Cảm nghĩ của anh (chị) về giá trị hiện thực sâu sắc của đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh (trích Thượng kinh kí sự của Lê Hữu Trác)

Cảm nghĩ của anh (chị) về giá trị hiện thực sâu sắc của đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh (trích Thượng kinh kí sự của Lê Hữu Trác)

[toc:ul]

Bài mẫu 1: Cảm nghĩ của anh (chị) về giá trị hiện thực sâu sắc của đoạn trích Vào phủ...

Đặt trong thế so sánh với những danh y cũng được vời vào cung chữa bệnh cho thế tử, ông không hề nhỏ bé, trái lại càng làm cho nhân cách và tài năng của ông được nâng cao hơn so với họ. Đồng thời, cũng nêu bật lên một hiện thực nhức nhối tồn tại trong phủ Chúa lúc bấy giờ, chính là những kẻ bất tài, hám lợi, ăn bám trở thành một hệ thống đông đảo.

Bài làm

Lê Hữu Trác được người đời nhắc tới với danh xưng Hải Thượng Lãn Ông như một cách để khẳng định thái độ coi thường danh lợi, vinh hoa phú quý của ông. Đồng thời đó cũng là cái tên thể hiện sự trân trọng của người đời với người thầy thuốc giỏi, có lương y, có đạo đức Lê Hữu Trác. Thượng kinh kí sự là tập kí sự bằng chữ Há, hoàn thành năm 1783, nằm ở cuối bộ Hải Thượng y tông tâm lĩnh như một quyển phụ lục. Đây cũng là cuốn sách miêu tả chân thực quang cảnh ở kinh đô, cuộc sống sa hoa trong phủ chúa Trịnh và quyền uy, thế lực của nhà chúa - những điều Lê Hữu Trác mắt thấy tai nghe trong chuyến đi từ Hương Sơn ra đến Thăng Long để chữa bệnh cho thế tử Trịnh Cán và chúa Trịnh Sâm. Đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh nói về việc Lê Hữu Trác lên tới kinh đô, được dẫn vào phủ chúa dể bắt mạch, kê đơn cho Trịnh Cán. Đây được xem như bức tranh sống động về hiện thực cuộc sống sa hoa, quyền uy của nhà Chúa được Lê Hữu Trác khắc họa khéo léo, tỉ mỉ và trung thực qua những trang viết. Và đó cũng chính là những nhân tố làm nên giá trị hiện thực sâu sắc của tác phẩm này.

Giá trị hiện thực của tác phẩm trước hết hiện lên ở khung cảnh cuộc sống sa hoa, quyền quý của chúa Trịnh và tầng lớp quan lại, quý tộc. Khi vào phủ Chúa phải đi qua nhiều lần cửa với những hành lang quanh co nối tiếp nhau. Ở mỗi cửa đều có vệ sĩ canh gác. Khuôn viên phủ Chúa rộng. Chỉ đi một lúc mà đã có tới mấy trạm dừng chân. Mỗi trạm, mỗi cửa đều được đặt tên riêng và cũng có chức năng của riêng nó. Kiến trúc trong phủ thật kiểu cách, cảnh trí thiên nhiên kì lạ, thú vị. Trong vườn, chim kêu ríu rít, danh hoa đua thắm, gió đưa thoang thoảng mùi hương. Bên trong là Đại đường, gác tía với kiệu son, võng điều. Đặc biệt hơn nữa, mọi đồ dùng của Chúa đều được sơn son thiếp vàng. Đồ dùng tiếp khách ăn uống của là mâm vàng, chén bạc, món ăn cũng là những của ngon vật lạ hiếm thấy ở ngoài. Khi được đưa tới nội cung của thế tử, Lê Hữu Trác được quan Chánh đường dắt qua sáu lần trướng mới đến được nơi. Đó là một căn phòng sang trọng với sập thiếp vàng ở giữa phòng bên cạnh là ghế rồng sơn son thiếp vàng bày nệm ấm, xung quanh lấp lánh, hương hoa ngào ngạt. Chỉ bằng một vài nét vẽ và chi tiết ấy, Lê Hữu Trác đã phác họa đầy ấn tượng cuộc sống giàu sang, phú quý, sa hoa ở phủ Chúa. Sự bày trí, lối kiến trúc sa hoa ấy hoàn toàn đối lập với sự nghéo đói, thiếu thốn, khổ cực của nhân dân ở ngoài kia. Khung cảnh ấy được khắc họa bằng giọng kể khách quan đan xen với thái độ ngạc nhiên và sự phê phán kín đáo chúa Trịnh. Bởi bản thân ông cũng được sinh ra trong một gia đình quan lại, giàu có, cũng được sống trong nhung lụa, gấm vóc với cuộc sống giàu sang nhưng chứng kiến khung cảnh ở phủ Chúa ông vẫn thấy hết sức ngạc nhiên. Nhưng nhiều hơn là sự không đồng tình và chán ghét. Nỗi niềm ấy đã được thể hiện rất rõ qua bài thơ ngẫu nhiên thốt ra để ghi nhớ sự kiện được vào phủ Chúa của Lê Hữu Trác:

“...Quê mùa, cung cấm chưa quen

Khác gì ngư phủ đào nguyên thuở nào...”

Giá trị hiện thực còn được thể hiện qua bộ máy quan lại với guồng máy phục vụ đông đúc, tấp nập cùng những nghi lễ kì lạ, sự kiểm soát nghiêm ngặt từ cổng vào cho tới những phép tắc, quy củ trong các đi đứng, chào hỏi và cả với việc khám bệnh cho thế tử nữa. Lê Hữu Trác dù đã lên kinh thành ít lâu song vẫn phải ở gần phủ để chờ lệnh Chúa. Khi được triệu hồi, khăn mũ phải chính tề, không được phép đi cửa trước mà phải đi theo cửa sau vào. Người làm trong phủ Chúa nhiều không kể siết, người có việc quan qua lại như mắc cửi. Vệ sĩ đứng canh cửa cung, ai muốn ra vào phải có thẻ. Qua mỗi một lần cửa, lại có thị vệ kiểm tra, chặn không cho ông vào, chỉ khi được quan Chánh đường lên tiếng, những tay thị vệ ấy mới cho ông đi qua. Ông được đưa tới một căn phòng, được gọi là “phòng trà” - nơi thế tử sẽ dùng thuốc, đã có bảy tám người đều là ngự y giỏi được gọi vào chăm sóc cho thế tử. Họ phải ngồi chờ tới lượt mình chữa chứ không phải tùy tiện, muốn thế nào là được thế ấy. Có lẽ người đọc ấn tượng nhất về những quy củ, nguyên tắc cứng ngắc, ngặt nghèo trong phủ Chúa chính là những lễ nghi mà người thầy thuốc phải thi hành với thế tử. Lê Hữu Trác được dắt tới nội cung của thế tử Trịnh Cán. Cả trước và sau khi khám bệnh, ông đều phải vái lạy, khi có chỉ thị của thế tử, ông mới được phép chạm vào người và bắt mạch cho. Dù đã dâng lên phương thuốc và cách thức để chữa dút điểm bệnh cho thế tử, song viên quan Chánh đường cũng những vị danh y ngồi đó đều cảm thấy kì quái và không hài lòng với bài thuốc mà ông đưa tới. Phải chăng, cách chữa của Lê Hữu Trác quá dân dã, đơn giản nên họ không tin tưởng vào tay nghề y thuật của ông? Thế nhưng, dù thế nào thì người thầy thuốc ấy cũng đã vượt qua cái suy nghĩ cá nhân hẹp hòi, vẫn không để danh lợi cuốn lấy chân và vẫn không làm trái với lương tâm của một người thầy thuốc.

Cuối cùng, giá trị hiện thực trong tác phẩm được thể hiện qua chính cuộc sống ăn chơi, trụy lạc, sa đọa của cha con chúa Trịnh Sâm, Trịnh Cán. Chúa Trịnh Sâm đã nổi tiếng về lối sống sa đọa của mình khắp chốn gần xa. Mức độ hoang dâm, mu muội, nhu nhược của Chúa Trịnh Sâm khiến cho phi tần Đặng Thị Huệ đè đầu, dắt mũi sai khiến Chúa. Gia đình thị cũng nhờ thế mà hống hách, kiêu ngạo được thể ức hiếp dân lành. Chúa Trịnh Sâm cũng là một trong những vị Chúa ham mê tửu sắc nhất trong các vị Chúa với hơn 400 phi tần chỉ chăm lo việc hầu hạ. Còn với thế tử Trịnh Cán - con trai của thị Huệ và chúa Trịnh Sâm, vì được bao bọc quá độ nên mới sinh bệnh. Điều ấy ngay từ khi quan sát và bắt mạch, Lê Hữu Trác đã nhận ra “...Nhưng theo ý tôi, đó là vì thế tử ở trng chốn màn che trướng phủ, ăn quá no, mặc quá ấm nên tạng phủ yếu đi...”. Hóa ra, thế tử cũng không có bệnh gì, chỉ là sung sướng quá, lười vận động mà cơ thể ngày càng yếu đi, sức đề kháng cũng theo đó mà giảm xuống. Các ngự y trong cung vì muốn làm vui lòng Chúa lại luôn dùng thứ thuốc công phạt khắc bác, lại càng khiến cho cơ thể thế tử tiều tụy, yếu ớt hơn. Suy cho cùng, bệnh của thế tử là bệnh của kẻ nhà giàu.

Giá trị hiện thực trong tác phẩm được phản ánh trực tiếp qua cái nhìn nhận, đánh giá và bình luận của nhân vật tôi - chính là Lê Hữu Trác khi ông tới khám cho thế tử và chúa Trịnh Sâm. Là một người thầy thuốc, Lê Hữu Trác tự nhận mình quê mùa, luôn tỏ ra là một người hòa nhã, kính nhường ham học hỏi. Đặt trong thế so sánh với những danh y cũng được vời vào cung chữa bệnh cho thế tử, ông không hề nhỏ bé, trái lại càng làm cho nhân cách và tài năng của ông được nâng cao hơn so với họ. Đồng thời, cũng nêu bật lên một hiện thực nhức nhối tồn tại trong phủ Chúa lúc bấy giờ, chính là những kẻ bất tài, hám lợi, ăn bám trở thành một hệ thống đông đảo.

Đối với một tác phẩm thời trung đại, các tác giả thường tránh không để cho cái tôi của mình xuất hiện. Nhưng trong tác phẩm này lại khác, tác giả không ngần ngại để cái “tôi” của mình xuất hiện. Đó là tiếng nói của một con người với lương tâm và đức độ của người thầy thuốc. Tất cả những điều ấy làm cho giá trị hiện thực của tác phẩm càng được hiện lên sắc nét và mỉa mai.

Bài mẫu 2: Cảm nghĩ của anh (chị) về giá trị hiện thực sâu sắc của đoạn trích Vào phủ...

 

Giá trị hiện thực của đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh là đã vẽ ra một bức tranh sinh động về cuộc sống quá xa hoa, quyền quý đến mức một người từng sống ở kinh thành như Lên Hữu Trác đã không ít lần phải sửng sốt, ngạc nhiên. Nó còn dựng lên trước mắt người đọc chân tường của một tầng lớp thống trị ốm yếu, thiếu sinh khí, sống sau những lớp mà che tăm tối, xa cách hẳn với cuộc sống lành mạnh, tự nhiên.

Bài làm

“Con ơi nhớ lấy câu này

Cướp đêm là giặc, cướp ngày là quan”.

Bọn vua chúa phong kiến đa số là những tên cướp ngày. Chúng cướp của nhân dân một cách công khai bằng đủ thủ đoạn tàn ác để vinh thân phì gia, để hưởng thụ cuộc sống. Lên Hữu Trác, một danh y lỗi lạc, một văn nhân tài ba của nước ta ở thế kỉ XVIII đã một phần nào nói lên được thực trạng này qua tác phẩm Thượng kinh kí sự. Trong kí sự này, đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh có một giá trị hiện thực sâu sắc khi phản ánh được cuộc sống xa hoa, giàu sang, quyền uy tột bậc của nhà chúa.

Thế nào là giá trị hiện thực? đây là cách viết văn mô tả cuộc sống thực của một nhân vật hoặc một tầng lớp xã hội. Cách viết này có giá trị giúp người đọc thấy hiện ra trước mắt mình hình ảnh về cuộc sống trong một giai đoạn lịch sử, từ đó gợi lên những cảm nghĩ để có những nhận xét, đánh giá nhất định. Giá trị hiện thực của đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh là đã vẽ ra một bức tranh sinh động về cuộc sống quá xa hoa, quyền quý đến mức một người từng sống ở kinh thành như Lên Hữu Trác đã không ít lần phải sửng sốt, ngạc nhiên. Nó còn dựng lên trước mắt người đọc chân tường của một tầng lớp thống trị ốm yếu, thiếu sinh khí, sống sau những lớp mà che tăm tối, xa cách hẳn với cuộc sống lành mạnh, tự nhiên. Nhất là nó cho chúng ta nhận ra diện mạo của một chế độ xã hội phi lí, đáng bị đào thải. Để phản ánh chân thực hiện thực, tác giả đã dùng để kí sự. Kí là tên gọi chung cho một nhóm thể loại có tính giao thoa giữa báo chí với văn học. Kí viết về cuộc đời thực tại, viết về người thật, việc thật. Người viết kí miêu tả thực tại theo tinh thần của sử học. Tác giả kí coi trọng việc thuật lại có ngọn nghành và không bao giờ quên miêu tả khung cảnh.

Trước hết chúng ta tìm hiểu hoàn cảnh tác giả vào Trịnh phủ. Tác giả ghi chép lại những điều ông mắt thấy tai nghe trong một chuyến đi từ Hương Sơn (Hà Tĩnh), nơi ông sống ẩn dật, đến kinh đô Thăng Long, vào phủ Chúa theo “thánh chỉ” để chữa bệnh cho thế tử Trịnh Cán. Tác giả cho ta thấy quang cảnh ở kinh đô, quyền uy thế lực của nhà chúa và cuộc sống xa hoa trong phủ chúa Trịnh, những điều Lê Hữu Trác mắt thấy tai nghe trong nhiều chuyến đi từ Hương Sơn ra Thăng Long đã thôi thúc ông cầm bút. Năm 1783 ông viết xong tập Thượng kinh kí sự bằng chữ Hán. Tập kí sự này là một tác phẩm văn học đích thực, đặc sắc, có giá trị hiện thực cao.

Đầu tiên giá trị hiện thực được thể hiện qua nét vẽ của một bức tranh sinh động về cuộc sống quá xa hoa, quyền quý của vua quan ở phủ chúa. Theo chân tác giả, người đọc như tận mắt trong thấy quanh cảnh ở phủ chúa cực kì xa hoa, tráng lệ - không ở đâu sánh bằng. Muốn vào phủ, ta phải qua nhiều lần cửa với những hành lang quanh co nối tiếp nhau, ở mỗi cửa đều có vệ sĩ canh giác. Khuôn viên phủ chúa rộng, có trạm dừng chân được kiến trúc thật kiểu cách, với cảnh trí thiên nhiên kì lạ. Trong vườn, chim kêu ríu rít, anh hoa đua thắm, gió đưa thoang thoảng mùi hương. Bên trong là những Đại đường, gác tía với kiệu son, võng điều. Đồ dùng của chúa được sơn son thiếp vàng, đồ dùng tiếp khách ăn uống đều là mâm vàng, chén bạc, của ngon vật lạ … Đến nội cung của thế tử phải trải qua sáu lần trướng gấm. Nơi ở của thế tử rất sang trọng, có sập thếp vàng, ghế rồng bày nệm ấm, xung quanh lấp lánh, mùi thơm ngào ngạt … Trước cảnh tưởng xa hoa này, Lê Hữu Trác đã phải cảm tác:

“Lầu từng gác vẽ tung mây,

Rèm châu, hiên ngọc, bóng mai ánh vào

Hoa cung thoảng ngạt ngào đưa tới

Vườn ngự nghe vẹt nói đòi phen”.

Và còn hơn thế nữa! tác giả vốn con quan, sinh trưởng ở chốn phồn hoa, chỗ nào trong cấm thành cũng từng biết. Duy chỉ có những việc trong phủ chúa là chưa biết đến … nay mới hay cái cảnh giàu sang của phủ chúa thực khác hẳn người thường, không thể tượng tượng nổi, đến nỗi làm cho ai cũng phải sửng sốt, ngạc nhiên:

“Cả trời Nam sang nhất là đây!”

Hoặc

“Quê mùa, cung cấm chưa quen,

Khác gì ngư phủ đào nguyên thuở nào!”

Tiếp theo, giá trị hiện thực còn được thể hiện qua việc tác giả dựng lên trước mắt người đọc chân tướng của một tầng lớp thống trị ốm yếu, thiếu sinh khí, sống sau những lớp màn che tăm tối, xa cách hẳn với cuộc sống lành mạnh, tự nhiên của người dân. Đó là hình ảnh của thế tử Trịnh Cán. Nơi ở của thế tử thật khác thường: phải trả qua năm sáu lần trướng gấm làm cho nơi ở tối om, ngột ngạt và thiếu sinh khí. Người ta vì đói ăn thiếu mặc mới bệnh hoạn, ốm yếu đã đành, đây lại vì “ăn quá no, mặc quá ấm”, dư thừa về vật chất, vậy mà “tinh khí khô hết, da mặt khô, rốn lồi to, gân thời xanh, tay chân gầy gò vì nguyên khí đã hao mòn, thương tổn quá mức”. Xem tờ khải của Lê Hữu Trác, người đọc càng thấy rõ hơn thực tế này: “chầu mạch, thấy sáu mạch tế sác và vô lực, hữu quan yếu, hữu xích lại càng yếu hơn. Ấy là tì âm hư, vị hỏa quá thịnh, không giữ được dương khí, nên âm hỏa đi càn. Vì vậy, bên ngoài thấy cổ trướng, đó là tượng trưng ngoài thì phù, bên trong thì trống”. Như thế tác giả đã giúp cho người đọc hiểu rõ căn nguyên cơ thể ốm yếu, héo hon, gầy mòn của thế tử chính là kết quả của lối sống xa hoa, giàu sang mà thiếu sinh khí trời lành mạnh, tự nhiên. Cách sống và nơi sinh hoạt của phủ chúa càng làm nổi bật giá trị hiện thực của tác phẩm.

Càng thấy được, hiểu được lối sống xa hoa quyền quý ở phủ chúa Trịnh, chúng ta càng dâng lên lòng căm giận bọn vua quan này vì đoạn trích đã giúp chúng ta nhận ra diện mạo của một chế độ xã hội phi lí, đang bị đào thải. Ngay nhà văn Phạm Đình Hổ trong Vũ trung tùy bút cũng đã có những phản ánh tương tự: “Trong phủ, tùy chỗ, điểm xuyết bày vẽ ra hình núi non bộ trong như bến bể đầu non. Mỗi khi đêm thanh cảnh vắng, tiếng chim kêu vượn hú tràn khắp bốn bể, hoặc nửa đêm ồn ào như trận mưa sa …”. Vậy cuộc sống xa hoa này do đâu mà có? Chắc chắn là do chúng vơ vét của cải nhân dân, gây ra biết bao nhiêu tội ác với nhân dân lao động, đẩy họ vào con đường tối tăm cùng cực… Nguyên do này cũng được nhà văn Phạm Đình Hổ xác nhận như sau: “Buổi ấy, bao nhiêu những loài trân cầm dị thú, cổ mộc quái thạch, chậu hoa cây cảnh ở chốn dân gian, chúa đều sức thu lấy, không thiếu một thứ gì”. Những cuộc đời vẫn có những quy luật của nó. Đó là “nhân nào quả nấy”, đólà “cùng tắc biến”. Chính vì thế mà qua hình dáng và bệnh tình của Đông cung Thế tử, người đọc có thể liên tưởng đến tình trạng suy thoái của truyền đình phong kiến Việt Nam vào thời đó. Chế độ phong kiến tồn tại hàng ngàn năm đã già cỗi, lạc hậu, khó bền cứu chữa và đến ngày diệt vong. Cuộc Bắc phạt của Bắc bình vương Nguyễn huệ đã chấm dứt một thời vàng son của chúa Trịnh.

Tóm lại, đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh mang giá trị hiện thực sâu sắc. Bằng tài quan sát tinh tế, tỉ mỉ bẳng ngòi bút ghi chép chi tiết, chân thực và tài tả cảnh sinh động, thuật việc khéo léo, tác giả đã vẻ lại một bức tranh sinh động, thuật việc khéo léo, tác giả đã vẽ lại một bức tranh sinh động về cuộc sống xa hoa quyền quý của chúa Trịnh. Chính vì thế mà tác phẩm Thượng kinh kí sự của Lê Hữu Trác xứng đáng là viên ngọc quý của nền văn học trung đại Việt Nam.  

Bài mẫu 3: Cảm nghĩ của anh (chị) về giá trị hiện thực sâu sắc của đoạn trích Vào phủ...

Đối với ông thì không có gì quý bằng cuộc sống tự do nơi non xanh nước biếc chốn quê nhà, được đem hết tài năng, nhiệt huyết cống hiến cho y thuật và cứu nhân độ thế. Cuộc sống nơi cung vua, phủ chúa dẫu giàu sang phú quý tột bậc nhưng rốt cục cũng ch? là vào luồn ra cúi, cá chậu chim lồng mà thôi.

Bài làm

Lê Hữu Trác (1724 – 1791) tên hiệu là Hải Thượng Lãn ông, quê ở làng Liêu Xá, huyện Đường Hào, phủ Thượng Hồng, trấn Hải Dương, nay thuộc huyện Yên Mĩ, tĩnh Hưng Yên ông là một danh y lừng lẫy trong lịch sử y học Việt Nam. Ý nguyện lớn nhất của ông là đem tài năng và tâm huyết của mình để cứu người, giúp đời. Danh lợi, phú quý không thể làm cho ông xa rời lí tưởng cao đẹp đó. Sự nghiệp của ông được tập hợp trong bộ Hải Thượng y tông tâm lĩnh gồm 66 quyển, biên soạn trong gần 40 năm, là một công trình nghiên cứu y học xuất sắc nhất thời trung đại ở nước ta.

Thượng kinh kí sự nguyên văn bằng chữ Hán, được Lê Hữu Trác viết năm 1782, nội dung ghi lại những điều mà tác giả tai nghe mắt thấy trong những lần được vời ra kinh đô Thăng Long chữa bệnh cho cha con chúa Trịnh Sâm. Qua những trang viết sinh động và sắc sảo, tác giả đã phản ánh chân thực cuộc sống xa hoa của tầng lớp vụa chúa phòng kiến, đồng thời kín đáo bày tỏ thái độ thờ ơ, coi thường danh lợi của mình.

Mở đầu bài kí là Khung cảnh giàu sang, đẹp đẽ hiếm có cùa phủ chúa Trịnh được tác giả miêu tả trực tiếp qua quan sát và miêu tả gián tiếp qua ấn tượng mà nó gây ra trong lòng tác giả: Tôi ngẩng đầu lên: đâu đâu cũng là cây cối um tùm, chim kêu ríu rít, danh hoa đua thấm, gió đưa thoang thoảng mùi hương… Tôi nghĩ bụng: Mình vốn con quan, sinh trưởng ở chốn phồn hoa, chỗ nào trong cấm thành mình cũng đã từng biết Chỉ có những việc trong phủ chúa là mình chỉ mới nghe nói thôi. Bước chân đến đây mới hay cảnh giàu sang của vua chúa thực khác hẳn người thường!

Tuy được mời nhưng vị danh y cũng chỉ được đưa vào phủ bằng lối cửa sau, mỗi bước đều có người của phủ chúa đi theo. Trên đường đi, ông để ý ghi nhận từng sự vật: Đi được vài trăm bước, qua mấy lần cửa mới đến cái điếm “Hậu mã quân túc trực”. Điếm làm bên cái hồ, có những cái cây lặ lùng và những hòn đá kì lạ. Trong điếm cột và bao lơn lượn vòng, kiểu cách thật là xinh đẹp.
Càng vào sâu bên trong, sự ngạc nhiên của tác giả càng lớn: Qua dãy hành lang phía tây, đến một cái nhà lớn thật là cao và rộng. Hai bên là hai cái kiệu để vua chúa đi. Đổ nghi trượng đều sơn son thiếp vàng. Ở giữa đặt một cái sập thếp vàng. Trên sập mắc một cái võng điều. Trước sập và hai bên, bày bàn ghế, những đổ đạc nhân gian chưa từng thấy… Lại qua một cửa nữa, đến một cái lầu cao và rộng. Ở đây, cột đều sơn son thếp vàng. Đúng là cảnh lầu son gác tía, cung bạc lầu vàng mà dân chúng chĩ có thể thấy trong truyện thần tiên hoặc trong tưởng tượng mà thôi.
Khung cảnh trong phủ chúa đã được Lê Hữu Trác khái quát qua mấy câu thơ tức cảnh:
 
"Lỉnh nghìn cửa vác đòng nghiêm nhặt,
Cả trời Nam sang nhất là đây!
Lầu từng gác vẽ tung mây,
Rèm châu, hiên ngọc, bóng mai ánh vào."
Cung cách sinh hoạt trong phủ chúa Ịại càng khác xa chốn dân gian. Lần đầu tiên trong đời, với tư cách là khách mời, tác giả được dùng cơm bằng mâm vàng, chén bạc, đồ ăn toàn là của ngon vật lạ … Không một lời bình luận, tác giả để các chi tiết tự toát lên ý nghĩa hiện thực sâu xa của nó. Thời kì này, chế độ phong kiến lâm vào tình trạng khủng hoảng, rối ren. Vua Lê nhu nhược chỉ còn đóng vai trò bù nhìn, mọi quyền lực chính trị đều rơi vào tay chúa Trịnh, mà chúa Trịnh thì lộng hành, ăn chơi xa xí, hoang dâm vô độ. Trong khi đó, dân chúng sống lầm than cơ cực, tiếng oán thán vang lên khắp hang cùng ngõ hẻm. Quyền lợi của vua chúa không còn đồng nghĩa với quyền lợi của quốc gia, dân tộc. Vì thế mà người người bất bình. Phong trào khởi nghĩa nông dân chống lại triều đình nổi lên ò khắp nơi. Do có nhận thức đúng đắn vể bản chất của triều đình phong kiến đương thời nên Lê Hữu Trác dứt khoát quay lưng trước con đường hoạn lộ đầy cám dỗ của danh lợi, phú quý nhưng vinh liền nhục và cũng đầy hiểm hóc.
Đoạn văn miêu tả nơi cung cấm khá tỉ mỉ, vừa có giá trị hiện thực sắc sảo vừa ngầm chứa thái độ giễu cợt nhẹ nhàng của tác giả: Đi qua độ năm, sáu lẩn trướng gấm như vậy, đến một cái phòng rộng, ở giữa phòng có một cải sập thếp vàng. Một người ngồi trên sập độ năm, sáu tuổi, mặc áo lụa đỏ. Có mấy người đứng hầu hai bên. Giữa phòng là một cây nến to cắm trên một cải giả bằng đổng. Bên sập đặt một cái ghế rồng sơn son thếp vàng, trên ghế bày nệm gấm. Một cái màn là che ngang sân. Ở trong có mấy người cung nhân đang đứng xúm xít Đèn sáp chiếu sáng, làm nổi màu mặt phấn và màu áo đỏ.
Xung quanh lấp lánh, hương hoa ngào ngạt Xem chừng Thánh thượng thường thường vẫn ngồi trên ghế rồng này, nay người rút lui vào màn để tồi xem mạch Đông cung cho thật kĩ:
 
Qua hình dáng và bệnh tình của Đông cung thế tử được tác giả miêu tả khá kĩ, người đọc cớ thể liên tưởng đến tình trạng suy thoái của triều đình phong kiến Việt Nam thời đó: … thế tử ở trong chốn màn che trướng phủ, ăn quá no, mặc quá ấm nên tạng phủ yếu đi. vả lại, bệnh mắc đã lâu, tinh khí khô hết, da mặt khô, rốn lồi to, gân thời xanh, tay chân gầy gò. Đó là vì nguyên khỉ đã hao mòn, thương tổn quá mức. Quả là chế độ phong kiến tồn tại hàng ngàn năm nay đã già cỗi, lạc hậu và khó bề cứu chữa.
Vốn là một người thông minh, Lê Hữu Trác đắn đo rất kĩ trong cách chữa bệnh cho thế tử. Ý kiến của các thầy thuốc trong cung ông nghe ch? để tham khảo. Từ thực trạng bệnh tình và thể lực của thế tử, ông phân tích, cân nhắc thiệt hơn rồi tìm ra cách chữa phù hợp nhất: Tôi thấy thánh thể gầy, mạch lại tế, sác. Thế là âm dương đều bị tổn hại, nay phải dùng thuốc thật bổ để bổi dưỡng tì và thận, cốt giữ cái căn bản tiên thiên và làm nguồn gốc cho cái hậu thiên. Chính khí ở trong mà thắng thì bệnh ở ngoài sẽ tự nó tiêu dần, không trị bệnh mà bệnh sẽ mất.

Điều thú vị hơn cả là nếu suy ngẫm kĩ, chúng ta sẽ thấy nội dung tờ khải của danh y Lê Hữu Trác nói về cách chữa bệnh cho thế tử nhưng lại chứa đựng một nhận xét cực kì chính xác về thực trạng của triều đình phong kiến đương thời và đưa ra phương thức chữa trị những căn bệnh trầm kha của nó: Chầu mạch, thấy sáu mạch tế, sác và vô lực, hữu quan yếu, hữu xích lại càng yếu hơn. Ấy là tì âm hư, vị hỏa quá thịnh, không giữ được khí dương, nên âm hoả đi càn. Vì vậy( bên ngoài thấy cổ trướng, đó là tượng trưng ngoài thì phù, bên trong thì trống. Nên bổ tì thổ thì yên… 

Danh y Lê Hữu Trác thừa sáng suốt để kê một phương thuốc hoà hoãn cho thế tử vì sợ nếu mình làm kết quả ngay thì sẽ bị danh lợi nó ràng buộc, không làm sao về núi được nữa. Là một bậc chân Nho, ông tỏ ra nắm rất vững lẽ xuất xử của người quân tử. Quyết định lánh xa vòng danh lợi của ông trong hoàn cảnh ấy là vô cùng đúng đắn.

Đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh mang giá trị hiện thực sâu sắc. Bằng tàỉ quan sát tinh tế và ngòi bút ghi chép chi tiết, chân thực, tác giả đã vẽ lại một bức tranh sinh động về cuộc sông xa hoa, quyền quý của chúa Trịnh, đồng thời cũng bộc lộ thái độ coi thường lợi danh của mình. Đối với ông thì không có gì quý bằng cuộc sống tự do nơi non xanh nước biếc chốn quê nhà, được đem hết tài năng, nhiệt huyết cống hiến cho y thuật và cứu nhân độ thế. Cuộc sống nơi cung vua, phủ chúa dẫu giàu sang phú quý tột bậc nhưng rốt cục cũng ch? là vào luồn ra cúi, cá chậu chim lồng mà thôi.

Bài mẫu 4: Cảm nghĩ của anh (chị) về giá trị hiện thực sâu sắc của đoạn trích Vào phủ...

“Vào phủ chúa Trịnh” trở thành một quá trình tiếp cận sự thật đời sống xa hoa vương giả hơn là thăm bệnh, chữa bệnh. Thăm bệnh, chữa bệnh cho thế tử Trịnh Cán tưởng chỉ như một cái cớ, một dịp may giúpngười viết kí hoàn thiện bức tranh về cuộc sống thâm nghiêm, giàu sang đầy uy quyền.

Bài làm

Với lối viết theo thể ký, ghi chép lại những người thật việc thật, đoạn trích Vào phủ chúa trịnh giúp cho ta có được một tài liệu quý vào thời vua Lê chúa ,Trịnh mà cho tới nay toàn bộ di tích này hầu như đã biến mất…
Lê Hữu Trác xuất thân trong một gia đình quí tộc, giỏi binh thư, võ nghệ. Làm quan dưới thời chúa Trịnh được một thời gian,ông nhận thấy xã hội thối nát,cương thường lỏng lẻo, nhân khi người anh ở Hương Sơn mất (1746), ông liền viện cớ cáo quan về nuôi mẹ già. Từ đó ông chuyên nghiên cứu y học vừa chữa bệnh cứu đời, vừa soạn sách và mở trường dạy học truyền bá y đức, y lí,y thuật.
Ngày 12 tháng giêng năm Cảnh Hưng 43(1782),Lê Hữu Trác nhận được lệnh chúa triệu về kinh xem mạch, kê đơn chữa bệnh cho thế tử Trịnh Cán. Sau đó một thời gian thì chữa bệnh cho chúa Trịnh Sâm. Những điều Lê Hữu Trác mắt thấy tai nghe trong nhiều chuyến đi từ Hương Sơn ra Thăng Long đã thôi thúc ông cầm bút.
Năm 1783 ông viết xong tập “Thượng kinh kí sự” bằng chữ Hán. Tập kí sự này là một tác phẩm văn học đích thực, đặc sắc giá, có giá trị sử liệu cao . Đoạn trích “ Vào phủ chúa Trịnh” trong sách Ngữ văn 11-Nâng cao,tập 1(Nxb.Giáo dục,H,2007) thể hiện được đầy đủ những nét độc độc đáo trong bút pháp kí sự của Lê Hữu Trác.
Như ta biết: kí là là tên gọi chung cho một nhóm thể loại có tính giao thoa giữa báo chí với văn học. Kí viết về cuộc đời thực tại,viết về người thật,việc thật. Người viết kí miêu tả thực tại theo tinh thần của sử học. Mẫu hình tác giả kí gần gũi với nhà sử học. Tác giả kí coi trọng việc thuật lại có ngọn ngành và không bao giờ quên miêu tả khung cảnh. Kí bao gồm nhiều thể văn như : bút ký, phóng sự, du kí, hồi kí,nhật kí, …Trong số đó kí sự thiên về ghi chép chi tiết, tỉ mỉ sự việc- câu chuyện có thật. Tất nhiên đan xen vào mạch tự sự còn có những đoạn thể hiện nhận xét chân thực,tinh tường của nhà văn trước sự việc.
Đoạn trích “ Vào phủ chúa Trịnh” vẽ lại một bức tranh sinh động về cuộc sống xa hoa quyền quý của chúa Trịnh. Lê Hữu Trác sử dụng người trần thuật ngôi thứ nhất,trực tiếp tiếp cận cung cách sinh hoạt xa hoa của chúa Trịnh. Nhà văn quan sát tỉ mỉ, ghi chép trung thực, tả cảnh sinh động, thuật việc khéo léo.
Mở đầu đoạn trích là một sự kiện cụ thể, chân thực. Tính chất kí trong bút pháp của Lê Hữu Trác thể hiệnrõ ở cách ghi tỉ mỉ sự việc, thời gian.
Nhà văn kết hợp biện pháp kể khách quan với nghệ thuật gợi không khí nhằm làm nổi bật hành động khẩntrương,gấp gáp của nhân vật:
“ Mồng một tháng 2. Sáng tinh mơ, tôi nghe tiếng gõ cửa rất gấp. Tôi chạy ra mở cửa . Thì ra một người đầy tớ quan Chánh đường….” .
Ở đây “trong việc có người”, người gắn chặt với cảnh,với môi trường hoạt động cụ thể. Câu văn của Lê Hữu Trác ngắn gọn, giàu thông tin, được viết ra một cách nhẹ nhàng, tự nhiên,không một chi tiết thừa.
Lời văn giản dị, chắc mà bay bổng, vừa “truyền cảm” vừa truyền nhận thức.Người đọc có thể hình dung được rất rõ một cảnh huống đặc biệt đang xảy ra.
Lần theo mạch tự sự, người đọc có cảm giác hồi hộp lo âu rồi bất ngờ nhận ra một con người gần gũi, quen thuộc như cảm nhận của nhân vật “ Tôi” trong tác phẩm này.
Trước mắt ta : hình ảnh nhân vật tôi đã dừng bước với tâm trạng ngạc nhiên, thoáng một chút thất vọng. Nhịp kể đột ngột chậm lại để ghi người, ghi việc rõ nét hơn, đầy đủ hơn. Hai chữ “thì ra” vừa tạo ấn tượng về sự khám phá, vừa gọi ra được người thật,việc thật.
Nhân vật “tôi” không hiện ra qua hình dáng cụ thể. Trước hết anh ta xuất hiện qua giọng nói, qua cảm nhận về âm thanh, và rõ hơn ở hành động. Nhân vật “tôi”” xuất hiện với tư cách một người trong cuộc, trực tiếp tham gia vào sự việc được miêu tả trần thuật.
Vì thế ngay từ đầu truyện người đọc đã có cảm giác đây không phải câu chuyện hư cấu, mà chính là bức tranh cuộc sống đang hiện hữu. Khi kể việc, tả người Lê Hữu Trác không vay mượn những khuôn mẫu, chất liệu có sẵn, tác giả hướng tới khai thác chất liệu đời thường, đời tư. Chẳng hạn lời đối thoại của nhân vật người đầy tớ được thể hiện một cách tự nhiên, đúng với vị thế chức phận của hắn: “có thánh chỉ triệu cụ vào. Quan truyền mệnh hiện đang ở nhà cụ lớn con, con vâng mệnh chạy đến đây báo tin…”.
Lê Hữu Trác coi trọng việc kể lại có ngọn ngành. Nhà văn ưa sắp xếp sự việc cho đầy đủ mạch lạc có đầu có cuối, nên dường như cứ một đoạn hay một câu nói về hành động của tên đầy tớ lại tiếp đoạn tự thuật về hành động, cảm nhận của Lê Hữu Trác. “Nghe tiếng gõ cửa…..tôi chạy ra…” , “người đầy tớ nói…..tôi bèn” , “tên đầy tớ chạy…tôi bị xóc một mẻ,khổ không nói hết”. Mạch văn chặt chẽ nhờ sự thể hiện thành công cái lô gíc nhân quả của sự kiện, hành động.
Ban đầu ta tưởng như nhân vật “tôi” chủ động, nhưng càng đọc càng thấy nhân vật “tôi” bị cuốn vào hết sự việc này đến sự việc khác.
Mở đầu đoạn trích cấu trúc câu văn ngắn gọn. Mỗi câu văn tương ứng với một tâm tình, một sự việc, hànhđộng. Người đọc vừa đồng cảm với nỗi vất vả và hành động bất đắc dĩ của nhân vật tôi vừa đồng tình với Lê Hữu Trác ở thái độ mỉa mai châm biếm sự lộng quyền, tiếm lễ của chúa Trịnh Sâm lúc bấy giờ.
Quang cảnh và cung cách sinh hoạt trong phủ chúa được ghi lại khá tỉ mỉ qua con mắt quan sát của một thầy thuốc lần đầu tiên bước chân vào thế giới mới lạ. Không gian nghệ thuật của tác phẩm ngày càng được mở rộng hơn theo bước chân, và cách nhìn của nhân vật xưng “tôi”.
Bức tranh toàn cảnh về phủ chúa Trịnh không chỉ có bề rộng mà còn có chiều sâu, với một sức gợi mạnh mẽ. Theo nhân vật “tôi” quanh cảnh ở phủ chúa cực kì xa hoa, tráng lệ- không ở đâu sánh bằng: Khi vào phủ phải qua nhiều lần cửa với những hành lang quanh co nối tiếp nhau,ở mỗi cửa đều có vệ sĩ canh gác. Khuôn viên phủ chúa rộng, có trạm dừng chân được kiến trúc thật kiểu cách, với cảnh trí thiên nhiên kì lạ. Trong vườn, chim kêu ríu rít,danh hoa đua thắm, gió đưa thoang thoảng mùi hương. Bên trong là những Đại đường, gác tía với kiệu son, võng điều. Đồ dùng của chúa được son son thiếp vàng, đồ dùng tiếp khách ăn uống cũng đều là mâm vàng, chén bạc, của ngon vật lạ…. Đến nội cung của thế tử phải trải qua 6 lần trướng gấm. Nơi ở của thế tử rất sang trọng,có sập thếp vàng, ghế rồng bày nệm ấm,xung quanh lấplánh, hương hoa ngào ngạt…
Lê Hữu Trác khéo kết hợp tả tập trung với điểm xuyết, chọn lọc được những chi tiết đắt, nói lên quyền uy tối thượng cùng nếp sống hưởng thụ cực kì xa xỉ của gia đình chúa Trịnh Sâm. Giọng kể khách quan, trang nghiêm, đan xen với thái độ ngạc nhiên và hàm ý phê phán kín đáo chúa Trịnh. 
Nhà văn khéo kết hợp giữa văn xuôi và thơ ca. Bài thơ vịnh cảnh, tả việc của Lê Hữu Trác ý tứ sâu xa, lời thơ hóm hỉnh ,ẩn giấu một nụ cười châm biếm, mỉa mai. Lời nhận xét trong văn phẩm khá đa dạng: Trước tiên Lê Hữu Trác đánh giá khái quát vẻ đẹp. Tiếp theo nhận xét về cảnh giàu sang. Tiếp nữa nêu ấn tượng về cách bày trí, kiến trúc kiểu cách. Nhà văn dừng lại bình giá tỉ mỉ,sắc sảo các đồ dùng xa hoa từ nhà Đại đường đến Gác tía. Lời đánh giá nào của lê Hữu Trác cũng đích đáng,tinh tế và có chừng mực. Nói tác phẩm giàu chất trữ tình vì thế.
Tác giả quan sát các công trình kiến trúc, cảnh trí thiên nhiên qua hình khối, dáng vẻ kích cỡ, tả khuôn viên chủ yếu qua những ấn tượng về hương thơm âm thanh, kể về mức độ xuất hiện của thị vệ, quân sĩ để nhấn mạnh vẻ trang nghiêm của nơi đây. Lê Hữu Trác đặc biệt ưa tả đường đi, lối vào phủ chúa. Ta có cảm tưởng đằng sau mỗi cánh cửa là một bức tranh.
Đoạn trích gồm nhiều bức tranh với những mảnh màu tối sáng, nhạt đậm khác nhau, nối liền nhau. Qua mấy lần cửa đầu tiên, trước mắt tác giả giống như một cảnh tiên huyền ảo, cây cối um tùm, hương hoa thơ mộng. Đi tiếp, cảnh giàu sang của phủ chúa được bày ra chân thật,đầy đủ hơn. Càng đi sâu vào trong, Lê Hữu Trác càng có dịp quan sát không gian nội thất, không gian cao rộng của lầu gác với các đồ nghi trượng sơn son thếp vàng, nhất là được biết cái phong vị của nhà đại gia.
“Vào phủ chúa Trịnh” trở thành một quá trình tiếp cận sự thật đời sống xa hoa vương giả hơn là thăm bệnh, chữa bệnh. Thăm bệnh, chữa bệnh cho thế tử Trịnh Cán tưởng chỉ như một cái cớ, một dịp may giúpngười viết kí hoàn thiện bức tranh về cuộc sống thâm nghiêm, giàu sang đầy uy quyền.
Lê Hữu Trác tổ chức điểm nhìn trần thuật linh hoạt. Có đoạn sự việc được kể theo quan sát của nhân vật xưng tôi. Có đoạn nhà văn để cho nhân vật quan truyền chỉ miêu tả,giới thiệu. Người đọc có cảm tưởng không chỉ có Lê Hữu Trác dẫn ta vào phủ chúa để tự do quan sát ngắm nhìn mà cả những kẻ hầu cận chúa cũng đưa ta thâm nhập, khám phá sự thật ở “Đông cung”. Những đoạn nhân vật tôi độc thoại toát lên cái nhìn sắc sảo và sự cảm nhận tinh tế. Những đoạn kể tả, cho thấy nhân vật tôi bao quát được một không gian rộng lớn, nắm bắt được thần thái, bản chất của sự vật hiện tượng.
Trong tư cách một người thầy thuốc quê mùa, nhân vật tôi luôn tỏ ra là một người hoà nhã kính nhường, ham học hỏi y thuật của đồng nghiệp. Sự đối lập về vị thế so với các vị lương y của sáu cung hai viện, không khiến nhân vật tôi trở nên nhỏ bé, trái lại càng tôn cao hơn nhân cách và tài năng của nhân vật này. Vẻ đông đúc của lương y nơi triều đình tự phơi bày hết sự thực ở phú chúa đang tồn tại một hệ thống quan lại bất tài, ăn bám .Các nhà nho xưa ít khi nói về mình. Nhưng trong đoạn trích này,tác giả đã không ngần ngại để cái “Tôi”đóng một vai trò quan trọng.
“Vào phủ chúa Trịnh” thể hiện trực tiếp cái tôi cá nhân người cầm bút. Qua đoạn trích ta thấy tác giả Lê Hữu Trác là một thầy thuốc giàu kinh nghiệm. Bên cạnh tài năng ông còn là một thầy thuốc có lương tâm và đức độ. Lê Hữu Trác xem nghề thuốc vô cùng thiêng liêng cao quí,người làm thuốc phải nối tiếp lòng trung của cha ông mình,phải luôn giữ đức cho trong, giữ lòng cho sạch . Lê Hữu Trác yêu thích tự do, nếp sống thanh đạm. Vượt lên trên những danh lợi tầm thường ông trở về hành đạo cứu đời với quan niệm : “Thiện tâm cốt ở cứu người. Sơ tâm nào có mưu cầu chi đâu/ Biết vui, nghèo cũng hơn giàu/ Làm ơn nào phải mong cầu trả ơn”.

Bài mẫu 5: Cảm nghĩ của anh (chị) về giá trị hiện thực sâu sắc của đoạn trích Vào phủ...

Lê Hữu Trác tự thấy mình như kẻ “quê mùa” lần đầu đến nơi “cung cấm”, như chàng “ngư phủ” gặp chốn “đào nguyên”. Sự liên tưởng ấy thật đắt giá biết chừng nào. Điều đó phản ánh một sự thực lịch sử: trong cuộc tranh giành quyền lực lịch sử, nhà Trịnh đang giành thế thượng phong, uy quyền phủ chúa lấn át cả cung vua, trong khi phủ chúa lộng lẫy, xa hoa, cung vua chẳng khác nào một cái nhà lớn rỗng trong, tứ bề gió lùa hoang phế.

Bài làm

Không chỉ là một danh y lỗi lạc của đất nước thế kỉ XVIII và mãi mãi muôn đời sau, Lê Hữu Trác còn là một thi nhân, một văn nhân tài ba của nền văn học Việt Nam đến tác phẩm Thượng kinh kí sự của ông, thế kí văn học nước nhà mới thực sự ra đời. Thượng kinh ki sự là một tác phẩm kí độc đáo, mang giá trị hiện thực sâu sắc. Ta có thể cảm nhận giá trị ấy qua đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh của tác phẩm.
Lê Hữu Trác sinh năm 1724, mất năm 1791, nghĩa là cuộc đời ông nằm trọn trong thời kì lịch sử nhiều biến động thăng trầm nhất của lịch sử nước nhà: thời kì các tập đoàn phong kiến Lê – Trịnh tranh giành quyền lực, nhân dân cực khổ trăm bề, khởi nghĩa nông dân bùng nổ dữ dội,… Đặc biệt, sự xa hoa, trụy lạc, chuyên quyền nơi phủ chúa Trịnh càng khiến bức tranh lịch sử vốn đã đẫm màu đau thương nay lại thêm phần tối đen, xám xịt.
Là một danh y tài năng nức tiếng xa gần, Hải Thượng Lãn Ông đã được mời vào cung chữa bệnh cho thế tử nơi phủ chúa Trinh – chữa thứ bệnh con nhà giàu, vì dư ăn thừa mặc mà mắc phải. Sự thực ấy đặt vào hoàn cảnh dân chúng lầm than cơ cực, bị bóc lột đến tận xương tủy chỉ khiến người ta thấy đau đớn, chua xót và bất bình. Nhân chuyến lên kinh – một lần mà nhớ mãi, và cảm thán mà Lãn Ông đã viết Thượng kinh kí sự ghi lại những điều tai nghe mắt thấy và những suy nghĩ cảm xúc của mình nơi sang nhất trời Nam.
Đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh ghi lại ngày đầu Lê Hữu Trác được triệu vào phủ chúa. Qua miêu tả cảnh vật và cung cách sinh hoạt chốn quyền uy lừng lẫy, đoạn trích đã thể hiện giá trị hiện thực sâu sắc.
Cảnh vật phủ chúa là điều đầu tiên tác giả cảm nhận được. Nó là dấu hiệu đầu tiên đánh dấu sự khác biệt nơi đế đô hoa lệ và chốn dân gian cát bụi. Vạn vật mới đẹp đẽ, xinh xắn, lộng lẫy làm sao! “Đâu đâu cũng là cây cối um tùm, chim kêu ríu rít, danh hoa đua thắm, gió đưa thoang thoảng mùi hương”. Nhưng đó không phải thứ cây cối hoang dại bụi bờ, không phải giống chim sâu, chim sẻ,… Đó đều là giống cỏ lạ chim quý “những cái cây lạ lùng và những hòn đá kì lạ”, tất thảy đều “thật là xinh đẹp”. Chưa hết. Thành quách nơi này mới thực lầu son gác tía. Kiểu cách xây dựng thật công phu “Mấy lần cửa” tiếp nhau, “những dây hành lang quanh co nối tiếp”. Nó tạo nên những phủ chúa cao rộng, lộng lẫy, nguy nga “cái nhà lớn thật là cao và rộng”, “sập sơn son thếp vàng. Cảnh vật ấy khiến tác giả không cầm lòng được phải ngợi ca:
"Lầu từng gác vẽ tung mây,
Rèm châu hiên ngọc, bóng mai ánh vào 
Hoa cung thoảng ngạt ngào đưa tới,
Vườn ngự nghe vẹt nói đòi phen."
Đáng lưu ý là ở tâm sự của tác giả: Ông từng là kẻ xuất thân cao quý, chốn phồn hoa đi lại cũng nhiều, “sinh trưởng ở chốn phồn hoa, chỗ nào trong cấm thành mình cũng đã từng biết”; vậy mà chốn phủ chúa này đã khiến ông phải choáng ngợp, trầm trồ “Bước chân đến đây mới hay cảnh giàu sang của vua chúa thực khác hẳn người thường” Lê Hữu Trác tự thấy mình như kẻ “quê mùa” lần đầu đến nơi “cung cấm”, như chàng “ngư phủ” gặp chốn “đào nguyên”. Sự liên tưởng ấy thật đắt giá biết chừng nào. Điều đó phản ánh một sự thực lịch sử: trong cuộc tranh giành quyền lực lịch sử, nhà Trịnh đang giành thế thượng phong, uy quyền phủ chúa lấn át cả cung vua, trong khi phủ chúa lộng lẫy, xa hoa, cung vua chẳng khác nào một cái nhà lớn rỗng trong, tứ bề gió lùa hoang phế.
Còn nhớ trong Vũ trung tùy bút, Phạm Đình Hổ đã có lần ngậm ngùi “Buổi ấy, bao nhiêu những loài trân cầm dị thú, cổ mộc quái thạch, chậu hoa cây cảnh ở chôn dân gian, chúa đều sức thu lấy, không thiếu một thứ gì”. Như vậy hỏi sao chốn đây không thơm lừng hoa thơm cỏ lạ cho được? Cảnh vật nơi này, bên cạnh vẻ đẹp của chốn non Bồng nước Nhược, nó còn phản ánh một sự thực là lòng tham vô đáy, sự ích kỉ hẹp hòi của phường quan chúa. Cũng trong Vũ trung tùy bút, một sự thực đất nước khi đó được phản ánh thật đau lòng. Nhân dân phải “chịu hại về việc binh đao đến mười tám năm”, nhiều nơi "ruộng đất hầu thành rừng rậm”. Tình cảnh ấy tất yếu dẫn đến thảm cảnh “Những người dân sống sót phải đi bóc vỏ cây, bắt chuột mà ăn”. Thậm chí, có bậc nho sinh trên đường đi ghé vào một hàng cơm, khi ăn thì thấy “trên mặt nước bát canh thịt nổi sao lên như hình bán nguyệt (…) thấy có con rận chết ở trên mặt bát mới biết là thịt người…”. Chao ôi! Vậy mà phủ chúa vẫn rộn ràng, bình yên như thế, có ai lắng nghe thấy tiếng khóc hờ của những oan hồn thảm khốc chốn dân gian?
Đồng điệu với cảnh vật chốn này nhưng thêm ngàn lần tương phản với đời sống nhân dân trăm họ là những con người nơi phủ chúa và cung cách sinh hoạt cầu kì, kiểu cách, xa hoa, bệnh hoạn của họ.
Không phải vô tình Lê Hữu Trác tả kĩ mọi sự việc mắt thấy tai nghe đến thế. Phải trách những sự ấy quá lạ lẫm, đặc biệt, nó khác với lẽ thường vốn có.
Tác phong làm việc của họ thật khó hiểu! Đi đón một danh y chữa trị cho bậc vua chúa, họ “gõ cửa rất gấp” “vừa nói vừa thở hổn hển” vào “buổi sáng tinh mơ”. Thời gian ấy, cách gọi cửa ấy khiến ta ngỡ tình trạng người bệnh đà nguy kịch lắm. Đó là chưa nhắc đến cách vội vã khi đi đường của họ “cáng chạy như ngựa lồng, tôi bị xóc một mẻ, khổ không nói hết”. Thân già, phận thấp, tác giả đành cam lòng chứ còn biết làm sao?!
Nhưng thật bất ngờ! Vào đến phủ chúa, ta không khỏi kinh ngạc. Những tưởng nó thê lương, đau đớn vì sắp mất đi một người thân (gọi, “mời” thầy thuốc vội vã đến thế kia mà?) nhưng không, vội và, “hổn hển” là ai kia, là lũ lính hầu, bọn “đầy tớ” “giữ cửa”, “vệ sĩ”,… chứ không phải bậc quan, bậc chúa. Trước khi vào hầu mạch cho thế tử, Hải Thượng Lãn Ông phải “đi qua mấy lần cửa”, qua “những dãy hành lang quanh co nối tiếp nhau”, rồi lại “qua mấy lần cửa” (có lẽ vì nhiều cửa quá không thê nhớ hết, đếm hết), đến điếm “Hậu mà quân túc trực”, tiếp tục “đến một cái cửa lớn” “qua dãy hành lang phía tây đến một cái nhà lớn thật cao và rộng”, lại “qua một cửa nữa, đến một cái lầu cao và rộng”,… Theo bước chân Quan Chánh đường ta tưởng như tác giả đang đi vào một mê cung chứ đâu phải nơi người ở. Chúng còn kiểu cách đến mức đặt tên cho mỗi nơi, mỗi chốn: nhà “Đại đường”, nhà “Quyển bồng”, “Gác tía”, riêng vì kiêng chữ “thuốc” nên Gác tía còn được gọi là “phòng trà”. Đi qua những nơi ấy nhưng vẫn chưa được gặp được người cần gặp. Phủ chúa cao rộng sâu và xa quá, có lè vì vậy mà tiếng khóc muôn dân không vang tới, nó chặn kín con đường họ Trịnh về với cái Nhân, cái Thiện của con người. Đến “phòng trà” mới biết còn “bảy, tám người” ngự y cũng đang túc trực. Vậy mới biết, cách sinh hoạt của phủ chúa cầu kì, rườm rà, câu nệ vô cùng. Chỉ vì một người mà làm khổ đến bao người. Từ một ông thầy thuốc “quèn” phải dậy từ tinh mơ, “chịu xóc một mẻ, khổ không nói hết”, phải đi bộ qua quãng đường lê thê những lính canh, lính kiểm đến những ngự y phải túc trực hàng ngày, hao tốn thì giờ nơi đây. Trong khi ấy dân gian vẫn rên xiết, khổ đau. Chưa hết, vượt một quãng đường khó khăn, dài dặc như vậy đến, chỉ vì quanh thế tử khi ấy có “Thánh thượng” cùng các phi tần đang ở xung quanh, họ lại phải quay trở lại điếm Hậu mã! Việc ăn uống nơi này xa hoa vô cùng “mâm vàng chén bạc, đồ ăn toàn của ngon vật lạ”. Thật cơm nhà giàu đổ cho chó để chốn dân gian người chết đói vô cùng! Sau bao nhiêu chờ đợi, cuối cùng người đọc cũng được tiếp kiến mặt rồng.
Bên ngoài khung cảnh xinh đẹp rộn rã là thế nhưng nơi vua nằm chúa ở lại “tối om, không thấy có cửa ngõ gì cả”. Không gian ấy giống như một cái hang, ẩn chứa nhiều khuất tất, lạ lùng. Thứ ánh sáng duy nhất tác giả thấy được là ánh sáng của nến sáp, từ đây ánh mặt trời không chiếu tới. Điều đó hàm một ý rất tinh: Mặt trời mang sự sống cho muôn loài nhưng rõ ràng kẻ trong này không được thần Dương ban ánh sáng, không được ban phúc lành, tất sẽ ốm đau bệnh hoạn. Điều đó được chứng minh ngay bởi dáng vẻ thân hình của thế tử “ở trong chốn màn che trướng phủ, ăn quá no mặc quá ấm nên tạng phủ yếu đi (…) tinh khí khô hết, da mặt khô, rốn lồi to, gân thời xanh, tay chân gầy gò”. Tình cảnh ấy thật thảm thương. Đứa trẻ thiếu ăn thiếu mặc gầy gò ốm yếu đã đành, nay chỉ vì dư ăn dư mặc mà ốm yếu thì thật mỉa mai đau xót. Nhìn con người ấy mặc thế tử ấy hỏi sao đảm đương được việc triều chính, gánh sao cho được sơn hà? Lối sinh hoạt nơi phủ chúa xa hoa, nghi thức mà ám muội, bệnh hoạn quá mức.
Qua miêu tả đời sống nơi phủ chúa, Lè Hữu Trác hàm một ý phê phán nhẹ nhàng lối sống xa hoa, cầu kì nơi phủ chúa. Đặt đoạn trích nói riêng và tác phẩm nói chung vào hoàn cảnh lịch sử ta mới thấy hết giá trị hiện thực của ngòi bút Hải Thượng Lãn Ông. Tác phẩm đã tố cáo sự ích kỉ, chuyên quyền của phủ chúa, đời sống nơi này chính là nguyên nhân gây nên mọi tai vạ đau thương cho đất nước.
Lê Hữu Trác bằng Thượng kinh ki sự đà chứng minh bản thân ông không chỉ là một người thầy thuốc có tài mà còn là một ngòi bút có tâm, có tấm lòng nhân ái, vì dân mà trách kẻ có tội. Thượng kinh kí sự đã ghi danh thêm tên tuổi một văn nhân có tài vào lịch sử văn học nước nhà.
Tìm kiếm google:

Xem thêm các môn học

Bài văn mẫu 11


Copyright @2024 - Designed by baivan.net