[toc:ul]
Nếu văn học Trung Quốc tự hào về nhà văn Lỗ Tấn, văn học Nga tự hào về nhà văn Macxim Gooky thì Việt Nam cũng tự hào về đại thi hào Nguyễn Du. Ông đã để lại cho nền văn học nước nhà tác phẩm văn học vô cùng nổi tiếng mang tên Truyện Kiều. Với học vấn uyên thâm cùng tài năng văn học xuất chúng, cùng những giá trị nhân đạo sâu sắc, Nguyễn Du và Truyện Kiều thực sự đã trở thành niềm tự hào của dân tộc Việt Nam.
Nguyễn Du (1765 -1820), tên chữ là Tố Như, hiệu là Thanh Hiên, quê ở làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Ông sinh ra và lớn lên trong một gia đình đại quý tộc, nhiều đời làm quan, có truyền thống văn học. Cha ông là Nguyễn Nghiễm, cũng là người giỏi văn chương. Ông thi đỗ tiến sĩ và làm quan Tể tướng. Mẹ ông là bà Trần Thị Tân, người con gái Bắc Kinh cũng văn hay chữ tốt. Anh cùng cha khác mẹ là Nguyễn Khản làm quan từ dưới thời Lê Trịnh.
Ông xuất thân danh giá nhưng cuộc đời lại nhiều nỗi đau. Năm 13 tuổi, ông mồ côi cả cha lẫn mẹ, phải sống với anh Nguyễn Khản. Khi ông 15 tuổi, Nguyễn Khản bị khép tội mưu phản, ông phải nương nhờ nhà họ hàng xa. Đặc biệt, cuộc đời ông gắn bó sâu sắc với những biến cố lịch sử giai đoạn của thế kỉ XIX – đầu thế kỉ XX - giai đoạn mà giai cấp cai trị thối nát, tham lam, không quan tâm nhân dân, họ chém giết lẫn nhau để tranh giành quyền lực.
Ông phiêu bạt nhiều nơi trong hoàm cảnh đó, đến năm 1802, Nguyễn Ánh lên ngôi, Nguyễn Du phải bất đắc dĩ làm quan. Ông được cử sang Trung Quốc hai lần nhưng lần thứ 2 vào năm 1820 chưa kịp đi thì ông bị bệnh và mất tại Huế. Tuy cuộc đời nhiều biến cố nhưng đổi lại ông có được vốn kiến thức sâu rộng cùng nỗi lòng thương cảm xót xa với số phận bi thảm của người dân. Ông là đại thi hào của dân tộc với nhiều tác phẩm có giá trị gồm ba tập thơ bằng chứ Hán gồm Thanh Hiên Thi tập, Bắc Hành tạp lục, Nam Trung tạp ngôn và tác phẩm chữ Nôm xuất sắc nhất là Truyện Kiều.
Truyện Kiều trước đó có tên là “Đoạn trường Tân Thanh”. Truyện Kiều được Nguyễn Du sáng tạo từ truyện “Kim Vân Kiều truyện” của Thanh Tâm tài nhân Trung Quốc. Tuy nhiên khác với "Đoạn trường Tân Thanh", Truyện Kiều được viết bằng thể thơ lục bát gồm 3254 câu thơ và chia thành ba giai đoạn: Gặp gỡ và đính ước, gia biệt và lưu lạc, đoàn tụ.
Truyện kể về cuộc đời của nàng Kiều. Thúy Kiều là một thiếu nữ tài sắc vẹn toàn, trưởng thành trong gia đình trung lưu lương thiện họ Vương, nhà có ba chị em: Thúy Kiều, Thúy Vân và Vương Quan. Trong một lần du xuân, Kiều gặp gỡ Kim Trọng, cả 2 đem lòng yêu nhau và âm thầm tự do đính ước. Gia đình Kim Trọng xảy ra biến cố, chú mất, Kim Trọng phải về Liêu Dương để tang chú, gia đình Kiều cũng gặp biến cố, Kiều phải bán thân chuộc cha.
Kiều bị bọn buôn mình là Mã Giám Sinh, Tú Bà, Sở Khanh lừa gạt, lưu lạc vào lầu xanh. Kiều gặp Thúc Sinh và được về àm vợ lẽ, nhưng Hoạn Thư là vợ Thúc Sinh ghen tuông, nàng bị đánh ghen. Trốn khỏi nhà Thúc Sinh và lại rơi vào tay Bạc Hà, Bạc Hạnh lưu lạc lầu xanh lần hai. Tại đây Kiều gặp Từ Hải – một anh hùng “đội trời đạp đất”.Từ Hải chuộc Kiều ra khỏi lầu xanh, giúp Kiều báo ân, báo oán. Song, Kiều lại mắc mưu Hồ Tôn Hiến, Từ Hải chết, Kiều bị ép lấy viên quan thổ quan. Vì quá nhục nhã, đau đớn, nàng gieo mình xuống sông Tiền. Sau đó, nàng được sư Giác Duyên cứu và quyêt định tu hành. Kim Trọng sau khi chịu tang xong trở lại kết duyên với Thúy Vân nhưng vẫn không quên được Kiều. Sau 15 năm lưu lạc Kiều đoàn tụ cùng gia đình và Kim Trọng nhưng quyết định không kết duyên với Kim Trọng mà trở thành tri âm tri kỉ.
Giá trị nội dung được thể hiện qua giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của tác phẩm. Truyện Kiều phản ánh hiện thực xã hội đương thời với bộ mặt tàn bạo của giai cấp thống trị. Sức mạnh của đồng tiền và số phận những con người bị áp bức, nạn nhân của đồng tiền, đặc biệt là người phụ nữ. Cuộc đời đầy nước mắt của người con gái tài sắc Thuý Kiều cũng bắt đầu từ chính sức mạnh và sự bất nhân của đồng tiền.
Truyện cũng có giá trị nhân đạo vô cùng sâu sắc. Trước hết là sự trân trọng đề cao con người từ ngoại hình, phẩm chất, tài năng khát vọng đến ước mơ và tình yêu chân chính. Đồng thời lên án, tố cáo những thế lực tàn bạo chà đạp lên quyền sống của con người.
Mặt khác Truyện Kiều còn thể hiện niềm thương cảm sâu sắc trước số phận và những khổ đau của con người, đặc biệt là người phụ nữ và trân trọng tài năng, nét đẹp của những con người tài hoa mà bạc mệnh.
Về giá trị nghệ thuật, Nguyễn Du đã bộc lộ tài hoa, sắc sảo trong nghệ thuật tự sự, miêu tả nhân vật, tả cảnh, sử dụng ngôn từ. Truyện Kiều là một kiệt tác nghệ thuật, với bút pháp của một nghệ sĩ thiên tài, tiếng Việt trong Truyện Kiều đã đạt đến độ giàu và đẹp. Với việc sử dụng ngôn ngữ kể chuyện, nghệ thuật xây dựng nhân vật, nghệ thuật miêu tả - tả cảnh ngụ tình Nguyễn Du đã tái hiện thành công bức tranh một xã hội tàn bạo bất công, chà đạp lên những con người nghèo khó, đặc biệt là người phụ nữ. Qua đó lên án các thế lực xấu xa. Đồng thời đề cao vẻ đẹp ngoại hình, tài năng cùng nhân phẩm và khát vọng chân chính của con người về tự do hạnh phúc, chân lí.
Với những thành công về nội dung và nghệ thuật như thế, Truyện Kiều đã trở thành tác phẩm tiêu biểu của đời thơ Nguyễn Du, của văn học dân tộc. Nguyễn Du và Truyện Kiều sẽ sống mãi trong lòng người đọc, sống mãi với dân tộc.
Nguyễn Du tên chữ là Tố Như, hiệu là Thanh Hiên, sinh năm Ất Dậu (1765). Quê cha của ông ở Tiên Điền, Nghi Xuân, Hà Tĩnh. Đây là một vùng đất địa linh nhân kiệt, là mảnh đất của những điệu dân ca ví dặm. Quê mẹ của đại thi hào ở Bắc Ninh- cái nôi của truyền thống dân ca quan họ, văn hóa. Nguyễn Du lại sinh trưởng tại Thăng Long- một vùng tinh kì. Như vậy, Nguyễn Du đã tiếp thu văn hóa của nhiều vùng miền khác nhau.
Nguyễn Du xuất thân trong một gia đình đại quý tộc, nhiều đời làm quan to dưới triều vua Lê, chúa Trịnh. Đó cũng là một gia đình có truyền thống yêu chuộng văn học, rất sành văn thơ Nôm, thích hát xướng. Và Nguyễn Du đã được thừa hưởng tư chất thông minh, được nuôi dưỡng trong môi trường văn hóa, văn học.
Nguyễn Du sinh ra và lớn lên trong thời đại xã hội phong kiến Việt Nam từ cuối thể kỉ XVIII đầu thế kỉ XIX. Đây là giai đoạn khủng hoảng trầm trọng, loạn lạc bốn phương, các cuộc khởi nghĩa nhân dân nổ ra và nhà Tây Sơn đã một phen thay đổi Sơn Hà. Nguyễn Du chính là nhân chứng của lịch sử trong một xã hội phong kiến khủng hoảng trầm trọng, chứng kiến thân phận con người và hiện thực mục ruỗng nên ý thức cá nhân phát triển. Bởi vậy mà thơ văn Nguyễn Du trước hết là tâm sự về cuộc đời đầy gió bụi của mình, sau đó cất tiếng bảo vệ, bênh vực cho quyền sống của con người.
Thời thơ ấu, Nguyễn Du sống ở Thăng Long, trong một gia đình quyền quý. Thế nhưng, 10 tuổi mồ côi cha và 13 tuổi mồ côi mẹ. Sau đó, ông sống nhờ nhà người anh trai là Nguyễn Khản. Vì vậy, Nguyễn Du hiểu biết về cuộc sống phong lưu, xa hoa của giới quý tộc phong kiến và có tấm lòng trắc ẩn với người ca nữ, kĩ nữ. Từ năm 1789 đến 1802, tai biến ập đến và gia đình phải li tán. Chính cuộc sống đầy khó khăn, gian khổ, mười năm sống nhờ quê vợ Thái Bình đã đem đến cho nhà thơ vốn sống thực tế phong phú, thôi thúc nhà thơ suy ngẫm về xã hội và con người đặc biệt là những người dưới đáy xã hội. Đó là cơ sở giúp nhà thơ học tập và nắm vững nghệ thuật dân gian, từ đó hình thành phong cách ngôn ngữ chữ Nôm, đặc biệt trong "Truyện Kiều". Từ sau năm 1802, Nguyễn Du từng làm quan bất đắc dĩ cho triều Nguyễn, được cử đi xứ Trung Quốc nhiều lần, được tiếp xúc với một nền văn học, một đất nước ông đã được quen qua sử sách, thơ văn. Do đó, tư tưởng về xã hội, thân phận con người được nâng lên tầm khái quát mới, mang tầm nhân loại.
Như vậy, tất cả các yếu tố trên đều là yếu tố khách quan, làm cơ sở, tiền đề. Điều quan trọng có tính chất tiên quyết là bản thân mỗi con người. Ông biết vượt qua những bi kịch trong cuộc đời bằng ý chí, nghị lực, tiếp thu tinh hoa của gia đình và Nguyễn Du dùng cả trái tim, khối óc để cảm nhận những gì đang diễn ra xung quanh mình.
Nguyễn Du là tác giả có nhiều thành tựu kiệt xuất về văn chương, ở thể loại nào ông cũng đạt được sự hoàn thiện ở trình độ cổ điển. Về thơ chữ Hán, Nguyễn Du có ba tập thơ: "Thanh Hiên thi tập", "Nam trung tạp ngâm" và "Bắc hành tạp lục". Về thơ chữ Nôm, Nguyễn Du có hai kiệt tác là "Truyện Kiều" và "Văn tế thập loại chúng sinh". Ngoài ra, ông còn có một số sáng tác đậm chất dân gian như "Văn tế sống hai cô gái Trường Lưu" và bài vè "Thác lời trai phường nón".
Và nhắc đến sự nghiệp văn học của đại thi hào thì ta không thể không nhắc tới "Truyện Kiều"- một kiệt tác văn học đã có mặt ở nhiều nước trên thế giới. Đây là truyện thơ mượn cốt truyện của một chuyện tình khổ ở Trung Quốc mà biến thành khúc ca đau lòng thương người bạc mệnh, nói lên "những điều trông thấy" trong giai đoạn lịch sử đầy biến động, cuối Lê đầu Nguyễn. Với việc sử dụng thể thơ lục bát dân tộc, tác phẩm còn có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa tự sự và trữ tình. Nguyễn Du đã lược bỏ những chi tiết về mưu mẹo, sự tàn nhẫn và một số chi tiết dung tục đồng thời đi sâu miêu tả tâm lí nhân vật như đoạn "Kiều ở lầu Ngưng Bích" hay khi Thúc Sinh từ biệt Thúy Kiều. Tác giả đã sử dụng ngôn ngữ chọn lọc, tinh tế; kết hợp ngôn ngữ bình dân và ngôn ngưc bác học, sử dụng những điển tích, điển cố. Như vậy, Nguyễn Du mượn cốt truyện của Thanh Tâm Tài Nhân là hoàn toàn phù hợp với quy luật văn học nhưng điều đáng nói là bằng tài năng của mình, Nguyễn Du đã biến một cốt truyện bình thường thành một kiệt tác.
"Truyện Kiều" là tiếng kêu thương đứt ruột cho số phận con người. Tiếng kêu thương xót ấy chủ yếu xoay quanh thân phận Thúy Kiều- một người con gái tài sắc vẹn toàn mà phải chịu nỗi đau khổ, vùi dập "thanh lâu hai lượt thanh y hai lần". Từ sự thấu hiểu, cảm thông, "Truyện Kiều" còn là tiếng hét phẫn nộ, bản cáo trạng đanh thép với các thế lực như những kẻ buôn thịt bán người, tầng lớp quan lại phong kiến và thế lực đồng tiền... Từ đó mà những áng thơ này đã cất lên giấc mơ về một tình yêu tự do, là bài ca về ước mơ công lí trong xã hội.
Để làm nên tầm vóc của một đại thi hào, một danh nhân văn hóa thế giới là do nhiều yếu tố nhưng điều quan trọng nhất là nhờ cái Tài và cái Tâm của người nghệ sĩ. Và kiệt tác "Truyện Kiều" sẽ cớ sức sống đến mãi mãi bởi những giá trị nội dung và nghệ thuật đặc sắc.
Nguyễn Du là một đại thi hào dân tộc, một danh nhân văn hóa thế giới, một nhà nhân đạo lỗi lạc có “con mắt nhìn thấu sáu cõi” và “tấm lòng nghĩ suốt ngàn đời” (Mộng Liên Đường chủ nhân).
Nguyễn Du, tên chữ là Tố Như, tên hiệu là Thanh Hiên, quê ở làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Ông sinh năm 1765 (Ât Dậu) trong một gia đình có nhiều đời và nhiều người làm quan to dưới triều Lê, Trịnh. Cha là Nguyễn Nghiễm từng giữ chức Tể tướng 15 năm. Mẹ là Trần Thị Tần, một người phụ nữ Kinh Bắc có tài xướng ca.
Quê hương Nguyễn Du là vùng đất địa linh, nhân kiệt, hiếu học và trọng tài. Gia đình Nguyễn Du có truyền thống học vấn uyên bác, có nhiều tài năng văn học. Gia đình và quê hương chính là “mảnh đất phì nhiêu” nuôi dưỡng thiên tài Nguyễn Du.
Thời thơ ấu, Nguyễn Du sống trong nhung lụa. Lên 10 tuổi lần lượt mồ côi cả cha lẫn mẹ, cuộc đời Nguyễn Du bắt đầu gặp những sóng gió trong cơn quốc biến ba đào: sống nhờ Nguyễn Khản (anh cùng cha khác mẹ làm Thừa tướng phủ chúa Trịnh) thì Nguyễn Khản bị giam, bị Kiêu binh phá nhà phải chạy trốn. Năm 19 tuổi, Nguyễn Du thi đỗ tam trường rồi làm một chức quan vô tận Thái Nguyên. Chẳng bao lâu nhà Lê sụp đổ (1789) Nguyễn Du lánh về quê vợ ở Thái Bình rồi vợ mất, ông lại về quê cha, có lúc lên Bắc Ninh quê mẹ, nhiều nhất là thời gian ông sống không nhà ở kinh thành Thăng Long.
Hơn mười năm chìm nổi long đong ngoài đất Bắc, Nguyễn Du sống gần gũi nhân dân và thấm thìa biết bao nỗi ấm lạnh kiếp người, đặc biệt là người dân lao động, phụ nữ, trẻ em, cầm ca, ăn mày… những con người “dưới đáy”. Chính nỗi bất hạnh lớn trong cuộc đời đã hun đúc nên thiên tài Nguyễn Du – nhà nhân đạo chủ nghĩa lớn.
Miễn cưỡng trước lời mời của nhà Nguyễn, Nguyễn Du ra làm quan. Năm 1813 được thăng chức Học sĩ điện cần Chánh và được cử làm Chánh sứ đi Trung Quốc. Năm 1820, ông lại được cử đi lần thứ hai nhưng chưa kịp đi thì mất đột ngột ngày 10 tháng 8 năm Canh Thìn (18-9-1820). Suốt thời gian làm quan cho nhà Nguyễn, Nguyễn Du sống trầm lặng, ít nói, có nhiều tâm sự không biết tỏ cùng ai.
Tư tường Nguyễn Du khá phức tạp và có những mâu thuẫn: trung thành với nhà Lê, không hợp tác với nhà Tây Sơn, bất đắc dĩ làm quan cho nhà Nguyễn. Ông là một người có lí tưởng, có hoài bão nhưng trước cuộc đời gió bụi lại buồn chán, Nguyễn Du coi mọi chuyện (tu Phật, tu tiên, đi câu, đi săn. hành lạc…) đều là chuyện hão nhưng lại rơi lệ đoạn trương trước những cuộc bể dâu. Nguyễn Du đã đứng giữa giông tố cuộc đời trong một giai đoạn lịch sử đầy bi kịch. Đó là bi kịch của đời ông nhưng chính điều đó lại khiến tác phẩm của ông chứa đựng chiều sâu chưa từng có trong thơ văn Việt Nam.
Nguyễn Du có ba tập thơ chữ Hán là: Thanh Hiên thi tập, Nam trung tạp ngâm và Bắc hành tạp lục, tổng cộng 250 bài thơ Nôm, Nguyễn Du có kiệt tác Đoạn trường tân thanh (Truyện Kiều), Văn tế thập loại chúng sinh (Văn chiêu hồn) và một số sáng tác đậm chất dân gian như Văn tế sống hai cô gái Trường Lưu; vè Thác lèn trai phường nón.
Mở đầu Truyện Kiều, Nguyễn Du tâm sự:
“Trải qua một cuộc bể dâu
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng”.
Chính “những điều trông thấy" khiến tác phẩm của Nguyễn Du có khuynh hướng hiện thực sâu sắc. Còn nỗi “đau đớn lòng” đã khiến Nguyễn Du trở thành một nhà thơ nhân đạo lỗi lạc.
Nguyễn Du là nhà thơ “đứng trong lao khổ, mở hồn ra đón lấy tất cả ĩ hăng vang động của đời” (Nam Cao). Thơ chữ Hán của Thanh Hiên giống hửng trang nhật kí đời sống, nhật kí tâm hồn vậy. Nào là cảnh sống lây it, nào là ốm đau, bệnh tật cho đến cảnh thực tại của lịch sử… đều được Nguyễn Du ghi lại một cách chân thực (Đêm thu: Tình cờ làm thơ; Ngồi dèm…). Nguyễn Du vạch ra sự đối lập giữa giàu – nghèo trong Sở kiến hành hay Thái Bình mại giả ca… Nguyễn Du chống lại việc gọi hồn Khuất Nguyên về nước Sở của Tống Ngọc là bởi nước Sở “cát bụi lầm cả áo người” toàn bọ "vuốt nanh”, “nọc độc”, “xé thịt người nhai ngọt xớt”… Nước Sở của Khuất Nguyên hay nước Việt của Tố Như cũng chỉ là một hiện thực: cái ác hoành hành khắp nơi, người tốt không chốn dung thân. Truyện Kiều mượn bôi cảnh đời Minh (Trung Quốc) nhưng trước hết là bản cáo trạng đanh thép ghi lại “những điều trông thấy” của Nguyễn Du về thời đại nhà thơ đang sống. Phản ánh với thái độ phê phán quyết liệt, đó là khuynh hướng hiện thực sâu sắc trong sáng tác của Nguyễn Du.
Sáng tác của Nguyễn Du bao trùm tư tưởng nhân đạo, trước hết và trên hết là niềm quan tâm sâu sắc tới thân phận con người. Truyện Kiều không chỉ là bản cáo trạng mà còn là khúc ca tình yêu tự do trong sáng, là giấc mơ tự do công lí “tháo cũi sổ lồng”. Nhưng toàn bộ Truyện Kiều chủ yếu là tiếng khóc xé ruột cho thân phận và nhân phẩm con người bị chà đạp, đặc biệt là người phụ nữ.
“Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”
Không chỉ Truyện Kiều mà hầu hết các sáng tác của Nguyễn Du đều bao trùm cảm hứng xót thương, đau đớn: từ Đọc Tiểu Thanh kí đến Người ca nữ đất Long Thành, từ Sờ kiến hành đến Văn té thập loại chúng sinh… thậm chí Nguyễn Du còn vượt cả cột mốc biên giới, vượt cả ranh giới ta – địch và vượt cả sự cách trở âm dương để xót thương cho những kẻ chết trận, phơi “xương trắng” nơi “quỉ môn quan”.
Không chỉ xót thương, Nguyễn Du còn trân trọng, ca ngợi vẻ đẹp, cùng những khát vọng sống, khát vọng tình yêu hạnh phúc. Tư tưởng nhân đạo của Nguyễn Du đã vượt qua một số ràng buộc của ý thức hệ phong kiến và tôn giáo để vươn tới khẳng định giá trị tự thân của con người. Đó là tư tưởng sâu sắc nhất mà ông đem lại cho văn học Việt Nam trong thời đại ông.
Nguyễn Du đã đóng góp lớn về mặt tư tưởng, đồng thời có những đóng góp quan trọng về mặt nghệ thuật.
Thơ chữ Hán của Nguyễn Du giản dị mà tinh luyện, tài hoa. Thơ Nôm Nguyễn Du thực sự là đỉnh cao rực rỡ. Nguyễn Du sử dụng một cách tài tình hai thể thơ dân tộc: lục bát (Truyện Kiều) và song thất lục bát (Văn tế thập loại chúng sinh). Đến Nguyễn Du, thơ lục bát và song thất lục bát đã đạt đến trình độ hoàn hảo, mẫu mực, cổ điển.
Nguyễn Du đóng góp rất lớn, rất quan trọng cho sự phát triển giàu đẹp của ngôn ngữ văn học Tiếng Việt: tỉ lệ từ Hán – Việt giảm hẳn, câu thơ tiếng Việt vừa thông tục, vừa trang nhã, diễm lệ nhờ vần luật chỉnh tề, ngắt nhịp đa dạng, tiểu đối phong phú, biến hóa. Thơ Nguyễn Du xứng đáng là đỉnh cao của tiếng Việt văn học Trung Đại. Đặc biệt Truyện Kiều cùa Nguyễn Du là “tập đại thành” về ngôn ngữ văn học dân tộc.
Xin được mượn những câu thơ của nhà thơ Tố Hữu tri âm cùng Tố Như để thay cho lời kết:
“Tiếng thơ ai động đất trời
Nghe như non nước vọng lời ngàn thu
Nghìn năm sau nhớ Nguyễn Du
Tiếng thương như tiếng mẹ ru những ngày”.
Nhà phê bình Hoài Thanh từng nhận xét về tác gia Nguyễn Du và “ Truyện Kiều”: “ Tuy Nguyễn Du đã sáng tạo nhân vật Thúy Kiều nhưng Kiều lại có thật với Nguyễn Du, Nguyễn Du đã sống rất lâu trong tâm tình của Kiều, đã nhập vào Kiều làm một”, giúp ta thấy tuyệt tác “ Truyện Kiều” ghi dấu tâm huyết, tài năng của thi nhân.
Đại thi hào Nguyễn Du tên hiệu là Thanh Hiên, tên chữ là Tố Như. Ông xuất thân trong một gia đình đại quý tộc, giàu truyền thống khoa bảng. Cơn lốc lịch sử đạp đổ lầu son gác tía đẩy ông vào cuộc sống lay lắt, tha hương suốt mười lăm năm trời. Cuộc sống đó bóp nghẹt lí tưởng nhất quán khiến ông sống giữa cuộc đời như những người dân thường. Con người thanh liêm, sống thầm lặng, khinh bỉ quan lại chỉ biết lo vinh hoa phú quý, không lo gì đến việc dân, việc nước, nay lại trực tiếp chứng kiến nỗi khổ của nhân dân nên ông có con mắt nhìn đời thông suốt sáu cõi. Những va đập cuộc đời khiến thi sĩ đồng cảm sâu xa với mọi kiếp người đày đọa, tạo nên chiều sâu tư tưởng tác phẩm “ Truyện Kiều” sau này. Vốn hiểu biết uyên bác làm cơ sở để tuyệt tác “ Truyện Kiều” trở thành một viên ngọc sáng trong văn học Việt Nam về giá trị nghệ thuật.
Mộng Liên Đường cho rằng: “ Những lời văn tả ra hình như có máu chảy ở đầu ngọn bút, nước mắt thấm ở trên tờ giấy, khiến ai đọc cũng phải thấm thía, ngậm ngùi, đau đớn như đứt ruột”. Tác phẩm ban đầu mang tên “ Đoạn trường tân thanh” nhưng nhân dân gọi là “ Truyện Kiều”. Áng truyện thơ lấy nội dung từ tiểu thuyết “ Kim Vân Kiều truyện” nhưng những sáng tạo của đại thi hào là rất lớn. Câu chuyện nói về mười lăm năm lưu lạc, tủi nhục của nàng Kiều sau khi gia biến, bán mình chuộc cha và em. Chủ nghĩa nhân đạo cao đẹp của Nguyễn Du biến một câu chuyện tình khổ thành khúc ca đớn đau, tri âm với kẻ bạc mệnh, nhứng điều mắt thấy tai nghe trong xã hội bấy giờ cũng đi vào trang viết của thi sĩ. “ Truyện Kiều” ngợi ca tình yêu tự do và ước mơ công lí. Mối tình Kim- Kiều dám vượt lên những ràng buộc của lễ giáo phong kiến khắc khe để thề nguyền cùng nhau, rung động đầu đời trong sáng, chân tình không chút vụ lợi. Hình ảnh nàng Kiều:
“ Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình”
Còn khiến mỗi chúng ta ngạc nhiên bởi Nguyễn Du khuyến khích tinh thần chủ động ấy. Giữa phường gian trá, thi nhân khắc họa nhân vật Từ Hải không chỉ thể hiện ước nguyện xã hội công lí mà nhân vật phần nào phản ánh lí tưởng của thi sĩ từng bị giam hãm . Từ Hải là ngôi sao sáng bang qua cuộc đời Kiều, giúp nàng thực hiện màn báo ân, báo oán thích đáng. Đọc “ Truyện Kiều” như vọng lại tiếng khóc đau thương cho thân phận con người. Nguyễn Du từng nói:
“ Cổ kim hận sự thiên nan vấn
Phong vận kì oan ngã tự cư”
Người cho rằng: “ Chữ tài liền với chữ tai một vần” nên xoay quanh đời Kiều- người con gái tài hoa luôn phải gánh chịu bao giông tố. Tiếng khóc xót xa cho mối tình đằm thắm Kim- Kiều “ đứt gánh tương tư”, mối tình tri kỉ của Từ Hải và nàng Kiều. Giọt nước mắt đắng chat khi nhân phẩm bị chà đạp, thân xác con người bị đánh đập tàn nhẫn. Sâu xa hơn, tiếng kêu khóc vang lên đòi quyền sống cho con người trong nỗi đau nhân thế. Nguyễn Đình Thi nhận định: “ “ Truyện Kiều” là ngọn roi sắt quất thẳng vào những sự bất công, độc ác, dối trá…”, có thể xem thi phẩm là bản cáo trạng đanh thép vạch trần sự mục ruỗng, thối nát của xã hội bấy giờ. Mọi tầng lớp đều bỉ ôi bị thế lực đồng tiền chi phối từ thằng bán tơ, lũ buôn thịt bán người như Tú Bà, Bạc Bà, Bạc Hạnh, chức quan Hồ Tôn Hiến…Nguyễn Du bóc trần nhìn thẳng vào thực trạng, gọi tên những kẻ chà đạp lên quyền sống con người.
“ Truyện Kiều” có sức sống trường tồn còn bởi những giá trị nghệ thuật đặc sắc. Với học vấn uyên thâm, Nguyễn Du thành công xây dựng nhân vật sinh động, cá tính. Nàng Kiều không phải nhân vật minh họa mà nàng có đời sống nội tâm, lí tưởng cao đẹp của Từ Hải cũng được khắc tạc. Với thể thơ lục bát giàu truyền thống, đại thi hào biến một tiểu thuyết thành thơ vừa mộc mạc vừa trang nhã, cổ điển. Điểm nhìn trần thuật của tác giả cũng thay đổi linh hoạt, đặt vào từng nhân vật, khiến tác phẩm không khô khan. Ngôn ngữ trong “ Truyện Kiều” có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa ngôn từ bác học và dân gian tạo nên sức biểu cảm, sự trong sáng.
Nhắc đến đại thi hào Nguyễn Du, ta không thể không nhớ tới áng thiên cổ kì bút “ Truyện Kiều”. Ở đó hội tụ tất cả cái tài, tấm lòng và tầm vóc của thi nhân. Những giá trị đích thực của tác phẩm còn bất tử với nền văn học Việt Nam.
“Đời nay đẹp gấp trăm lần thuở trước
Giở trang Kiều còn rung động ý thơ
Thơ Người mãi sống cùng đất nước
Dù mai sau dù có bao giờ”
(Thăm mộ cụ Nguyễn Du - Hoàng Trung Thông)
Trên nền văn học Việt Nam, Nguyễn Du được xem như một trong những ngôi sao sáng nhất. Bằng ngòi bút tài hoa, trái tim đa cảm cùng ánh mắt “trông thấu cả sáu cõi” của mình, ông đã để lại một sự nghiệp văn học có giá trị to lớn, đặc biệt nhất phải kể đến Truyện Kiều, tác phẩm kiệt xuất của văn học Việt Nam.
Nguyễn Du (1766 - 1820), tên tự là Tố Như, hiệu là Thanh Hiên, quê ở làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Ông xuất thân trong một gia đình đại quý tộc nổi tiếng về đường khoa hoạn, có nhiều người đỗ đạt cao và làm quan to trong triều đình. Thế nên, ở vùng Hồng Lĩnh (quê Nguyễn Du), nhân dân thường truyền tụng nhau câu ca dao:
“Bao giờ Ngàn Hống hết cay
Sông Rum hết nước họ này hết quan”
Ngoài ra, gia đình Nguyễn Du cũng có truyền thống lâu đời về văn học nghệ thuật. Ông nội là Nguyễn Quỳnh, một nhà triết học chuyên nghiên cứu Kinh dịch. Cha là Nguyễn Nghiễm, một sử gia, một nhà thơ đồng thời là quan tể tướng của triều Lê. Mẹ ông là Trần Thị Tần (vợ thứ ba của Nguyễn Nghiễm), một phụ nữ xinh đẹp, tài hoa và giỏi nghề hát xướng, xuất thân từ làng quan họ Bắc Ninh. Chính vì vậy, từ thuở bé, Nguyễn Du đã được đắm mình trong những làn điệu dân ca phía Bắc. Nguyễn Khản, anh cùng cha khác mẹ với Nguyễn Du, giữ một chức quan to ở phủ Chúa Trịnh. Ông giỏi thơ Nôm, ưa soạn nhạc và thạo cả nghệ thuật xây dựng trang trí. Vì có niềm đam mê đặc biệt với đàn ca hát xướng nên trong phú Nguyễn Khản lúc nào cũng có các nàng ca kĩ, đoàn hát ả đào trình diễn suốt ngày đêm. Chắc có lẽ bắt đầu từ đây, hình ảnh người kĩ nữ xinh đẹp, tài hoa nhưng bạc mệnh đã trở thành chân dung khắc sâu sắc trong tâm trí Nguyễn Du.
Nguyễn Hành, Nguyễn Thiện, những người cháu của Nguyễn Du cũng là những nhà thơ, nhà văn nổi tiếng lúc bấy giờ. Trong “An Nam ngũ tuyệt” được ca ngợi thời bấy giờ thì Nguyễn Du và Nguyễn Hành là hai cái tên góp mặt trong số đó.
Nguyễn Du là người thông minh, học rộng, hiểu nhiều nhưng cuộc đời lại gặp nhiều biến cố. Từ lúc sinh ra đến mười tuổi, ông sống sung túc với gia đình, đến mười một tuổi cha mất, tiếp đó hai năm sau mẹ mất, cuộc sống của ông bắt đầu cực khổ, trôi dạt khắp nơi: có lúc ở nhà anh là Nguyễn Khản, có khi lại nương tựa anh vợ là Đoàn Nguyễn Tuấn, có khi làm con nuôi cho quan họ Hà.
Sống và trưởng thành trong một giai đoạn lịch sử và xã hội đầy biến thiên, chàng trai trẻ Nguyễn Du dẫu tài hoa vẫn bị cuốn vào sự “xoay vần của con tạo”. Khi làn sóng Tây Sơn bùng nổ, bởi tư tưởng trung quân nên ông lui vềởẩn sau khi phản kháng không thành. Đến khi triều Nguyễn thành lập, Nguyễn Du ra làm quan nhưng lòng vẫn day dứt, trăn trở trước cuộc đời, trước “những điều trông thấy”.
Nguyễn Du mất vào ngày mồng 10 tháng 8 âm lịch (tức 16 tháng 9 năm Canh Thìn - 1820).
Nguyễn Du là người tài hoa uyên bác, thông hiểu cả đạo Nho, Phật, Đạo. Điều đó được thể hiện rõ qua các sáng tác văn, thơ bằng cả chữ Hán và chữ Nôm của ông.
Suốt cả đời cầm bút, tuy để lại số lượng tác phẩm văn chương không nhiều, nhưng tác phẩm nào, Nguyễn Du cũng để lại dấu ấn đặc biệt trong lòng độc giả. Về chữ Hán, ông có ba tập thơ: Thanh Hiên thi tập, Nam trung tạp ngâm, Bắc hành tạp lục (Ghi chép linh tinh trong chuyến đi sang phương Bắc). Về chữ Nôm, những tác phẩm tiêu biểu nhất gồm: Đoạn trường tân thanh (tên Truyện Kiều là do quần chúng đặt cho tác phẩm), Văn chiêu hồn (Văn tế thập loại chúng sinh), Sinh tế Trường Lưu nhị nữ, Thác lời trai phường nón,...
Truyện Kiều (chữ Nôm: 傳翹), tên gốc là Đoạn trường tân thanh (chữ Hán: 斷腸新聲), là truyện thơ kinh điển trong Văn học Việt Nam, được viết bằng chữ Nôm theo thể lục bát của Nguyễn Du, gồm 3254 câu, dựa theo tiểu thuyết Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân, Trung Quốc.
Nội dung của Truyện Kiều được chia làm ba phần: Gặp gỡ và đính ước, gia biến và lưu lạc, đoàn tụ.
Thúy Kiều là một người con gái tài sắc vẹn toàn, con gái đầu lòng trong một gia đình trung lưu lương thiện. Trong buổi đi chơi xuân, Thúy Kiều đã gặp Kim Trọng, một người thư sinh “phong tư tài mạo tót vời”. Giữa hai người chớm nở một mối tình đẹp đẽ, sau đó hai người đã đính ước với nhau.
Khi Kim Trọng về quê chịu tang chú, gia đình Thúy Kiều bị mắc oan bởi thằng bán tơ. Nàng đã quyết định bán mình cho Mã Giám Sinh để lấy tiền chuộc cha và Vương Quan, đồng thời nhờ Thúy Vân trả nghĩa cho Kim Trọng. Thúy Kiều bị Mã Giám Sinh, Tú Bà, Sở Khanh lừa gạt, đẩy vào lầu xanh. Sau đó Thúy Kiều được Thúc Sinh chuộc ra nhưng vợ của Thúc Sinh là Hoạn Thư là người ghen tuông tàn nhẫn, Thúy Kiều bị đày đọa cả về thể xác và tinh thần. Kiều trốn đến nương nhờ Sư Giác Duyên ở nơi cửa Phật. Giác Duyên gửi nàng cho Bạc Bà, không ngờ Bạc Bà “học với Tú Bà đồng môn”.Ở đây, Thúy Kiều gặp Từ Hải, hai người trở thành tri âm tri kỷ, Từ Hải đã giúp Thúy Kiều báo ân báo oán. Do mắc lừa Hồ Tôn Hiến, Từ Hải bị giết, Thúy Kiều bị ép gả cho viên thổ quan. Thúy Kiều đau đớn trầm mình xuống sông Tiền Đường và được sư Giác Duyên cứu lần hai. Lần thứ hai, Kiều nương nhờ nơi cửa Phật.
Kim Trọng sau nửa năm chịu tang chú đã trở lại tìm Kiều, biết Kiều bán mình cứu cha thì đau lòng khôn nguôi. Theo lời dặn của Kiều, cha mẹ Kiều cho Thuý Vân kết duyên với Kim Trọng. Dù kết duyên với Thúy Vân nhưng Kim Trọng vẫn lưu luyến mối tình với Kiều, sau nhiều lần tìm và hỏi thăm khắp nơi thì cuối cùng mọi người gặp được Thúy Kiều, gia đình Kiều được đoàn tụ. Trong ngày đoàn viên, Thúy Vân lên tiếng muốn Kim Kiều tái hợp, nhưng Kiều muốn “đem tình cầm sắt đổi ra cầm cờ”. Cuối cùng cả hai nguyện ước “duyên đôi lứa cũng là duyên bạn bầy”.
Truyện Kiều được đánh giá là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của văn học trung đại Việt Nam. Giá trị của tác phẩm được thể hiện trên cả hai phương diện nội dung và nghệ thuật.
Về nội dung, tác phẩm mang tính hiện thực và nhân đạo sâu sắc. Truyện Kiều đã vẽ nên một bức tranh hiện thực đầy sống động về một xã hội đương thời nơi đồng tiền lên ngôi và nhân phẩm con người, đặc biệt là người phụ nữ bị chà đạp.
Bên cạnh đó Truyện Kiều còn mang đậm giá trị nhân đạo khi lên án, tố cáo những thế lực tàn bạo đã chà đạp lên quyền sống của con người. Từ một cô tiểu thư khuê các, Kiều trở thành hàng hoá để cho người ta mua bán, rồi rơi vào lầu xanh tới hai lần. Cuộc đời Thuý Kiều là một bản cáo trạng đanh thép tố cáo xã hội phong kiến bất nhân, xã hội đẩy con người, đặc biệt là người phụ nữ đến bước đường cùng. Dù vậy, trong bức tranh hiện thực đen tối ấy vẫn sáng lên vẻ đẹp của nhân cách con người. Đó là Thúy Kiều “gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”, là Kim Trọng thủy chung, tình nghĩa, là Từ Hải hào hiệp,.... Thông qua câu chuyện và nhân vật của họ, Nguyễn Du gửi gắm khát vọng hạnh phúc, khát vọng tự do của bản thân mình. Mặc khác, Truyện Kiều còn thể hiện sự đồng cảm, xót thương của chính tác giả đối với số phận con người, đặc biệt là người phụ nữ trong xã hội đương thời.
Về nghệ thuật, có thể nói, bút pháp tả cảnh ngụ tình, miêu tả tâm lý nhân vật, nghệ thuật tự sự,.... đã đạt tới đỉnh cao. Với bút pháp của một nghệ sĩ thiên tài, tiếng Việt trong Truyện Kiều đã đạt đến độ giàu và đẹp. Chính vì vậy, rất nhiều câu thơ trở thành mẫu mực được nhiều nhà thơ học tập và đông đảo độc giả yêu mến.
Hàng trăm năm qua, Truyện Kiều vẫn luôn tồn tại trong đời sống của dân tộc Việt, một số nhân vật trong truyện trở thành nhân vật điển hình, như: Sở Khanh, Tú bà,... Nhận xét về Nguyễn Du và Truyện Kiều, tác giả Mộng Liên Đường trong lời tựa Truyện Kiều đã viết: “Lời văn tả ra hình như máu chảy ở đầu ngọn bút, nước mắt thấm tờ giấy, khiến ai đọc đến cũng phải thấm thía, ngậm ngùi, đau đớn đến đứt ruột. Tố Như sử dụng tâm đã khổ, tự sự đã khéo, tả cảnh cũng hệt, đàm tình đã thiết, nếu không có con mắt trông thấu cả sáu cõi, tấm lòng nghĩ suốt cả nghìn đời thì tài nào có cái bút lực ấy”