dài” đau đớn biết chừng nào! Dường như nàng xem sự sống của mình đến đây là hết, chỉ cần Thúy Vân và Kim Trọng hạnh phúc thì nàng cũng sẽ thỏa ước nguyện. Trong đau khổ tuyệt vọng, nàng còn biết lo cho hạnh phúc của người khác. Thật là một cô gái có đức hi sinh lớn lao.

“Chiếc vành với bức tờ mây

Duyên này thì giữ, vật này của chung".

Có thể thấy, Kiều trao kỉ vật lại dùng dằng nửa trao, nửa níu. Tâm trạng của Kiều trong thời khắc đoạn trường này chính là Kiều đang mâu thuẫn giữa hành động và lời nói, lí trí và tình cảm. Kiều trao duyên chứ không muốn trao tình. Điều này cũng hợp nhẽ thôi, làm sao có thể lý trí hoàn toàn mà trao hết tất cả, không mảy may động lòng được chứ? Nguyễn Du thật tài tình khi đã miêu tả một cách tinh tế tâm trạng lúc này của Kiều:

“Mất người còn chút của tin,

Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa.”

Sau khi trao duyên cho Thúy Vân, ý thức về bi kịch tình yêu cùng thân phận bất hạnh của Thúy Kiều lúc này được bộc lộ thông qua cuộc độc thoại nội tâm đầy đau đớn:

“Mai sau dù có bao giờ,

Đốt lò hương ấy, so tơ phím nàv.

Trông ra ngọn cỏ lá cây,

Thấy hiu hiu gió thì hay chị về.

Hồn còn mang nặng lời thề,

Nát thân bồ liễu, đền nghì trúc mai”.

Dự cảm về cái chết cứ trở đi trở lại trong lòng Kiều. Thúy Kiều tưởng tượng nàng chỉ còn là bóng ma. Nàng sẽ hiện lên trong hương trầm và âm nhạc. Hồn ma còn mang nặng lời thề với Kim Trọng, cho nên dẫu “thịt nát xương mòn” thì hồn nàng vẫn còn quanh quẩn với “ngọn cỏ lá cây”, với “hiu hiu gió...”. Tình của người bạc mệnh vẫn còn làm chấn động cả vũ trụ.

Đau đớn tột cùng trước sự đổ vỡ của tình yêu, nàng quên rằng trước mặt rành là Thúy Vân mà than khóc với Kim Trọng:

“Trăm nghìn gửi lạy tình quân,

Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi

Phận sao phận bạc như vôi!

Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng”.

Mức độ của nỗi đau cao hơn,xót xa hơn khi Kiều chuyển sang tự nói với bản thân mình, từ đau đớn chuyển thành tiếng khóc, khóc cho mình, khóc cho mối tình đẹp phải chia li. Thúy Kiều hướng một lòng về tình yêu thương mong nhớ người mình yêu. Trâm đã gãy, gương đã tan và tất cả đã là “nước chảy hoa trôi lỡ làng”. Những thành ngữ chỉ sự tan vỡ đã xoáy sâu vào nỗi đau của Kiều - một nõi đau chưa từng có trong đời. Giọng điệu chì chiết, đay nghiến số phận của nàng thì được diễn tả rất nổi bật ở câu: “Phận sao phận bạc như vôi” với sự trùng điệp của từ phận, như cứa vào lòng của độc giả.

“Ôi Kim lang! Hỡi Kim lang!

Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!”

Lời than khóc cuối cùng này như những tiếng ngân dài, để rồi nấc nghẹn lại. Nàng nghĩ đến gia đình, nghĩ đến cha, nghĩ đến em, nghĩ đến cả Thúy Vân; và rồi cuối cùng, nàng nghĩ đến Kim Trọng, rằng nàng đã phụ mất tình yêu của chàng. Các thán từ “ôi, hỡi, thôi thôi” không ngớt muôn vàn đau khổ, tình cảm của Kiều đã lâm li tới cực đại.

Nhân cách cao đẹp của Thúy Kiều đã được soi chiếu xuyên suốt cả đoạn trích. Nàng là người có tấm lòng cao cả, hi sinh hạnh phúc lứa đôi, hi sinh thân phận của mình để cứu lấy gia đình. ống trong xã hội nhiều bất công, những người đáng lẽ ra phải được hưởng một cuộc sống hạnh phúc trọn vẹn lại phải lựa chọn con đường đi nhiều nước mắt. Cái chết không phải là kết thúc đối với Kiều, vì nàng còn mang nặng món nợ lớn với đời, với Kim Trọng. Thúy Kiều chỉ có thể bất lực với tình yêu của mình, mong Kim Trọng có thể hiểu được. Sự bế tắc và đau khổ trong lòng Thúy Kiều dường như chồng chất và đè nén không thể thoát ra được. Điều đó càng làm ta thêm thương cảm cho một nhân cách cao đẹp như Kiều.

Với nghệ thuật miêu tả tinh tế diễn biến nội tâm nhân vật và ngôn ngữ độc thoại sinh động, đoạn trích Trao duyên đã ánh lên vẻ đẹp nhân cách Thúy Kiều thể hiện qua nỗi đau đớn khi tình yêu tan vỡ và sự hy sinh đến quên mình vì hạnh phúc của người thân.

Thông qua đoạn trích Trao duyên (Trích Truyện Kiều) của Nguyễn Du, ta có thể cảm nhận được bi kịch tình yêu, thân phận bất hạnh và nhân cách cao đẹp của Thúy Kiều. Từ đấy, ta cũng nhận ra được tài năng lẫn tấm lòng nhân đạo sâu sắc của Nguyễn Du được gửi gắm vào trong tác phẩm. Với những giá trị như vậy, Truyện Kiều chắc chắn không chỉ ý nghĩa trong thời đại mà nó soi chiếu, mà tác phẩm vẫn sẽ luôn là viên ngọc quý tỏa sáng trong thời đại ngày nay.

 

=> Trên đây là bài viết tham khảo. Tuy nhiên, nếu bạn học sinh nào muốn viết theo ý mình thì tech12h có dàn ý để các bạn dễ viết bài.

1. Mở bài

- Giới thiệu đoạn trích “Trao duyên”.

- Khái quát bi kịch tình yêu, thân phận bất hạnh và nhân cách cao đẹp của Thúy Kiều.

2. Thân bài

- Tóm tắt những sự kiện xảy ra trước đoạn trích “Trao duyên”.

- Bi kịch tình yêu của Thúy Kiều thể hiện ở việc nàng quyết định sẽ gửi chữ duyên của mình cho Thúy Vân.

  • Kiều nhờ cậy Vân, lời nhờ cậy có sắc thái khác thường (cậy, chịu lời, lạy, thưa). 
  • Kiều trao duyên cho em, nhưng lại nửa trao, nửa muốn giữ lại. Kiều đang mâu thuẫn giữa hành động và lời nói, lí trí và tình cảm. -> Kiều trao duyên chứ không muốn trao tình.

-Sau khi trao duyên cho Thúy Vân, ý thức về bi kịch tình yêu cùng thân phận bất hạnh của Thúy Kiều lúc này được bộc lộ thông qua cuộc độc thoại nội tâm đầy đau đớn

  • Dự cảm về cái chết cứ trở đi, trở lại trong tâm hồn Kiều
  • Kiều chuyển sang tự nói với bản thân mình, từ đau đớn chuyển thành tiếng khóc, khóc cho mình, khóc cho mối tình đẹp phải chia li.

- Nhân cách cao đẹp của Thúy Kiều đã được soi chiếu xuyên suốt cả đoạn trích, nàng đã nghĩ cho mọi trước, trước khi nghĩ đến bản thân.

- Nghệ thuật của đoạn thơ:

  • Miêu tả tinh tế diễn biến nội tâm nhân vật
  • Ngôn ngữ độc thoại sinh động

3. Kết bài

Khẳng định giá trị của “Truyện Kiều” trong thời đại ngày nay.

Đề bài: Bàn về thơ, có ý kiến cho rằng: “Thơ hay là thơ có sức đồng cảm mãnh liệt và quảng đại đối với con người ”. Anh/chị hiểu ý kiến trên như thế nào? Qua đoạn trích Trao duyên trong "Truyện Kiều" của Nguyễn Du hãy làm sáng tỏ.

Bàn về giá trị của thơ, dường như chẳng có lời nào là đủ, nhưng trên tất cả, một bài thơ đi vào lòng người là bài thơ có thể khiến người ta lay động vì đồng cảm, vì thương yêu. Có ý kiến cho rằng: “Thơ hay là thơ có sức đồng cảm mãnh liệt và quảng đại đối với con người.” Ta có thể cảm nhận được điều này thông qua đoạn trích “Trao duyên” trong Truyện Kiều, bởi Nguyễn Du đã đưa ta trải nghiệm theo những cung bậc cảm xúc, từ đó gợi nên tình cảm mãnh liệt và quảng đại đối với tấm lòng của Thúy Kiều.

Bàn về thơ hay, ở ý kiến này chưa bàn đến mặt hình thức, về cái đẹp tự thân. Mà thơ hay là về giá trị nhân đạo của nó, bởi nó gợi nên sự đồng cảm mãnh liệt và quảng đại đối với con người. Để được như thế, tác phẩm phải được kết tinh bằng sự đau khổ, bằng chân thành, tâm hồn cao cả, tình cảm vị tha... trải qua nhiều cung bậc cảm xúc để đến với trái tim của người đọc.

Thúy Kiều đã trải qua những gì để có thể làm lay động trái tim độc giả. Đó là lúc tình yêu giữa Thúy Kiều và Kim Trọng đang tươi đẹp, nồng nàn thì Kim Trọng phải về Liêu Dương hộ tang chú. Trong khi đó tai họa đổ ập xuống gia đình Thúy Kiều. Của cải bị bọn sai nha vét sạch. Cha và em trai Thúy Kiều bị bắt, bị đánh. Bọn quan lại đòi đút lót “có ba trăm lạng việc này mới xuôi”. Trước biến cố đau lòng đó, một người giàu tình cảm, giàu đức hi sinh như Thúy Kiều không còn cách nào khác là phải bán mình lấy tiền cứu cha và em. Nhưng nàng trăn trở và lo âu, bởi nàng không biết mình phải làm thế nào với tình yêu của Kim Trọng.

Sau một khoảng thời gian trăn trở, nàng quyết định sẽ gửi chữ duyên của mình cho Thúy Vân.

“Cậy em em có chịu lời

Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa”

Từ “cậy” được sử dụng ở đây cho thấy được sự khó xử, hoàn cảnh éo le lúc này của nàng Kiều. Vốn dĩ Thúy Kiều là chị, sẽ không có chuyện “thưa”, “lạy” Thúy Vân bất cứ việc gì; nhưng trong hoàn cảnh này, nàng đã phải làm những việc tưởng chừng như nghịch lý như vậy. Mối duyên với chàng Kim là mối duyên trời cho, nhưng số phận của Thúy Kiều giờ nổi trôi, bấp bênh, nàng không muốn phụ chàng, nên đã muốn cậy nhờ em gái nối tiếp mối duyên dở dang ấy. Câu thơ như cứa vào lòng người đọc nỗi chua xót cùng cực. Từ “cậy” là điểm nhấn, là sự thành công về mặt ngôn ngữ của Nguyễn Du.

“Kể từ khi gặp chàng Kim

Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề

 Sự đâu sóng gió bất kì

Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai”.

Thúy Kiều bắt đầu thuật lại câu chuyện tình của mình, những điều mà Vân hẳn đã biết. Nhưng có một điều mà đến lúc này Kiều mới tâm sự: nàng đang bị giằng xé giữa Hiếu và Tình. Sóng gió ập đến gia đình, lúc này nàng sẽ phải hi sinh đoạn tình của mình để cứu lấy cha và em. “Gánh tương tư” là quan niệm của người xưa về tình yêu nam nữ. Nó không đơn giản chỉ là tình yêu mà còn là chuyện nghĩa tình, là mối duyên tiền định. Như vậy “Đứt gánh tương tư” tức là chuyện tình yêu dang dở, tan vỡ của Thúy Kiều và Kim Trọng. Mối tình Kim – Kiều mới chớm nở nhưng không thể đơm hoa kết trái bởi sóng gió đang ập đến. Kiều đau khổ, xót xa cho bi kịch tình yêu nhưng không thể làm khác được, đành trao lại mối duyên này cho em. Nàng đã mượn điển tích “keo loan” để nói lên ý định muốn nhờ Thúy Vân thay mình kết duyên với Kim Trọng. “Mối tơ thừa” là cách nói nhún mình của Thúy Kiều bởi nàng cảm thấy có lỗi, day dứt vô cùng khi đẩy Vân vào thế bị động như mình ép duyên “mặc em” phải nhận.

“Ngày xuân em hãy còn dài

Xót tình máu mủ thay lời nước non

Chị dù thịt nát xương mòn

Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây”.

Lời thỉnh cầu của Kiều vừa chân thành, vừa thuyết phục, vừa thiết tha, vừa ràng buộc, đưa Vân đến tình thế mặc nhiên phải chấp nhận. Nàng Kiều cúa Nguyễn Du tỏ ra sắc sảo mặn mà cả trong bi kịch đau đớn nhất của mình.

“Chiếc vành với bức tờ mây

Duyên này thì giữ, vật này của chung".

Có thể thấy, Kiều trao kỉ vật lại dùng dằng nửa trao, nửa níu. Tâm trạng của Kiều trong thời khắc đoạn trường này chính là Kiều đang mâu thuẫn giữa hành động và lời nói, lí trí và tình cảm. Kiều trao duyên chứ không muốn trao tình. Điều này cũng hợp nhẽ thôi, làm sao có thể lý trí hoàn toàn mà trao hết tất cả, không mảy may động lòng được chứ? Nguyễn Du thật tài tình khi đã miêu tả một cách tinh tế tâm trạng lúc này của Kiều:

“Mất người còn chút của tin,

Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa.”

Đến đây, người đọc đã thương cho Thúy Kiều, cảm phục tấm lòng của nàng. Nhưng rồi, ta lại càng đau đớn theo Thúy Kiều hơn nữa, khi Thúy Kiều bộc lộ cảm xúc thông qua cuộc độc thoại nội tâm đầy xúc động. Bởi sau khi trao duyên cho Thúy Vân, nàng ý thức về bi kịch tình yêu cùng thân phận bất hạnh của nàng bấy giờ:

“Mai sau dù có bao giờ,

Đốt lò hương ấy, so tơ phím nàv.

Trông ra ngọn cỏ lá cây,

Thấy hiu hiu gió thì hay chị về.

Hồn còn mang nặng lời thề,

Nát thân bồ liễu, đền nghì trúc mai”.

Dự cảm về cái chết cứ trở đi trở lại trong lòng Kiều. Thúy Kiều tưởng tượng nàng chỉ còn là bóng ma. Nàng sẽ hiện lên trong hương trầm và âm nhạc. Hồn ma còn mang nặng lời thề với Kim Trọng, cho nên dẫu “thịt nát xương mòn” thì hồn nàng vẫn còn quanh quẩn với “ngọn cỏ lá cây”, với “hiu hiu gió...”. Tình của người bạc mệnh vẫn còn làm chấn động cả vũ trụ.

Đau đớn tột cùng trước sự đổ vỡ của tình yêu, nàng quên rằng trước mặt rành là Thúy Vân mà than khóc với Kim Trọng:

“Trăm nghìn gửi lạy tình quân,

Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi

Phận sao phận bạc như vôi!

Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng”.

Mức độ của nỗi đau cao hơn,xót xa hơn khi Kiều chuyển sang tự nói với bản thân mình, từ đau đớn chuyển thành tiếng khóc, khóc cho mình, khóc cho mối tình đẹp phải chia li. Thúy Kiều hướng một lòng về tình yêu thương mong nhớ người mình yêu. Trâm đã gãy, gương đã tan và tất cả đã là “nước chảy hoa trôi lỡ làng”. Những thành ngữ chỉ sự tan vỡ đã xoáy sâu vào nỗi đau của Kiều - một nỗi đau chưa từng có trong đời. Giọng điệu chì chiết, đay nghiến số phận của nàng thì được diễn tả rất nổi bật ở câu: “Phận sao phận bạc như vôi” với sự trùng điệp của từ phận, như cứa vào lòng của độc giả.

“Ôi Kim lang! Hỡi Kim lang!

Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!”

Lời than khóc cuối cùng này như những tiếng ngân dài, để rồi nấc nghẹn lại. Nàng nghĩ đến gia đình, nghĩ đến cha, nghĩ đến em, nghĩ đến cả Thúy Vân; và rồi cuối cùng, nàng nghĩ đến Kim Trọng, rằng nàng đã phụ mất tình yêu của chàng. Các thán từ “ôi, hỡi, thôi thôi” không ngớt muôn vàn đau khổ, tình cảm của Kiều đã lâm li tới cực đại.

Nhân cách cao đẹp của Thúy Kiều đã được soi chiếu xuyên suốt cả đoạn trích. Nàng là người có tấm lòng cao cả, hi sinh hạnh phúc lứa đôi, hi sinh thân phận của mình để cứu lấy gia đình. ống trong xã hội nhiều bất công, những người đáng lẽ ra phải được hưởng một cuộc sống hạnh phúc trọn vẹn lại phải lựa chọn con đường đi nhiều nước mắt. Cái chết không phải là kết thúc đối với Kiều, vì nàng còn mang nặng món nợ lớn với đời, với Kim Trọng. Thúy Kiều chỉ có thể bất lực với tình yêu của mình, mong Kim Trọng có thể hiểu được. Sự bế tắc và đau khổ trong lòng Thúy Kiều dường như chồng chất và đè nén không thể thoát ra được. Điều đó càng làm ta thêm thương cảm cho một nhân cách cao đẹp như Kiều. Đoạn trích đã giúp ta đồng cảm với nàng Kiều mãnh liệt hơn bao giờ hết, giúp ta thương xót cho một người con gái liễu yếu đào tơ nhưng lại cao cả hi sinh hết thảy, không nghĩ cho riêng mình một phút giây nào.

Với nghệ thuật miêu tả tinh tế diễn biến nội tâm nhân vật và ngôn ngữ độc thoại sinh động, đoạn trích Trao duyên đã ánh lên vẻ đẹp nhân cách Thúy Kiều thể hiện qua nỗi đau đớn khi tình yêu tan vỡ và sự hy sinh đến quên mình vì hạnh phúc của người thân.

Thông qua đoạn trích “Trao duyên”, ta càng hiểu thêm ý kiến: “Thơ hay là thơ có sức đồng cảm mãnh liệt và quảng đại đối với con người ”. Thúy Kiều đã đưa ta đi từ nỗi cảm thương đến sự đau xót, đưa ta từ thương mến đến cảm phúc. Với những giá trị như vậy, Truyện Kiều chắc chắn sẽ sống mãi trong lòng người đọc, như một viên ngọc quý, tỏa sáng không bao giờ tắt đi.

=> Trên đây là bài viết tham khảo. Tuy nhiên, nếu bạn học sinh nào muốn viết theo ý mình thì tech12h có dàn ý để các bạn dễ viết bài.

1. Mở bài

- Trích ý kiến: “Thơ hay là thơ có sức đồng cảm mãnh liệt và quảng đại đối với con người ”.

- Giới thiệu đoạn trích “Trao duyên”.

2. Thân bài

- Giải thích ý kiến.

- Tóm tắt những sự kiện xảy ra trước đoạn trích “Trao duyên”.

- Sau một khoảng thời gian trăn trở, nàng quyết định sẽ gửi chữ duyên của mình cho Thúy Vân. -> cảm thương cho người con gái hi sinh mọi thứ vì gia đình

  • Kiều nhờ cậy Vân, lời nhờ cậy có sắc thái khác thường (cậy, chịu lời, lạy, thưa). 
  • Kiều trao duyên cho em, nhưng lại nửa trao, nửa muốn giữ lại. Kiều đang mâu thuẫn giữa hành động và lời nói, lí trí và tình cảm. -> Kiều trao duyên chứ không muốn trao tình.

- Ta lại càng đau đớn theo Thúy Kiều hơn nữa, khi Thúy Kiều bộc lộ cảm xúc thông qua cuộc độc thoại nội tâm đầy xúc động

  • Dự cảm về cái chết cứ trở đi, trở lại trong tâm hồn Kiều
  • Kiều chuyển sang tự nói với bản thân mình, từ đau đớn chuyển thành tiếng khóc, khóc cho mình, khóc cho mối tình đẹp phải chia li.

- Nhân cách cao đẹp của Thúy Kiều đã được soi chiếu xuyên suốt cả đoạn trích, nàng đã nghĩ cho mọi trước, trước khi nghĩ đến bản thân.

- Nghệ thuật của đoạn thơ:

  • Miêu tả tinh tế diễn biến nội tâm nhân vật
  • Ngôn ngữ độc thoại sinh động

3. Kết bài

Khẳng định lại tính đúng đắn của ý kiến và giá trị của Truyện Kiều.

III. Soạn bài ngắn nhất: Trao duyên

Bài tập 1: Kiều nhắc đến các kỉ niệm của tình yêu với Kim Trọng

Ý nghĩa: 

- Kiều nhớ tới những kỉ niệm tình yêu, khắc ghi mối tình đẹp đẽ này trong tim mình.

- Là một cách nhắc khéo léo để buộc Thúy Vân nhận lời giúp Kiều trả nghĩa chàng Kim. 

Bài tập 2: Từ ngữ: thịt nát xương mòn, Ngậm cười chín suối…; người mệnh bạc ; Mất người ; Thấy hiu hiu gió thì hay chị về ; hồn ; Dạ đài cách mặt khuất lời ; người thác oan.

  • Ý nghĩa:

- Cuộc đời trống trải vô nghĩa khi không còn tình yêu nữa, nghĩ đến cái chết và cảm thấy đây sẽ là cái chết đầy oan nghiệt. => tiếng nói thương thân xót phận của một người con gái tha thiết với tình yêu, gieo vào lòng người đọc một nỗi niềm thương cảm sâu sắc.

- Không chỉ thể hiện sự đau đớn với Thúy Kiều mà còn thể hiện sự băn khoăn, day dứt của Nguyễn Du trước nỗi đau của con người, thương thân xót phận cho người con gái tha thiết yêu thương mà số kiếp nghiệt ngã.

Bài tập 3: Kiều đối thoại ba người:  Vân, với chính mình và với Kim Trọng:

- Với Vân : nhờ cậy chấp nhận mối duyên tình và trả lễ cho chàng Kim hộ mình vì nàng đã phải chọn chữ hiếu thay cho chữ tình. Với Vân, Kiều mang sự biết ơn chân thành, yên tâm, thanh thản bớt nỗi day dứt trong lòng khi bội thề với Kim Trọng, tin tưởng Vân sẽ giúp mình thực hiện lời thề với Kim Trọng. =>  lựa chọn chữ hiếu thay chữ tình  Kiều giằng xé và day dứt đầy mâu thuẫn, Vân nhận lời thì mâu thuẫn được giải quyết tạm thời trong lòng của Kiều. 

- Với chính mình : giằng xé đầy mâu thuẫn, đau đớn tột cùng khi không trọn tình yêu và lời thề với Kim Trọng, Kiều đã trách thân phận, có duyên mà không có phận với chàng Kim "phận bạc như vôi" và xác định rằng cuộc đời mình sẽ là "nước chảy hoa trôi lỡ làng". 

- Với Kim Trọng : Khát vọng tình yêu mãnh liệt với hiện thực phũ phàng, ngất đi trong hình bóng Kim Trọng Ôi Kim Lang…, Kiều tự trách than và đau đớn, coi mình như một kẻ phụ bạc, phản bội lời thề 

Bài tập 4: Nhận xét về mối quan hệ: tình cảm – lí trí, nhân cách – thân phận, chữ tình – chữ hiếu.

  • Kiều tha thiết với tình yêu Kim Trọng, nhưng chữ hiếu buộc nàng lựa chọn sự hi sinh tình yêu. 
  • Lí trí bảo nàng trao duyên cho Vân, hy sinh cứu cha mẹ trong khi con tim hướng về tình yêu lại khiến nàng thổn thức, đau đớn. 

=>Mâu thuẫn giữa các phạm trù đạo đức phong kiến với tâm hồn con người, cũng là sự đau khổ khi nhân cách đa tình, đa cảm song hành cùng thân phận người làm con.

Phân tích đoạn trích Trao duyên Truyện Kiều

Bài tham khảo

“Truyện Kiều” không chỉ là một kiệt tác vĩ đại của nền văn học Việt Nam mà còn của toàn thế giới. Trong đó, đoạn trích nổi tiếng “Trao duyên” đã thể hiện cái nhìn hiện thực và nhân đạo của Nguyễn Du về con người, đặc biệt là đối với số phận của khách hồng nhan, số phận của Thúy Kiều. Ngoài ra, “Trao duyên” còn là tâm sự, là tiếng khóc đau thương được bật ra từ một hoàn cảnh éo le “tình chị duyên em”.

“Trao duyên” là câu chuyện đặc biệt đằng sau một hoàn cảnh đặc biệt. Sau đêm thề nguyền với Thúy Kiều, Kim Trọng phải về hộ tang chú ở Liêu Dương. Ngay lúc đó, gia đình Kiều bị thằng bán tơ vu oan, Vương Ông và Vương Quan bị hành hạ, gia sản bị cướp hết. Kiều đứng trước cảnh gia biến phải bán mình chuộc cha. Đêm trước ngày phải theo Mã Giám Sinh, Kiều cậy Thúy Vân tiếp nối mối duyên dang dở của mình với chàng Kim. 

Mở đầu đoạn trích là hình ảnh Kiều mở lời nhờ cậy Vân thay mình trả nghĩa cho Kim Trọng:

“Cậy em em có chịu lời

Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa”

Ta thấy cách sử dụng ngôn ngữ, ở đây là sử dụng động từ đã đạt tới những thành công nhất định. Từ “cậy” với thanh trắc âm điệu nặng nề gợi sự quằn quại, đau đớn, khó nói, nó trái hẳn với “nhờ”. Cậy mang hàm ý hi vọng tha thiết, có ý tựa nương, gửi gắm, van nài, tin tưởng nơi quan hệ ruột thịt. Từ “chịu” thể hiện nài ép, bắt buộc, không nhận không được. Hai động từ “lạy”, “thưa” trong câu thứ hai đã thái độ kính cẩn, trang trọng với người bề trên hoặc với người mình hàm ơn. Thúy Kiều trong vế ở trên, là chị của Thúy Vân nhưng trong cuộc “trao duyên” hoàn toàn nhận về sự thua thiệt. Chữ hiếu đè nặng lên vai và bổn phận “làm con trước phải đền ơn sinh thành” đã trở thành niềm lo lắng khôn nguôi của nàng Kiều lúc này.

Những câu thơ tiếp theo là lời trình bày đầy thuyết phục:

“Giữa đường đứt gánh tương tư,

Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em.

Kể từ khi gặp chàng Kim,

Khi ngày quạt ước khi đêm chén thề

Sự đâu sóng gió bất kì,

Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai

Ngày xuân em hãy còn dài 

Xót tình máu mủ thay lời nước non”

Rơi vào cảnh ngộ éo le, tình yêu vừa chớm nở nay phải cam chịu cảnh dở dang, đứt quãng “đứt gánh tương tư” bởi tai họa ập đến gia đình “sóng gió bất kì”. Từng nấc thang tâm trạng là từng lời giằng xé, từng ai oán thương tâm. Bên tình bên hiếu đang chờ đợi sự lựa chọn của nàng. Không thể từ bỏ cha già, em thơ, Kiều chỉ còn cách bán mình cứu cả gia đình qua cơn sóng gió. Hiểu rõ sự thiệt thòi của Thúy Vân, Kiều tha thiết van nài, trông mong ở mối quan hệ thâm tình ruột thịt để trả nghĩa cho chàng Kim. Niềm vui hẹn ước, thề nguyền xưa kia giờ chỉ còn biết nhờ tình máu mủ thay thế. Để rồi đằng sau lời lẽ đầy lí trí của một người con hiếu thảo kia là dự cảm không lành ở tương lai:

“Chị dù thịt nát xương mòn

Ngậm cười chín suốt hãy còn thơm lây”

Từ bỏ tình duyên với Kim Trọng, nàng chẳng khác nào từ bỏ đi cuộc sống của mình. Nàng nghĩ đến cái chết của chính mình, tự nhận thức về bi kịch tình yêu đang hiện hữu. 

Và càng đau đớn hơn khi các kỉ vật tình yêu vẫn còn nguyên vẹn, vẫn ấm áp hơi người, Kiều trao kỉ vật và dặn dò ở nơi em:

“Chiếc vành với bức tờ mây,

Duyên này thì giữ vật này của chung.

Dù em nên vợ nên chồng,

Xót người bạc mệnh ắt lòng chẳng quên.

Mất người còn chút của tin,

Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa”

Hoài Thanh từng viết: “Của chung là của ai? Bao nhiêu đau đớn trong hai tiếng đơn sơ!”. Rõ ràng, trong Thúy Kiều dường như có gì đó không nỡ, có gì đó lưu luyến. Đã nhờ Thúy Vân thay mình tiếp nối tình yêu với Kim Trọng nhưng kỉ vật xưa kia vẫn là “của chung”. Nàng không từ bỏ được chúng cũng như không từ bỏ được tình yêu sâu kín trong tận đáy lòng. Có cái gì đó uất nghẹn âm vang trong câu thơ bởi sự giằng xé, phân đôi xót xa giữa cái riêng với cái chung, giữa hạnh phúc với bất hạnh, giữa mất với còn, giữa tương lai và hiện tại. Kiều nhận về  mình tất cả những xót xa, những đau đớn của một đời người bạc mệnh bởi đây cũng là số phận mà nàng phải vương mang: “lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”.

Mạch tự sự của thơ tiếp tục diễn ra để thể hiện một bi kịch tình yêu:

“Mai sau dù có bao giờ

Đốt lò hương ấy so tơ phím này.

Trông ra ngọn cỏ lá cây,

Thấy hiu hiu gió thì hay chị về.

Hồn còn mang nặng lời thề,

Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai.

Dạ đài cách mặt khuất lời

Dưới xin giọt nước cho người thác oan”

Kiều tưởng tượng về cảnh ngộ của mình trong tương lai qua hình ảnh nhuốm màu tang tóc. Những “lò hương”, “ngọn cỏ lá cây”, “hiu hiu gió”, “hồn”, “thân bồ liễu”, “đền nghì trúc mai”, “dạ đài”, “giọt nước”, “người thác oan”…. gợi ra cuộc sống cõi âm lạnh lẽo. Hơn thế nữa, nhịp thơ chậm rãi, nghẹn ngào, tức tưởi như tiếng khóc não nùng cố nén lại để không bật thành lời. Kiều đang tưởng tượng đau đớn đến tột bực bởi trong lòng còn mang nặng tình cảm với chàng Kim.

Cuối cùng, sau những giờ phút gửi gắm tình duyên là lúc Kiều đối diện với thực tại và lời nhắn gửi cho “người yêu cũ”:

“Bây giờ trâm gãy gương tan

Kể sao cho xiết muôn vàn ái ân!

Trăm nghìn gửi lạy tình quân,

Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi!

Phận sau phận bạc như vôi!

Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng”

Đang đối thoại với Thúy Vân, Kiều quay sang độc thoại với chính mình. Ý thức hiện tại đầy xót xa qua hai tiếng “bây giờ”. “Bây giờ” ấy thế nào? Là “trâm gãy gương tan”, là “kể sao cho xiết muôn vàn ái ân”, là “trăm nghìn gửi lại tình quân”, là “tơ duyên ngắn ngủi”….. Còn gì đau đớn hơn, còn gì xót xa hơn! Sự trôi nổi của số phận và đứt đoạn của tình duyên đã khiến nàng gần như rơi vào cơn mê sảng. Nàng nhận hết tất cả thiệt thòi, nhận mình là người phụ bạc để gửi lại cái tạ tình tha thiết và chấp nhận đoạn trường riêng mang: “Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng”. Kiều lúc này như buông xuôi tất cả, nàng mặc cho sự xô đẩy vô tình của số phận, sự dày vò của con tạo để bật ra tiếng gọi, tiếng khóc, tiếng thét đai đớn, nghẹn ngào:

“Ôi Kim Lang! Hỡi Kim Lang!

Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!"

Tiếng gọi Kim Lang được lặp đi lặp lại vừa thiết tha trân trọng nhưng cũng đầy đau đớn tuyệt vọng. Câu thơ ngắt theo nhịp 3/3 như một tiếng nấc để rồi ở câu sau nhịp thơ trải ra như một lời than trách chính mình. Thúy Kiều đã quên đi nỗi đau của mình mà nghĩ nhiều đến người khác, đó chính là đức hy sinh cao quý mà Nguyễn Du đã ban tặng cho nàng. 

Về nghệ thuật, đoạn trích đã miêu tả tinh tế diễn biến tâm trạng nhân vật, ở đây chính là Thúy Kiều. Qua đó, chúng ta cảm nhận được tình yêu, được trách nhiệm, được sự hi sinh, được kiếp số bạc mệnh của nàng. Vừa là một người con hiếu thảo, một người yêu thủy chung, Kiều đã thực sự lấy đi biết bao nước mắt, biết bao sự đồng cảm, xót xa. Bên cạnh đó, đoạn trích đã sử dụng thành công ngôn ngữ kết hợp giữa tự sự và trữ tình và đặc biệt là ngôn ngữ độc thoại nội tâm sinh động. Việc sáng tạo các thành ngữ dân gian, sự giao thoa giữa bình dân và bác học đã khiến cho ngòi bút Nguyễn Du được hậu thế ca ngợi đời đời. 

Tóm lại, đoạn trích “Trao duyên” đã khắc họa nên bức tranh cảm động về số phận nàng Kiều, về sự giằng xé đau đớn giữa chữ hiếu và chữ tình, giữa lí trí và tình cảm. Qua đó, chúng ta càng có thêm cơ hội để nhìn nhận tài năng của Nguyễn Du, để nhìn nhận giá trị của “Truyện Kiều”, để hiểu vì sao người đời gọi đây là một hòn ngọc quý cơ hồ không thể thay đổi, thêm bớt một tí gì, như một tiếng đàn lạ gần như không một lần nào lỡ nhịp ngang cung.

Giá trị nội dung và nghệ thuật Trao duyên 

1. Nội dung:

- Bi kịch tình yêu, thân phận bất hạnh của Thúy Kiều khi phải dứt lòng trao lại cho Thúy Vân mối tình đầu tiên. 

- Nhân cách cao đẹp của Kiều còn thể hiện rõ bởi sự hi sinh hạnh phúc cá nhân đổi lấy hạnh phúc và sự bình yên cho gia đình.

2. Nghệ thuật

  • Thể thơ lúc bát giàu nhạc tính cùng với cách ngắt nhịp đầy dụng ý
  • Biện pháp ẩn dụ, điệp từ, vận dụng nhuần nhuyễn các thành ngữ 

Đề bài: Phân tích đoạn trích Trao duyên (Trích Truyện Kiều) của Nguyễn Du để thấy bi kịch tình yêu, thân phận bất hạnh và nhân cách cao đẹp của Thúy Kiều.

Bài tham khảo

Ở bất cứ một thời đại nào, con người cũng có khao khát được hưởng hạnh phúc, khao khát yêu và được yêu. Nhưng dường như, không phải lúc nào hi vọng ấy cũng có thể thực hiện được. Điều này đã được thể hiện thông qua đoạn trích “Trao duyên” (Trích Truyện Kiều) của Nguyễn Du, đoạn trích đã thể hiện bi kịch tình yêu, thân phận bất hạnh và nhân cách cao đẹp của Thúy Kiều khi ở trong một hoàn cảnh éo le và trớ trêu: Trao duyên cho người em gái của mình.

Tình yêu giữa Thúy Kiều và Kim Trọng đang tươi đẹp, nồng nàn thì Kim Trọng phải về Liêu Dương hộ tang chú. Trong khi đó tai họa đổ ập xuống gia đình Thúy Kiều. Của cải bị bọn sai nha vét sạch. Cha và em trai Thúy Kiều bị bắt, bị đánh. Bọn quan lại đòi đút lót “có ba trăm lạng việc này mới xuôi”. Trước biến cố đau lòng đó, một người giàu tình cảm, giàu đức hi sinh như Thúy Kiều không còn cách nào khác là phải bán mình lấy tiền cứu cha và em. Nhưng còn mối tình với Kim Trọng thì sao?

Bi kịch tình yêu của Thúy Kiều bắt đầu từ đây, nàng quyết định sẽ gửi chữ duyên của mình cho Thúy Vân.

“Cậy em em có chịu lời

Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa”

Từ “cậy” được đặt lên đầu câu diễn tả hoàn cảnh ngặt nghèo, khó thưa, khó gửi của Thúy Kiều. Vốn dĩ Thúy Kiều là chi, sẽ không có chuyện “thưa”, “lạy” Thúy Vân bất cứ việc gì; nhưng trong hoàn cảnh này, nàng đã phải làm những việc tưởng chừng như nghịch lý như vậy. Mối duyên với chàng Kim là mối duyên trời cho, nhưng số phận của Thúy Kiều giờ nổi trôi, bấp bênh, nàng không muốn phụ chàng, nên đã muốn cậy nhờ em gái nối tiếp mối duyên dở dang ấy. Câu thơ như cứa vào lòng người đọc nỗi chua xót cùng cực. Từ “cậy” là điểm nhấn, là sự thành công về mặt ngôn ngữ của Nguyễn Du.

“Kể từ khi gặp chàng Kim

Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề

 Sự đâu sóng gió bất kì

Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai”.

Thúy Kiều bắt đầu thuật lại câu chuyện tình của mình, những điều mà Vân hẳn đã biết. Nhưng có một điều mà đến lúc này Kiều mới tâm sự: nàng đang bị giằng xé giữa Hiếu và Tình. Sóng gió ập đến gia đình, lúc này nàng sẽ phải hi sinh đoạn tình của mình để cứu lấy cha và em.

“Ngày xuân em hãy còn dài

Xót tình máu mủ thay lời nước non

Chị dù thịt nát xương mòn

Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây”.

Hai chị em đều “xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê” vậy mà nàng nói “ngày xuân em hãy còn dài” đau đớn biết chừng nào! Dường như nàng xem sự sống của mình đến đây là hết, chỉ cần Thúy Vân và Kim Trọng hạnh phúc thì nàng cũng sẽ thỏa ước nguyện. Trong đau khổ tuyệt vọng, nàng còn biết lo cho hạnh phúc của người khác. Thật là một cô gái có đức hi sinh lớn lao.

“Chiếc vành với bức tờ mây

Duyên này thì giữ, vật này của chung".

Có thể thấy, Kiều trao kỉ vật lại dùng dằng nửa trao, nửa níu. Tâm trạng của Kiều trong thời khắc đoạn trường này chính là Kiều đang mâu thuẫn giữa hành động và lời nói, lí trí và tình cảm. Kiều trao duyên chứ không muốn trao tình. Điều này cũng hợp nhẽ thôi, làm sao có thể lý trí hoàn toàn mà trao hết tất cả, không mảy may động lòng được chứ? Nguyễn Du thật tài tình khi đã miêu tả một cách tinh tế tâm trạng lúc này của Kiều:

“Mất người còn chút của tin,

Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa.”

Sau khi trao duyên cho Thúy Vân, ý thức về bi kịch tình yêu cùng thân phận bất hạnh của Thúy Kiều lúc này được bộc lộ thông qua cuộc độc thoại nội tâm đầy đau đớn:

“Mai sau dù có bao giờ,

Đốt lò hương ấy, so tơ phím nàv.

Trông ra ngọn cỏ lá cây,

Thấy hiu hiu gió thì hay chị về.

Hồn còn mang nặng lời thề,

Nát thân bồ liễu, đền nghì trúc mai”.

Dự cảm về cái chết cứ trở đi trở lại trong lòng Kiều. Thúy Kiều tưởng tượng nàng chỉ còn là bóng ma. Nàng sẽ hiện lên trong hương trầm và âm nhạc. Hồn ma còn mang nặng lời thề với Kim Trọng, cho nên dẫu “thịt nát xương mòn” thì hồn nàng vẫn còn quanh quẩn với “ngọn cỏ lá cây”, với “hiu hiu gió...”. Tình của người bạc mệnh vẫn còn làm chấn động cả vũ trụ.

Đau đớn tột cùng trước sự đổ vỡ của tình yêu, nàng quên rằng trước mặt rành là Thúy Vân mà than khóc với Kim Trọng:

“Trăm nghìn gửi lạy tình quân,

Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi

Phận sao phận bạc như vôi!

Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng”.

Mức độ của nỗi đau cao hơn,xót xa hơn khi Kiều chuyển sang tự nói với bản thân mình, từ đau đớn chuyển thành tiếng khóc, khóc cho mình, khóc cho mối tình đẹp phải chia li. Thúy Kiều hướng một lòng về tình yêu thương mong nhớ người mình yêu. Trâm đã gãy, gương đã tan và tất cả đã là “nước chảy hoa trôi lỡ làng”. Những thành ngữ chỉ sự tan vỡ đã xoáy sâu vào nỗi đau của Kiều - một nõi đau chưa từng có trong đời. Giọng điệu chì chiết, đay nghiến số phận của nàng thì được diễn tả rất nổi bật ở câu: “Phận sao phận bạc như vôi” với sự trùng điệp của từ phận, như cứa vào lòng của độc giả.

“Ôi Kim lang! Hỡi Kim lang!

Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!”

Lời than khóc cuối cùng này như những tiếng ngân dài, để rồi nấc nghẹn lại. Nàng nghĩ đến gia đình, nghĩ đến cha, nghĩ đến em, nghĩ đến cả Thúy Vân; và rồi cuối cùng, nàng nghĩ đến Kim Trọng, rằng nàng đã phụ mất tình yêu của chàng. Các thán từ “ôi, hỡi, thôi thôi” không ngớt muôn vàn đau khổ, tình cảm của Kiều đã lâm li tới cực đại.

Nhân cách cao đẹp của Thúy Kiều đã được soi chiếu xuyên suốt cả đoạn trích. Nàng là người có tấm lòng cao cả, hi sinh hạnh phúc lứa đôi, hi sinh thân phận của mình để cứu lấy gia đình. ống trong xã hội nhiều bất công, những người đáng lẽ ra phải được hưởng một cuộc sống hạnh phúc trọn vẹn lại phải lựa chọn con đường đi nhiều nước mắt. Cái chết không phải là kết thúc đối với Kiều, vì nàng còn mang nặng món nợ lớn với đời, với Kim Trọng. Thúy Kiều chỉ có thể bất lực với tình yêu của mình, mong Kim Trọng có thể hiểu được. Sự bế tắc và đau khổ trong lòng Thúy Kiều dường như chồng chất và đè nén không thể thoát ra được. Điều đó càng làm ta thêm thương cảm cho một nhân cách cao đẹp như Kiều.

Với nghệ thuật miêu tả tinh tế diễn biến nội tâm nhân vật và ngôn ngữ độc thoại sinh động, đoạn trích Trao duyên đã ánh lên vẻ đẹp nhân cách Thúy Kiều thể hiện qua nỗi đau đớn khi tình yêu tan vỡ và sự hy sinh đến quên mình vì hạnh phúc của người thân.

Thông qua đoạn trích Trao duyên (Trích Truyện Kiều) của Nguyễn Du, ta có thể cảm nhận được bi kịch tình yêu, thân phận bất hạnh và nhân cách cao đẹp của Thúy Kiều. Từ đấy, ta cũng nhận ra được tài năng lẫn tấm lòng nhân đạo sâu sắc của Nguyễn Du được gửi gắm vào trong tác phẩm. Với những giá trị như vậy, Truyện Kiều chắc chắn không chỉ ý nghĩa trong thời đại mà nó soi chiếu, mà tác phẩm vẫn sẽ luôn là viên ngọc quý tỏa sáng trong thời đại ngày nay.

 Đề bài: Bàn về thơ, có ý kiến cho rằng: “Thơ hay là thơ có sức đồng cảm mãnh liệt và quảng đại đối với con người ”. Anh/chị hiểu ý kiến trên như thế nào? Qua đoạn trích Trao duyên trong "Truyện Kiều" của Nguyễn Du hãy làm sáng tỏ.

Bài tham khảo

Bàn về giá trị của thơ, dường như chẳng có lời nào là đủ, nhưng trên tất cả, một bài thơ đi vào lòng người là bài thơ có thể khiến người ta lay động vì đồng cảm, vì thương yêu. Có ý kiến cho rằng: “Thơ hay là thơ có sức đồng cảm mãnh liệt và quảng đại đối với con người.” Ta có thể cảm nhận được điều này thông qua đoạn trích “Trao duyên” trong Truyện Kiều, bởi Nguyễn Du đã đưa ta trải nghiệm theo những cung bậc cảm xúc, từ đó gợi nên tình cảm mãnh liệt và quảng đại đối với tấm lòng của Thúy Kiều.

Bàn về thơ hay, ở ý kiến này chưa bàn đến mặt hình thức, về cái đẹp tự thân. Mà thơ hay là về giá trị nhân đạo của nó, bởi nó gợi nên sự đồng cảm mãnh liệt và quảng đại đối với con người. Để được như thế, tác phẩm phải được kết tinh bằng sự đau khổ, bằng chân thành, tâm hồn cao cả, tình cảm vị tha... trải qua nhiều cung bậc cảm xúc để đến với trái tim của người đọc.

Thúy Kiều đã trải qua những gì để có thể làm lay động trái tim độc giả. Đó là lúc tình yêu giữa Thúy Kiều và Kim Trọng đang tươi đẹp, nồng nàn thì Kim Trọng phải về Liêu Dương hộ tang chú. Trong khi đó tai họa đổ ập xuống gia đình Thúy Kiều. Của cải bị bọn sai nha vét sạch. Cha và em trai Thúy Kiều bị bắt, bị đánh. Bọn quan lại đòi đút lót “có ba trăm lạng việc này mới xuôi”. Trước biến cố đau lòng đó, một người giàu tình cảm, giàu đức hi sinh như Thúy Kiều không còn cách nào khác là phải bán mình lấy tiền cứu cha và em. Nhưng nàng trăn trở và lo âu, bởi nàng không biết mình phải làm thế nào với tình yêu của Kim Trọng.

Sau một khoảng thời gian trăn trở, nàng quyết định sẽ gửi chữ duyên của mình cho Thúy Vân.

“Cậy em em có chịu lời

Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa”

Từ “cậy” được sử dụng ở đây cho thấy được sự khó xử, hoàn cảnh éo le lúc này của nàng Kiều. Vốn dĩ Thúy Kiều là chị, sẽ không có chuyện “thưa”, “lạy” Thúy Vân bất cứ việc gì; nhưng trong hoàn cảnh này, nàng đã phải làm những việc tưởng chừng như nghịch lý như vậy. Mối duyên với chàng Kim là mối duyên trời cho, nhưng số phận của Thúy Kiều giờ nổi trôi, bấp bênh, nàng không muốn phụ chàng, nên đã muốn cậy nhờ em gái nối tiếp mối duyên dở dang ấy. Câu thơ như cứa vào lòng người đọc nỗi chua xót cùng cực. Từ “cậy” là điểm nhấn, là sự thành công về mặt ngôn ngữ của Nguyễn Du.

“Kể từ khi gặp chàng Kim

Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề

 Sự đâu sóng gió bất kì

Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai”.

Thúy Kiều bắt đầu thuật lại câu chuyện tình của mình, những điều mà Vân hẳn đã biết. Nhưng có một điều mà đến lúc này Kiều mới tâm sự: nàng đang bị giằng xé giữa Hiếu và Tình. Sóng gió ập đến gia đình, lúc này nàng sẽ phải hi sinh đoạn tình của mình để cứu lấy cha và em. “Gánh tương tư” là quan niệm của người xưa về tình yêu nam nữ. Nó không đơn giản chỉ là tình yêu mà còn là chuyện nghĩa tình, là mối duyên tiền định. Như vậy “Đứt gánh tương tư” tức là chuyện tình yêu dang dở, tan vỡ của Thúy Kiều và Kim Trọng. Mối tình Kim – Kiều mới chớm nở nhưng không thể đơm hoa kết trái bởi sóng gió đang ập đến. Kiều đau khổ, xót xa cho bi kịch tình yêu nhưng không thể làm khác được, đành trao lại mối duyên này cho em. Nàng đã mượn điển tích “keo loan” để nói lên ý định muốn nhờ Thúy Vân thay mình kết duyên với Kim Trọng. “Mối tơ thừa” là cách nói nhún mình của Thúy Kiều bởi nàng cảm thấy có lỗi, day dứt vô cùng khi đẩy Vân vào thế bị động như mình ép duyên “mặc em” phải nhận.

“Ngày xuân em hãy còn dài

Xót tình máu mủ thay lời nước non

Chị dù thịt nát xương mòn

Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây”.

Lời thỉnh cầu của Kiều vừa chân thành, vừa thuyết phục, vừa thiết tha, vừa ràng buộc, đưa Vân đến tình thế mặc nhiên phải chấp nhận. Nàng Kiều cúa Nguyễn Du tỏ ra sắc sảo mặn mà cả trong bi kịch đau đớn nhất của mình.

“Chiếc vành với bức tờ mây

Duyên này thì giữ, vật này của chung".

Có thể thấy, Kiều trao kỉ vật lại dùng dằng nửa trao, nửa níu. Tâm trạng của Kiều trong thời khắc đoạn trường này chính là Kiều đang mâu thuẫn giữa hành động và lời nói, lí trí và tình cảm. Kiều trao duyên chứ không muốn trao tình. Điều này cũng hợp nhẽ thôi, làm sao có thể lý trí hoàn toàn mà trao hết tất cả, không mảy may động lòng được chứ? Nguyễn Du thật tài tình khi đã miêu tả một cách tinh tế tâm trạng lúc này của Kiều:

“Mất người còn chút của tin,

Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa.”

Đến đây, người đọc đã thương cho Thúy Kiều, cảm phục tấm lòng của nàng. Nhưng rồi, ta lại càng đau đớn theo Thúy Kiều hơn nữa, khi Thúy Kiều bộc lộ cảm xúc thông qua cuộc độc thoại nội tâm đầy xúc động. Bởi sau khi trao duyên cho Thúy Vân, nàng ý thức về bi kịch tình yêu cùng thân phận bất hạnh của nàng bấy giờ:

“Mai sau dù có bao giờ,

Đốt lò hương ấy, so tơ phím nàv.

Trông ra ngọn cỏ lá cây,

Thấy hiu hiu gió thì hay chị về.

Hồn còn mang nặng lời thề,

Nát thân bồ liễu, đền nghì trúc mai”.

Dự cảm về cái chết cứ trở đi trở lại trong lòng Kiều. Thúy Kiều tưởng tượng nàng chỉ còn là bóng ma. Nàng sẽ hiện lên trong hương trầm và âm nhạc. Hồn ma còn mang nặng lời thề với Kim Trọng, cho nên dẫu “thịt nát xương mòn” thì hồn nàng vẫn còn quanh quẩn với “ngọn cỏ lá cây”, với “hiu hiu gió...”. Tình của người bạc mệnh vẫn còn làm chấn động cả vũ trụ.

Đau đớn tột cùng trước sự đổ vỡ của tình yêu, nàng quên rằng trước mặt rành là Thúy Vân mà than khóc với Kim Trọng:

“Trăm nghìn gửi lạy tình quân,

Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi

Phận sao phận bạc như vôi!

Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng”.

Mức độ của nỗi đau cao hơn,xót xa hơn khi Kiều chuyển sang tự nói với bản thân mình, từ đau đớn chuyển thành tiếng khóc, khóc cho mình, khóc cho mối tình đẹp phải chia li. Thúy Kiều hướng một lòng về tình yêu thương mong nhớ người mình yêu. Trâm đã gãy, gương đã tan và tất cả đã là “nước chảy hoa trôi lỡ làng”. Những thành ngữ chỉ sự tan vỡ đã xoáy sâu vào nỗi đau của Kiều - một nỗi đau chưa từng có trong đời. Giọng điệu chì chiết, đay nghiến số phận của nàng thì được diễn tả rất nổi bật ở câu: “Phận sao phận bạc như vôi” với sự trùng điệp của từ phận, như cứa vào lòng của độc giả.

“Ôi Kim lang! Hỡi Kim lang!

Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!”

Lời than khóc cuối cùng này như những tiếng ngân dài, để rồi nấc nghẹn lại. Nàng nghĩ đến gia đình, nghĩ đến cha, nghĩ đến em, nghĩ đến cả Thúy Vân; và rồi cuối cùng, nàng nghĩ đến Kim Trọng, rằng nàng đã phụ mất tình yêu của chàng. Các thán từ “ôi, hỡi, thôi thôi” không ngớt muôn vàn đau khổ, tình cảm của Kiều đã lâm li tới cực đại.

Nhân cách cao đẹp của Thúy Kiều đã được soi chiếu xuyên suốt cả đoạn trích. Nàng là người có tấm lòng cao cả, hi sinh hạnh phúc lứa đôi, hi sinh thân phận của mình để cứu lấy gia đình. ống trong xã hội nhiều bất công, những người đáng lẽ ra phải được hưởng một cuộc sống hạnh phúc trọn vẹn lại phải lựa chọn con đường đi nhiều nước mắt. Cái chết không phải là kết thúc đối với Kiều, vì nàng còn mang nặng món nợ lớn với đời, với Kim Trọng. Thúy Kiều chỉ có thể bất lực với tình yêu của mình, mong Kim Trọng có thể hiểu được. Sự bế tắc và đau khổ trong lòng Thúy Kiều dường như chồng chất và đè nén không thể thoát ra được. Điều đó càng làm ta thêm thương cảm cho một nhân cách cao đẹp như Kiều. Đoạn trích đã giúp ta đồng cảm với nàng Kiều mãnh liệt hơn bao giờ hết, giúp ta thương xót cho một người con gái liễu yếu đào tơ nhưng lại cao cả hi sinh hết thảy, không nghĩ cho riêng mình một phút giây nào.

Với nghệ thuật miêu tả tinh tế diễn biến nội tâm nhân vật và ngôn ngữ độc thoại sinh động, đoạn trích Trao duyên đã ánh lên vẻ đẹp nhân cách Thúy Kiều thể hiện qua nỗi đau đớn khi tình yêu tan vỡ và sự hy sinh đến quên mình vì hạnh phúc của người thân.

Thông qua đoạn trích “Trao duyên”, ta càng hiểu thêm ý kiến: “Thơ hay là thơ có sức đồng cảm mãnh liệt và quảng đại đối với con người ”. Thúy Kiều đã đưa ta đi từ nỗi cảm thương đến sự đau xót, đưa ta từ thương mến đến cảm phúc. Với những giá trị như vậy, Truyện Kiều chắc chắn sẽ sống mãi trong lòng người đọc, như một viên ngọc quý, tỏa sáng không bao giờ tắt đi.

IV. Soạn bài cực ngắn: Trao duyên

Bài tập 1: 

1. Kiều nhắc đến các kỉ niệm của tình yêu với Kim Trọng

2. Ý nghĩa: nhớ tới những kỉ niệm tình yêu, hạnh phúc nhất trong cuộc đời mình, khắc ghi mối tình đẹp đẽ này trong tim mình, khéo léo để buộc Thúy Vân nhận lời giúp Kiều trả nghĩa chàng Kim. 

Bài tập 2:

1. thịt nát xương mòn, Ngậm cười chín suối…; người mệnh bạc ; Mất người ; Thấy hiu hiu gió thì hay chị về ; hồn ; Dạ đài cách mặt khuất lời ; người thác oan.

2.Ý nghĩa: cảm thấy cuộc đời trống trải vô nghĩa khi không còn tình yêu nữa, nghĩ đến cái chết, cảm thấy đây sẽ là cái chết đầy oan nghiệt, tiếng nói thương thân xót phận của một người con gái tha thiết với tình yêu, gieo vào lòng người đọc một nỗi niềm thương cảm sâu sắc. Làm nên giá trị nhân đạo, không chỉ thể hiện sự đau đớn thương cảm với Thúy Kiều mà còn thể hiện sự băn khoăn, day dứt của Nguyễn Du trước nỗi đau của con người.

Bài tập 3: Kiều đối thoại: với Vân, với chính mình và với Kim Trọng:

1. Với Vân : nhờ cậy chấp nhận mối duyên tình và trả lễ cho chàng Kim hộ mình vì nàng đã phải chọn chữ hiếu thay cho chữ tình. Kiều mang sự biết ơn chân thành, yên tâm, thanh thản bớt nỗi day dứt trong lòng khi bội thề với Kim Trọng, tin tưởng Vân sẽ giúp mình thực hiện lời thề, giữ mối lương duyên này với Kim Trọng.

2. Với chính mình : giằng xé đầy mâu thuẫn, đau đớn tột cùng khi không trọn tình yêu và lời thề với Kim Trọng, trách thân phận, có duyên mà không có phận với chàng Kim "phận bạc như vôi" và xác định rằng cuộc đời mình sẽ là "nước chảy hoa trôi lỡ làng". 

3. Với Kim Trọng : Khát vọng tình yêu mãnh liệt với hiện thực phũ phàng, Kiều ngất đi trong hình bóng Kim Trọng Ôi Kim Lang…,  tự trách than và đau đớn, coi mình như một kẻ phụ bạc, phản bội lời thề 

Bài tập 4: Nhận xét: Mối quan hệ tình cảm – lí trí, nhân cách – thân phận, chữ tình – chữ hiếu: Kiều tha thiết với tình yêu Kim Trọng, nhưng chữ hiếu buộc nàng lựa chọn sự hi sinh tình yêu => mâu thuẫn giữa các phạm trù đạo đức phong kiến với tâm hồn con người, cũng là sự đau khổ khi nhân cách đa tình, đa cảm song hành cùng thân phận người làm con.

Phân tích đoạn trích Trao duyên Truyện Kiều

Bài tham khảo

“Truyện Kiều” không chỉ là một kiệt tác vĩ đại của nền văn học Việt Nam mà còn của toàn thế giới. Trong đó, đoạn trích nổi tiếng “Trao duyên” đã thể hiện cái nhìn hiện thực và nhân đạo của Nguyễn Du về con người, đặc biệt là đối với số phận của khách hồng nhan, số phận của Thúy Kiều. Ngoài ra, “Trao duyên” còn là tâm sự, là tiếng khóc đau thương được bật ra từ một hoàn cảnh éo le “tình chị duyên em”.

“Trao duyên” là câu chuyện đặc biệt đằng sau một hoàn cảnh đặc biệt. Sau đêm thề nguyền với Thúy Kiều, Kim Trọng phải về hộ tang chú ở Liêu Dương. Ngay lúc đó, gia đình Kiều bị thằng bán tơ vu oan, Vương Ông và Vương Quan bị hành hạ, gia sản bị cướp hết. Kiều đứng trước cảnh gia biến phải bán mình chuộc cha. Đêm trước ngày phải theo Mã Giám Sinh, Kiều cậy Thúy Vân tiếp nối mối duyên dang dở của mình với chàng Kim. 

Mở đầu đoạn trích là hình ảnh Kiều mở lời nhờ cậy Vân thay mình trả nghĩa cho Kim Trọng:

“Cậy em em có chịu lời

Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa”

Ta thấy cách sử dụng ngôn ngữ, ở đây là sử dụng động từ đã đạt tới những thành công nhất định. Từ “cậy” với thanh trắc âm điệu nặng nề gợi sự quằn quại, đau đớn, khó nói, nó trái hẳn với “nhờ”. Cậy mang hàm ý hi vọng tha thiết, có ý tựa nương, gửi gắm, van nài, tin tưởng nơi quan hệ ruột thịt. Từ “chịu” thể hiện nài ép, bắt buộc, không nhận không được. Hai động từ “lạy”, “thưa” trong câu thứ hai đã thái độ kính cẩn, trang trọng với người bề trên hoặc với người mình hàm ơn. Thúy Kiều trong vế ở trên, là chị của Thúy Vân nhưng trong cuộc “trao duyên” hoàn toàn nhận về sự thua thiệt. Chữ hiếu đè nặng lên vai và bổn phận “làm con trước phải đền ơn sinh thành” đã trở thành niềm lo lắng khôn nguôi của nàng Kiều lúc này.

Những câu thơ tiếp theo là lời trình bày đầy thuyết phục:

“Giữa đường đứt gánh tương tư,

Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em.

Kể từ khi gặp chàng Kim,

Khi ngày quạt ước khi đêm chén thề

Sự đâu sóng gió bất kì,

Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai

Ngày xuân em hãy còn dài 

Xót tình máu mủ thay lời nước non”

Rơi vào cảnh ngộ éo le, tình yêu vừa chớm nở nay phải cam chịu cảnh dở dang, đứt quãng “đứt gánh tương tư” bởi tai họa ập đến gia đình “sóng gió bất kì”. Từng nấc thang tâm trạng là từng lời giằng xé, từng ai oán thương tâm. Bên tình bên hiếu đang chờ đợi sự lựa chọn của nàng. Không thể từ bỏ cha già, em thơ, Kiều chỉ còn cách bán mình cứu cả gia đình qua cơn sóng gió. Hiểu rõ sự thiệt thòi của Thúy Vân, Kiều tha thiết van nài, trông mong ở mối quan hệ thâm tình ruột thịt để trả nghĩa cho chàng Kim. Niềm vui hẹn ước, thề nguyền xưa kia giờ chỉ còn biết nhờ tình máu mủ thay thế. Để rồi đằng sau lời lẽ đầy lí trí của một người con hiếu thảo kia là dự cảm không lành ở tương lai:

“Chị dù thịt nát xương mòn

Ngậm cười chín suốt hãy còn thơm lây”

Từ bỏ tình duyên với Kim Trọng, nàng chẳng khác nào từ bỏ đi cuộc sống của mình. Nàng nghĩ đến cái chết của chính mình, tự nhận thức về bi kịch tình yêu đang hiện hữu. 

Và càng đau đớn hơn khi các kỉ vật tình yêu vẫn còn nguyên vẹn, vẫn ấm áp hơi người, Kiều trao kỉ vật và dặn dò ở nơi em:

“Chiếc vành với bức tờ mây,

Duyên này thì giữ vật này của chung.

Dù em nên vợ nên chồng,

Xót người bạc mệnh ắt lòng chẳng quên.

Mất người còn chút của tin,

Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa”

Hoài Thanh từng viết: “Của chung là của ai? Bao nhiêu đau đớn trong hai tiếng đơn sơ!”. Rõ ràng, trong Thúy Kiều dường như có gì đó không nỡ, có gì đó lưu luyến. Đã nhờ Thúy Vân thay mình tiếp nối tình yêu với Kim Trọng nhưng kỉ vật xưa kia vẫn là “của chung”. Nàng không từ bỏ được chúng cũng như không từ bỏ được tình yêu sâu kín trong tận đáy lòng. Có cái gì đó uất nghẹn âm vang trong câu thơ bởi sự giằng xé, phân đôi xót xa giữa cái riêng với cái chung, giữa hạnh phúc với bất hạnh, giữa mất với còn, giữa tương lai và hiện tại. Kiều nhận về  mình tất cả những xót xa, những đau đớn của một đời người bạc mệnh bởi đây cũng là số phận mà nàng phải vương mang: “lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”.

Mạch tự sự của thơ tiếp tục diễn ra để thể hiện một bi kịch tình yêu:

“Mai sau dù có bao giờ

Đốt lò hương ấy so tơ phím này.

Trông ra ngọn cỏ lá cây,

Thấy hiu hiu gió thì hay chị về.

Hồn còn mang nặng lời thề,

Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai.

Dạ đài cách mặt khuất lời

Dưới xin giọt nước cho người thác oan”

Kiều tưởng tượng về cảnh ngộ của mình trong tương lai qua hình ảnh nhuốm màu tang tóc. Những “lò hương”, “ngọn cỏ lá cây”, “hiu hiu gió”, “hồn”, “thân bồ liễu”, “đền nghì trúc mai”, “dạ đài”, “giọt nước”, “người thác oan”…. gợi ra cuộc sống cõi âm lạnh lẽo. Hơn thế nữa, nhịp thơ chậm rãi, nghẹn ngào, tức tưởi như tiếng khóc não nùng cố nén lại để không bật thành lời. Kiều đang tưởng tượng đau đớn đến tột bực bởi trong lòng còn mang nặng tình cảm với chàng Kim.

Cuối cùng, sau những giờ phút gửi gắm tình duyên là lúc Kiều đối diện với thực tại và lời nhắn gửi cho “người yêu cũ”:

“Bây giờ trâm gãy gương tan

Kể sao cho xiết muôn vàn ái ân!

Trăm nghìn gửi lạy tình quân,

Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi!

Phận sau phận bạc như vôi!

Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng”

Đang đối thoại với Thúy Vân, Kiều quay sang độc thoại với chính mình. Ý thức hiện tại đầy xót xa qua hai tiếng “bây giờ”. “Bây giờ” ấy thế nào? Là “trâm gãy gương tan”, là “kể sao cho xiết muôn vàn ái ân”, là “trăm nghìn gửi lại tình quân”, là “tơ duyên ngắn ngủi”….. Còn gì đau đớn hơn, còn gì xót xa hơn! Sự trôi nổi của số phận và đứt đoạn của tình duyên đã khiến nàng gần như rơi vào cơn mê sảng. Nàng nhận hết tất cả thiệt thòi, nhận mình là người phụ bạc để gửi lại cái tạ tình tha thiết và chấp nhận đoạn trường riêng mang: “Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng”. Kiều lúc này như buông xuôi tất cả, nàng mặc cho sự xô đẩy vô tình của số phận, sự dày vò của con tạo để bật ra tiếng gọi, tiếng khóc, tiếng thét đai đớn, nghẹn ngào:

“Ôi Kim Lang! Hỡi Kim Lang!

Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!"

Tiếng gọi Kim Lang được lặp đi lặp lại vừa thiết tha trân trọng nhưng cũng đầy đau đớn tuyệt vọng. Câu thơ ngắt theo nhịp 3/3 như một tiếng nấc để rồi ở câu sau nhịp thơ trải ra như một lời than trách chính mình. Thúy Kiều đã quên đi nỗi đau của mình mà nghĩ nhiều đến người khác, đó chính là đức hy sinh cao quý mà Nguyễn Du đã ban tặng cho nàng. 

Về nghệ thuật, đoạn trích đã miêu tả tinh tế diễn biến tâm trạng nhân vật, ở đây chính là Thúy Kiều. Qua đó, chúng ta cảm nhận được tình yêu, được trách nhiệm, được sự hi sinh, được kiếp số bạc mệnh của nàng. Vừa là một người con hiếu thảo, một người yêu thủy chung, Kiều đã thực sự lấy đi biết bao nước mắt, biết bao sự đồng cảm, xót xa. Bên cạnh đó, đoạn trích đã sử dụng thành công ngôn ngữ kết hợp giữa tự sự và trữ tình và đặc biệt là ngôn ngữ độc thoại nội tâm sinh động. Việc sáng tạo các thành ngữ dân gian, sự giao thoa giữa bình dân và bác học đã khiến cho ngòi bút Nguyễn Du được hậu thế ca ngợi đời đời. 

Tóm lại, đoạn trích “Trao duyên” đã khắc họa nên bức tranh cảm động về số phận nàng Kiều, về sự giằng xé đau đớn giữa chữ hiếu và chữ tình, giữa lí trí và tình cảm. Qua đó, chúng ta càng có thêm cơ hội để nhìn nhận tài năng của Nguyễn Du, để nhìn nhận giá trị của “Truyện Kiều”, để hiểu vì sao người đời gọi đây là một hòn ngọc quý cơ hồ không thể thay đổi, thêm bớt một tí gì, như một tiếng đàn lạ gần như không một lần nào lỡ nhịp ngang cung.

Giá trị  đoạn trích Trao duyên 

1. Nội dung: Bi kịch tình yêu, thân phận bất hạnh của Thúy Kiều khi phải dứt lòng trao lại cho Thúy Vân mối tình đầu tiên.  Nhân cách cao đẹp của Kiều còn thể hiện rõ bởi sự hi sinh hạnh phúc cá nhân đổi lấy hạnh phúc và sự bình yên cho gia đình.

2. Nghệ thuật: Thể thơ lúc bát giàu nhạc tính cùng với cách ngắt nhịp đầy dụng ýtạo nên nhịp điệu của tâm trạng Kiều khi trao duyên. Biện pháp ẩn dụ, điệp từ, vận dụng nhuần nhuyễn.

Đề bài: Phân tích đoạn trích Trao duyên (Trích Truyện Kiều) của Nguyễn Du để thấy bi kịch tình yêu, thân phận bất hạnh và nhân cách cao đẹp của Thúy Kiều.

Dàn bài tham khảo

1. Mở bài

- Giới thiệu đoạn trích “Trao duyên”.

- Khái quát bi kịch tình yêu, thân phận bất hạnh và nhân cách cao đẹp của Thúy Kiều.

2. Thân bài

- Tóm tắt những sự kiện xảy ra trước đoạn trích “Trao duyên”.

- Bi kịch tình yêu của Thúy Kiều thể hiện ở việc nàng quyết định sẽ gửi chữ duyên của mình cho Thúy Vân.

  • Kiều nhờ cậy Vân, lời nhờ cậy có sắc thái khác thường (cậy, chịu lời, lạy, thưa). 
  • Kiều trao duyên cho em, nhưng lại nửa trao, nửa muốn giữ lại. Kiều đang mâu thuẫn giữa hành động và lời nói, lí trí và tình cảm. -> Kiều trao duyên chứ không muốn trao tình.

-Sau khi trao duyên cho Thúy Vân, ý thức về bi kịch tình yêu cùng thân phận bất hạnh của Thúy Kiều lúc này được bộc lộ thông qua cuộc độc thoại nội tâm đầy đau đớn

  • Dự cảm về cái chết cứ trở đi, trở lại trong tâm hồn Kiều
  • Kiều chuyển sang tự nói với bản thân mình, từ đau đớn chuyển thành tiếng khóc, khóc cho mình, khóc cho mối tình đẹp phải chia li.

- Nhân cách cao đẹp của Thúy Kiều đã được soi chiếu xuyên suốt cả đoạn trích, nàng đã nghĩ cho mọi trước, trước khi nghĩ đến bản thân.

- Nghệ thuật của đoạn thơ:

  • Miêu tả tinh tế diễn biến nội tâm nhân vật
  • Ngôn ngữ độc thoại sinh động

3. Kết bài: Khẳng định giá trị của “Truyện Kiều” trong thời đại ngày nay.

Đề bài: Bàn về thơ, có ý kiến cho rằng: “Thơ hay là thơ có sức đồng cảm mãnh liệt và quảng đại đối với con người ”. Anh/chị hiểu ý kiến trên như thế nào? Qua đoạn trích Trao duyên trong "Truyện Kiều" của Nguyễn Du hãy làm sáng tỏ.

Dàn bài tham khảo

1. Mở bài

- Trích ý kiến: “Thơ hay là thơ có sức đồng cảm mãnh liệt và quảng đại đối với con người ”.

- Giới thiệu đoạn trích “Trao duyên”.

2. Thân bài

- Giải thích ý kiến.

- Tóm tắt những sự kiện xảy ra trước đoạn trích “Trao duyên”.

- Sau một khoảng thời gian trăn trở, nàng quyết định sẽ gửi chữ duyên của mình cho Thúy Vân. -> cảm thương cho người con gái hi sinh mọi thứ vì gia đình

  • Kiều nhờ cậy Vân, lời nhờ cậy có sắc thái khác thường (cậy, chịu lời, lạy, thưa). 
  • Kiều trao duyên cho em, nhưng lại nửa trao, nửa muốn giữ lại. Kiều đang mâu thuẫn giữa hành động và lời nói, lí trí và tình cảm. -> Kiều trao duyên chứ không muốn trao tình.

- Ta lại càng đau đớn theo Thúy Kiều hơn nữa, khi Thúy Kiều bộc lộ cảm xúc thông qua cuộc độc thoại nội tâm đầy xúc động

  • Dự cảm về cái chết cứ trở đi, trở lại trong tâm hồn Kiều
  • Kiều chuyển sang tự nói với bản thân mình, từ đau đớn chuyển thành tiếng khóc, khóc cho mình, khóc cho mối tình đẹp phải chia li.

- Nhân cách cao đẹp của Thúy Kiều đã được soi chiếu xuyên suốt cả đoạn trích, nàng đã nghĩ cho mọi trước, trước khi nghĩ đến bản thân.

- Nghệ thuật của đoạn thơ:

  • Miêu tả tinh tế diễn biến nội tâm nhân vật
  • Ngôn ngữ độc thoại sinh động

3. Kết bài

Khẳng định lại tính đúng đắn của ý kiến và giá trị của Truyện Kiều.

 

Tìm kiếm google: soạn bài Trao duyên, Trao duyên ngữ văn 10 tập 2, soạn bài ngắn nhất Trao duyên.

Xem thêm các môn học

Soạn văn 10 tập 2 ngắn nhất


Đia chỉ: Tòa nhà TH Office, 90 Khuất Duy Tiến, Thanh Xuân, Hà Nội
Điện thoại hỗ trợ: Fidutech - click vào đây
Chúng tôi trên Yotube
Cùng hệ thống: baivan.net - Kenhgiaovien.com - tech12h.com