Phân tích thái độ của nhân vật Huấn Cao đối với viên quản ngục trong "Chữ người tử tù" (Nguyễn Tuân)

Đề bài: Phân tích thái độ của nhân vật Huấn Cao đối với viên quản ngục trong "Chữ người tử tù" (Nguyễn Tuân)

[toc:ul]

Bài mẫu số 1: Phân tích thái độ của nhân vật Huấn Cao đối với viên quản ngục trong "Chữ người tử tù"

Ban đầu, do hiểu lầm sự thiết đãi của viên quản ngục nên ông mới có thái độ như vậy. Sau khi hiểu được sự thật, ông cảm động và thay đổi thái độ. Huấn Cao và quản ngục gặp nhau bởi lòng yêu mến và tôn sùng cái đẹp. Con đường từ thế đối lập đến sự hòa hợp của họ là con đường trong sự tỏa hương của con chữ thiên lương.

Bài làm

Một tác phẩm văn học có giá trị thực sự khi nó đã khép lại mà dư âm vẫn còn vang vọng trong lòng người đọc. Dư âm đó có thể là một chi tiết nghệ thuật, một lời thoại, hoặc một hình tượng nhân vật. Nếu như Chí Phèo của Nam Cao để lại dư âm về hình tượng nhân vậy điển hình Chí Phèo thì Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân đã thực sự gây ấn tượng sâu sắc với hình tượng nhân vật Huấn Cao - một con người văn võ song toàn, tài hoa lãng mạn nhưng một đời dang dở bị giam vào chốn ngục tù chờ án chém. Điều này được thể hiện rõ ràng diễn biến thái độ của ông đối với viên quản ngục.

"Chữ người tử tù" được rút ra từ tập truyện "Vang bóng một thời" - một trong những tác phẩm viết về một thời còn vang bóng, khi chế độ thực dân Pháp đã đặt xong ách đô hộ lên nước ta, chế độ phong kiến suy tàn, nho sĩ cuối mùa trở thành những người lạc lõng. Thời buổi ấy, có những người buông xuôi theo thời thế nhưng vẫn mâu thuẫn sâu sắc với xã hội đương thời. Họ dường như cố ý lấy cái tài hoa, ngông nghênh của mình đối lập với xã hội phàm tục, phô diễn lối sống đẹp thanh cao của mình như một cách để phản ứng lại trật tự xã hội đương thời. Trong số những người tài hoa ấy, nổi bật lên hình tượng nhân vật Huấn Cao trong "Chữ người tử tù".

Nguyễn Tuân đặt Huấn Cao vào hoàn cảnh đầy éo le, bi kịch nhằm bộc lộ tính cách nhân vật. Người tài hoa như Huấn Cao là một tử tù mắc tội mưu phản, bị giam vào ngục chờ ngày xử trảm. Ở đây, ông đã gặp viên quản ngục, diễn biến tâm trạng Huấn Cao trong giai đoạn đó thực sự để lại nhiều ấn tượng về nhân cách của người tử tù khí phách hơn người.

Huấn Cao là một nhà nho hào kiệt dám chọc trời quấy nước, chí lớn không thành mà vẫn hiên ngang, chết chém cũng không sợ. Huấn Cao có một tinh thần gang thép bất khuất. Ngay cả khi vào trong ngục, ông vẫn giữ được phong thái khiến người ta phải kính nể. Suốt nửa tháng trong ngục, trước sự biệt đãi của viên quản ngục, Huấn Cao lấy làm lạ nhưng vẫn thản nhiên nhận rượu thịt xem như việc vẫn làm trong cái hứng sinh bình lúc chưa bị giam cầm. Nói với ngục quan bằng thái độ thách thức và tỏ ra khinh bạc đến điều mà không hề lo sợ bị trả thù. Ông không tin rằng giữa chốn bùn nhơ ấy có một bông sen trắng ngát hương, một người có tấm lòng "biệt nhỡn liên tài" như viên quản ngục. Huấn Cao lúc này chỉ coi viên quản ngục là kẻ tiểu nhân lê bước theo chính quyền suy mạt, là tay sai của xã hội bấy giờ, là kẻ thù của ông. Thái độ này của Huấn Cao đã khiến người đọc vô cung cảm phục. Huấn Cao không cúi đầu trước cường quyền, tà lực, ghét cái ác thì ghét đến tận cùng, yêu ghét rõ ràng. Ngay cả trong hoàn cảnh giam cầm nơi ngục tù của kẻ thù vẫn không cúi đầu, không nhân nhượng. Vẻ bất cần thách thức ấy không làm mất đi vẻ đẹp hình tượng của ông mà càng tôn vinh khí phách của ông.

Để rồi sau đó, biết được tấm chân tình của ngục quan, Huấn Cao đã coi viên quản ngục như một tri kỷ. Ông thấy ân hận vì thái độ và suy nghĩ trước đó của mình, vì cách ông đối đáp lại tấm lòng của viên quản ngục. Ông ân hận vì "biết đâu một người như thầy quản lại có tấm lòng biệt nhỡn liên tài", vì "thiếu chút nữa ta đã phụ một tấm lòng trong thiên hạ". Huấn Cao quyết định trao cho viên quản ngục những chữ mà bình sinh chỉ "cũng mới viết hai bộ tứ bình và một bức trung đường cho ba người bạn thân". Một người coi thường vàng ngọc, không vì quyền thế mà "ép mình viết bao giờ", giờ đây lại sẵn sàng viết cho viên quản ngục, âu cũng bởi cảm động tấm lòng của một người có thiên lương trong sáng.

Sự thay đổi trong thái độ của Huấn Cao đối với viên quản ngục tưởng chừng phi lý nhưng thực ra vô cùng hợp lý với diễn biến tâm trạng và tính cách của Huấn Cao. Huấn Cao là người khí phách, tài hoa hơn người nhưng ông biết trân trọng những người yêu cái đẹp, thiên lương trong sáng. Ban đầu, do hiểu lầm sự thiết đãi của viên quản ngục nên ông mới có thái độ như vậy. Sau khi hiểu được sự thật, ông cảm động và thay đổi thái độ. Huấn Cao và quản ngục gặp nhau bởi lòng yêu mến và tôn sùng cái đẹp. Con đường từ thế đối lập đến sự hòa hợp của họ là con đường trong sự tỏa hương của con chữ thiên lương.

Cảnh cho chữ chính bởi vậy trở một cảnh tượng xưa nay chưa từng có. Nghệ thuật tương phản đối lập được sử dụng khéo léo và có hiệu quả đã làm nổi bật hơn bao giờ hết vẻ đẹp trang trọng, uy nghi, rực rỡ, hào quang, bất tử của Huấn Cao. Một người xưa nay rất "khoảnh" trong việc cho chữ, nay lại chấp nhận cho chữ trong một khung cảnh buồng tối chật hẹp, ẩm ướt, tường đầy mạng nhện, đất bừa bãi phân chuột, phân gián… Người cho chữ thì "cổ đeo gông, chân vướng xiềng". Chức vị xã hội không ngăn được người tử tù và viên quản ngục gặp gỡ. Ngục tù tối tăm ẩm mốc không ngăn được Huấn Cao thể hiện bản lĩnh. Họ gặp nhau giữa không gian nhà tù nhưng tâm hồn bỗng hóa tri kỷ trên khoảng trời tự do của tâm hồn và cái đẹp. Trong không nền xấu xí, u tối cái đẹp lại càng tỏa sáng rực rỡ hơn.

Có thể nói, với bút pháp xây dựng nhân vật độc đáo, Nguyễn Tuân tạo dựng thành công hình tượng Huấn Cao vừa cao ngạo, bất khuất, vừa chân tình, tài hoa, biết yêu quý nghệ thuật, trân trọng những tấm lòng trong thiên hạ, biết đề cao thiên lương con người. Qua diễn biến tâm lí của Huấn Cao, Nguyễn Tuân đã khẳng định: cái đẹp, cái thiện có thể sinh ra từ cái ác – xấu nhưng không thể sống chung với nó và cái đẹp có thể cảm hóa con người. Cái đẹp, cái thiện nhất định sẽ chiến thắng.

Huấn Cao giống như “thanh âm trong trẻo chen vào giữa một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn xô bồ”, nổi bật lên giữa bao hỗn tạp dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân - bậc thầy của ngôn từ vô song. Để khi tác phẩm khép lại, hình tượng Huấn Cao vẫn đọng lại mãi trong trái tim người đọc.

Bài mẫu số 2: Cảm nhận thái độ của nhân vật Huấn Cao đối với viên quản ngục trong "Chữ người tử tù"

Ta nhận ra được một triết lí,một triết lí mà cho tới tận bây giờ nó vẫn giữ nguyên giá trị:’cái đẹp không thể chung sống với cái xấu xa thấp hèn và con người chỉ có thể thưởng thức được cái đẹp, nếu như giữ được bản chất trong sáng”. Ý tứ sâu xa của Huấn cao thật hay thật sâu sắc

Bài làm

Nguyễn Tuân là một nhà văn người tài hoa hơn người, dường như văn chương của ông cũng từ cái tài hoa đó mà sản sinh ra. Và chỉ cần dựa vào một hình tượng có thật của Việt Nam- Cao Bá Quát , Nguyễn Tuân cũng đã có thể tạo dựng được câu chuyện về người tử tù có tên là Huấn Cao, nhân vật Huấn Cao cũng đã được xây dựng lên là một nhân vật khí phách kiên cường, nhân cách cao thượng và rất đỗi tài hoa. Bằng việc chỉ cần thông qua vẻ đẹp của viên quản ngục, Nguyễn Tuân dường như cũng đã khẳng định sự chiến thắng của cái đẹp, cái cao thượng đối với cái xấu xa thấp hèn.

Có thể nói rằng chính thái độ của Huấn Cao cũng chính là cái nhìn của tác giả về mọi thứ xung quanh cũng là những cách đánh giá của tác giả về những chân lí trong cuộc sống hay cả về cái đẹp cái thiện . Nhân vật Huấn Cao trước hết là người hết sức tự trọng, ông đã “không vì vàng ngọc hay quyền thế mà ép mình viết câu đối bao giờ”, và cả “tính ông vốn khoảnh, trừ chỗ tri kỉ, ông ít chịu cho chữ”. Ông Huấn Cao dường như đã coi chữ là thứ vô cùng quý giá và chữ ấy không phải ai muốn ông đều cho. Ông như được xây dựng lên là một con người sống hiên ngang bất khuất, “chọc trời khuấy nước” và hơn thế ông lại có “hoài bão tung hoành”, “đến cái cảnh chết chém” dường như ông cũng chẳng sợ.Huấn Cao đặc biệt khinh bỉ những người đại diện cho quyền lực thống trị. Và chính dưới mắt ông, chúng chỉ là một lũ “tiểu nhân thị oai”.

Có lẽ chính vì vậy mà tuy dưới quyền cai quản của chúng, ông vẫn cố tình tỏ ra khinh bạc. Khi được xuất hiện trước mặt viên quản ngục khi gõ gông nặng lên tới 7,8 tạ ,“đánh huỳnh một cái” và “lãnh đạm” cũng như sự “không thèm chấp”. Và sau khi quản ngục khép nép mạnh dạn hỏi Huấn Cao rằng “ngài có cần gì thêm nữa xin cho biết. Tôi sẽ cố gắng chu cấp”. Lúc này ở nhân vật Huấn Cao trả lời với một giọng điệu đầy khinh bỉ đó chính là “người hỏi ta muốn gì? Ta chỉ muốn một điều. Là ngươi đừng đặt chân vào đây”. Lúc này dừng như không muốn không gian xung quanh ông bị chính những cái thấp hèn và dường như những con người chỉ biết cung phụng cho những tầng lớp trong xã hội cũ có thể quấy rầy mình. Ta như đã thấy tâm hồn ông rất thanh cao nhưng ông cũng là người khẳng khái không sợ uy lực của cái xấu. Chính sự kiêu sa là thế, đến khi hiểu được tấm lòng của viên quản ngục , Huấn Cao dường như cũng chẳng những vui lòng nhận lời cho chữ, mà còn chân thành thốt lên rằng “ ta cảm cái lòng biệt nhỡn liên tài của các người. Nào ta có biết đâu một người như thầy quản đây là lại có những sở thích cao quý như vậy. Thiếu chút nữa ta phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ”.

Không những cho chữ, những lời khuyên răn chân thành của Huấn Cao giành cho viên quản ngục quả là một người có tấm lòng nhân hậu độ lượng: “tôi bảo thực đấy, thầy quản nên tìm về quê mà ở đã, thầy hãy thoát khỏi cái nghề này đi đã, rồi hãy nghĩ đến chuyện chơi chữ. Ở đây, khó giữ thiên lương cho lành vững và rồi cũng đến nhem nhuốc mất cái đời lương thiện đi”. Ta nhận ra được một triết lí,một triết lí mà cho tới tận bây giờ nó vẫn giữ nguyên giá trị:’cái đẹp không thể chung sống với cái xấu xa thấp hèn và con người chỉ có thể thưởng thức được cái đẹp, nếu như giữ được bản chất trong sáng”. Ý tứ sâu xa của Huấn cao thật hay thật sâu sắc

Nhân vật Huấn Cao được xem là con người hết sức tài hoa và dường như tài hoa đến nỗi viên quản ngục coi việc xin được chữ của ông là “có một vật báu trên đời”. Dường như hình tượng Huấn Cao lại như càng trở nên lộng lẫy bởi tư thế hiên ngang đường hoàng đúng là tư thế của người anh hùng. Dường như cũng với bản chất kiên cường, cho dù đã sa cơ thất thế Huấn Cao vẫn có tư thế ung dung, tự tại của một người “chọc trời khuấy nước” và như đã coi khinh cái chết. Nhất là khi ở trong tù, thì ông Huấn Cao vẫn thản nhiên ăn thịt uống rượu “coi đó là một việc vẫn làm trong cái hứng bình sinh”.

Dường như đoạn cho chữ ở cuối truyện có thể xem là một đoạn hay nhất, kết tinh nghệ thuật của toàn tác phẩm. Tác giả Nguyễn Tuân dường như cũng đã sử dụng thủ pháp đối được sử dụng đầy hiệu quả thẩm mĩ. Và chính việc cho chữ vốn là một việc thanh cao, một sáng tạo nghệ thuật với lụa trắng, với lụa thơm, và chính với nét chữ tươi tắn đẹp đẽ như vậy như lại được tiến hành trong một vùng tối chật hẹp ẩm ướt, tường đầy mạng nhện còn có cả tổ rệp, đất bừa bãi phân chuột, phân gián. Hơn thế đó, ta như nhận thấy được đó chính là một sự đối lập giữa hình ảnh kì vĩ của người tù “cổ đeo gông, chân vướng xiềng” như lại đang ung dung phóng chữ tô chữ tài hoa trên tấm lụa bạch như một nghệ sĩ hoàn toàn tự do. Và cũng hoàn toàn được tự chủ với hình ảnh của thầy thơ lại “run run bưng chậu mực” và chính cả hình ảnh viên quản ngục khúm núm như đã cất những đồng tiền kẽm đánh dấu ô chữ, rồi chấp tay vái người tù, như đã “nói một câu mà dòng nước mắt rỉ vào kẽ răng làm cho nghẹn ngào nói rằng “Kẻ mê muội này xin bái lĩnh!”. Dường như ở đây là sự chiến thắng của cải đẹp, cái tài hoa và nhân cách đối với xấu xa nhơ bẩn. Và cũng với ý nghĩa tư tưởng của thiên truyện là ở đấy. Ở nhân vật này, chữ “tài” và chữ “tâm” kết hợp hài hòa với nhau. Ông cũng như nhiều nhân vật chính diện của Nguyễn Tuân trong tác phẩm đặc sắc “Vang bóng một thời” dường như cũng đã nhất thiết phải là một con người tài hoa. Song, ta như bắt gặp ở nhân vật Huấn Cao còn có vẻ đẹp của một con người đầy khí phách và có trách nhiệm đối với thời cuộc.

Huấn Cao là một nhân vật được ví như “thanh âm trong trẻo chen vào giữa một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn xô bồ”, nhân vật Huấn Cao dường như cũng đã nổi bật lên giữa bao nhiêu thứ hỗn tạp chính là một âm trong trẻo không bao giờ dứt đoạn.

Tác phẩm đặc sắc“Chữ người tử tù” với hình tượng của Huấn Cao và thái độc của ông, có thể nói những diễn biến tâm lí và tính cách của ông thay đổi thay từng chặng. Và thông qua các nhân vật Huấn Cao và viên quan ngục, ta như lại thấy tác giả không hề đối lập tài với tâm, và cả cái đẹp với thiên lương trong sạch của con người. Và tuy được đặt trong một hoàn cảnh vô cùng oái oăm, nhưng khi cái đẹp, cái tài, cái tâm không bị tách rời, thì ta như thấy chất nghệ thuật cảm hóa con người, dù phải sống trong bùn như viên quản ngục nhưng thật sự yêu cái đẹp thì vẫn không mất khả năng hướng thiện của mình.

Bài mẫu số 3: Suy nghĩ về thái độ của nhân vật Huấn Cao đối với viên quản ngục trong "Chữ người tử tù"

Thái độ của Huấn Cao trước sau có khác: trước cao ngạo, lạnh nhạt, sau thân mật, ân cần nhưng vẫn giữ phong thái đĩnh đạc, ung dung, độ lượng của một bậc chính nhân quân tử đối với nét đẹp trong phẩm cách con người, dù là nhỏ nhất, dù ở hoàn cảnh trớ trêu nhất. Thiên truyện chấm dứt bằng lời nói rưng rưng nghẹn ngào nhiều ý nghĩa của viên quản ngục.  

Bài làm

Chữ người tử tù là truyện ngắn in trong tập Vang bóng một thời, xuất bản năm 1940. Đây là tác phẩm xuất sắc thể hiện rõ nhất quan niệm của Nguyễn Tuân về Cái Đẹp. Huấn Cao, nhân vật chính của truyện là một con người siêu việt, một nhân cách trong sáng. Qua sự thay đổi thái độ của Huấn Cao đối với viên quản ngục, người đọc hiểu rõ hơn tâm hồn phong phú, cao quý của con người tài hoa ấy.  

Ngay từ đầu tác phẩm, qua cuộc trao đổi giữa viên quản ngục và thầy thơ lại, Nguyễn Tuân đã giới thiệu Huấn Cao như một nhân vật đặc biệt, ông là người văn võ kiêm toàn, có tài viết chữ Hán nhanh và đẹp nổi tiếng khắp tỉnh Sơn. Huấn Cao bị vua quan coi là kẻ cực kì nguy hiểm, dám cầm đầu “quân phiến loạn” chống lại triều đình.   Vừa có khí phách ngang tàng, vừa tài hoa thông tuệ, Huấn Cao quả là một tử tù đặc biệt. Có lẽ do cảm phục tài năng và nghĩa khí của Huấn Cao qua lời đồn đại nên viên quản ngục đã dành cho ông thái độ ưu ái khác thường. Ngày ngày, viên quản ngục sai thầy thơ lại mang rượu thịt xuống buồng giam tử tù cho Huấn Cao. Trước sự biệt đãi đó, thái độ Huấn Cao có những biến đổi khá phức tạp và chính sự thay đổi đó cho chúng ta hiểu rõ hơn về tâm hồn và tính cách của ông.  

Những ngày đầu trong ngục tối, thái độ Huấn Cao hoàn toàn dửng dưng và khinh bạc trước sự săn sóc quá đầy đủ ấy: Suốt nửa tháng, ở trong buồng tối, ông Huấn Cao vẫn thấy một người thơ lại gầy gò, đem rượu đến cho mình uống trước giờ ăn bữa cơm tù với một thái độ cực kì lễ phép: Thầy quản chúng tôi có ít quà mọn này biếu ngài dùng cho ấm bụng. Trong buồng đây lạnh lắm… Ông Huấn Cao vẫn thản nhiên nhận rượu thịt, coi như đó là một việc vẫn làm trong cái hứng sinh bình, lúc chưa bị giam cầm. Đến khi viên quản ngục đích thân xuống buồng giam, lễ độ, cung kính tôn xưng Huấn Cao là người có nghĩa khí và xin ông cho biết có cần gì thêm thì cứ nói để lo cho chu tất thì Huấn Cao đáp lại một cách trịch thượng: Ngươi hỏi ta muốn gì? Ta chỉ muốn có một điều. Là nhà ngươi đừng đặt chân vào đây. Đó là thái độ bất cần của một người anh hùng khí phách ngang tàng, không khuất phục trước cường quyền: Ông Huấn đã đợi một trận lôi đình báo thù và những thủ đoạn tàn bạo của quan ngục bị sỉ nhục. Đến cảnh chết chém, ông còn chẳng sợ nữa là những trò tiểu nhân thị oai này.  

 Nhưng không như ông Huấn Cao nghĩ, viên quản ngục khi nghe xong câu trả lời, y chỉ lễ phép lui ra với một câu: “Xin lĩnh ý”. Và từ hôm ấy, cơm rượu lại vẫn đưa đến đều đều và có phần hậu hơn trước nữa. Ông Huấn càng ngạc nhiên nữa: năm bạn đồng chí của ông cũng đều được biệt đãi như thế cả.   Nhiều khi, ông bận tâm nghĩ đến sự tươm tất của viên quản ngục và cho rằng hẳn là viên quản ngục muốn dò đến những điều bí mật của ta, nhưng không phải, vì ông đã khai hết bên ti Niết cả rồi. Ngoài thái độ khinh bạc, lạnh lùng, ông Huấn Cao còn phải bận tâm nghĩ đến sự tươm tất của quản ngục. Giữa chốn ngục tù tăm tối, tấm lòng của viên quản ngục được Nguyễn Tuân ví như thanh âm trong trẻo chen vào giữa một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn, xô bồ. Có lẽ, sự dịu dàng và lòng biết giá người, biết trọng người ngay của viên quản ngục đã làm Huấn Cao động lòng.  

Sự hiểu lâm và thái độ khinh bạc của Huấn Cao đối với viên quản ngục mất hẳn trong một tình huống đầy kịch tính: Một buổi chiều lạnh, viên quản ngục tái nhợt người đi sau khi tiếp đọc công văn. Quan Hình bộ Thượng thư trong Kinh bắt giải ông Huấn Cao và các bạn đồng chí của ông vào Kinh. Pháp trường lập ở trong ấy kia. Ngày mai, tinh mơ, sẽ có người đến giải tù đi. Viên quản ngục vốn đã tin được thầy thơ lại, cho lính gọi lên, kể rõ tâm sự mình. Thầy thơ lại cảm động nghe xong chuyện, nói: “Dạ bẩm, ngài cứ yên tâm, đã có tôi”. Rồi chạy ngay xuống phía trại giam ông Huấn, đấm cửa buồng giam, hớt hơ hớt hải kể cho tử tù nghe rõ nỗi lòng viên quản ngục, và ngập ngừng báo luôn cho ông Huấn biết việc về Kinh chịu án tử hình.  

Sau khi nghe thầy thơ lại hớt hải bày tỏ ước nguyện tha thiết của quản ngục, Huấn Cao đã thay đổi hẳn thái độ. Lúc này, Huấn Cao mới vỡ lẽ vì sao có những hành động đối xử lạ lùng của thầy trò viên quản ngục và đồng thời nhận ra rằng viên quản ngục là hạng người biết quý Cái Đẹp. Ông Huấn Cao lặng nghĩ một lát rồi mỉm cười: “Về bảo với chủ ngươi, tối nay, lúc nào lính canh trại về nghỉ, thì đem lụa, mực, bút và một bó đuốc xuống đây rồi ta cho chữ.  Chữ thì quý thực. Ta nhất sinh không vì vàng ngọc hay quyền thế mà phải ép mình viết câu đối bao giờ. Đời ta cũng mới viết có hai bộ tứ bình và một bức trung đường cho ba người bạn thân của ta thôi. Ta cảm cái tấm lòng biệt nhỡn liên tài của các người. Nào ta có biết đâu một người như thầy Quản đây lại có những sở thích cao quý như vậy. Thiếu chút nữa, ta đi phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ”, ông cảm động thực sự trước viên quản ngục có tấm lòng biệt nhỡn liên tài, biết thưởng thức thú chơi chữ đẹp và trân trọng người sáng tạo ra Cái Đẹp. Trong câu nói của Huấn Cao với thầy thơ lại có chút ân hận và tự trách về sự hiểu lầm trước đó.  

Ngay đêm hôm ấy, một cảnh tượng xưa nay chưa từng có đã diễn ra ở chốn ngục tù. Đó là cảnh Huấn Cao cho chữ. Cái ẩm ướt, tăm tối của buồng giam tương phản với vẻ trang trọng, thanh cao của những nét chữ đẹp tươi do Huấn Cao viết ra và sự thăng hoa từ tâm hồn của hai kẻ tri âm. Cũng bởi yêu mến tính cách của viên quản ngục nên Huấn Cao đã dành cho ông ta lời khuyên chân thành và thấm thía: Ở đây lẫn lộn. Ta khuyên thầy Quản nên thay chốn ở đi… Thầy Quản nên tìm về nhà quê mà ở đã… Ở đây, khó giữ thiên lương cho lành vững và rồi cũng đến nhem nhuốc mất cái đời lương thiện đi.  

 Lần này là lần thứ tư và cũng là lần cuối cùng trong đời Huấn Cao cho chữ. Ông tự biết giá trị những chữ do mình viết ra là rất quý. Ba lần trước, ông cho chữ ba người bạn thân. Lần này, ông cho chữ kẻ mà trước đây chỉ ít phút, ông căm ghét và khinh miệt. Vậy điều gì đã xảy ra trong tâm hồn ông, khiến ông đi đến quyết định cho chữ quý? Lòng tự trọng của Huấn Cao đã gặp lòng trân trọng của viên quản ngục. Không phải chỉ là sự hiểu biết mà còn là sự thông cảm, hơn nữa là sự kính trọng đã nâng viên quản ngục lên vị trí của một bậc tri kỉ, một tấm lòng liên tài hiếm có trong thiên hạ. Chính điều đó làm cho Huấn Cao cảm động sâu sắc.  

Cảnh ông Huấn Cao cho chữ vừa lạ, vừa đẹp như một ảo ảnh, một ánh hào quang không phải của thế giới này mà của cõi nào trong thần thoại – một cảnh tượng xưa nay chưa từng có: Trong một không khí khói tỏa như đám cháy nhà, ánh sáng đỏ rực của một bó đuốc tẩm dầu rọi lên ba cái đầu người đang chăm chú trên một tấm lụa bạch còn nguyên vẹn lần hồ. Khói bốc tỏa cay mắt, họ dụi mắt lia lịa. Một người tù cổ đeo gông, chân vướng xiềng, đang đậm tô nét chữ trên tấm lụa trắng tinh căng trên mảnh ván. Người tù viết xong một chữ, viên quản ngục lại vội khúm núm cất những đồng tiền kẽm đánh dấu ô chữ đặt trên phiến lụa óng. Và cái thầy thơ lại gầy gò, thì run run bưng chậu mực. Thay bút con, đề xong lạc khoản, ông Huấn Cao thở dài, buồn bã đỡ viên quản ngục đứng dậy và đĩnh đạc bảo:   -    Ở đây lẫn lộn. Ta khuyên thầy Quản nên thay chốn ở đi. Chỗ này không phải là nơi để treo một bức lụa trắng với những nét chữ vuông vắn tươi tắn nó nói lên những cái hoài bão tung hoành của một đời con người… Tôi bảo thực đấy: Thầy Quản nên tìm về nhà quê mà ở đã, thầy hãy thoát khỏi cái nghề này đi đã, rồi hãy nghĩ đến chuyện chơi chữ.

 Ở đây, khó giữ thiên lương cho lành vững và rồi cũng đến nhem nhuốc mất cái đời lương thiện đi. Lửa đóm cháy rừng rực, lửa rụng xuống nền đất ẩm phòng giam, tàn lửa tắt nghe xèo xèo.   Ba người nhìn bức châm, rồi lại nhìn nhau.   Ngục quan cảm động, vái người tù một vái, chắp tay nói một câu mà dòng nước mắt rỉ vào kẽ miệng làm cho nghẹn ngào: “Kẻ mê muội này xin bái lĩnh” Lúc trước, ba người chưa hiểu nhau, nhưng trong thời khắc đặc biệt này, họ gặp nhau ở một điểm chung là tấm lòng tha thiết yêu mến và trân trọng Cái Đẹp – Cái Đẹp chữ viết đi đôi với Cái Đẹp tâm hồn.  

Sự thay đổi đột ngột trong thái độ của Huấn Cao đối với viên quản ngục là hoàn toàn hợp lí, phù hợp với con người và tính cách của ông. Tại sao trước sự biệt đãi của viên quản ngục, Huấn Cao lại thản nhiên đến lạnh lùng? Có lẽ viên quản ngục là người hiểu ông Huấn hơn cả nên không lấy làm oán thù thái độ của ông Huấn. Y cũng thừa hiểu những người chọc trời khuấy nước đến trên đầu người ta cũng còn chẳng biết là có ai nữa, huống chỉ cái thứ mình chỉ là một kẻ tiểu lại giữ tù. Bản chất ngang tàng, cứng cỏi của Huấn Cao uy vũ và tiền bạc không sao mua chuộc, lung lạc nổi thì sá gì sự đãi ngộ ít ỏi chốn lao tù! Huấn Cao giữ mình bởi ông chưa hiểu gì về viên quản ngục, ông cảnh giác đề phòng những âm mưu, mánh khóe thâm độc mà ông từng biết. Hơn nữa, giữa Huấn Cao và viên quản ngục có một khoảng cách rất lớn. Đó là khoảng cách giữa một kẻ tử tù và một kẻ đại diện cho cường quyền, bạo lực. Sâu xa hơn là khoảng cách giữa người tài cao đức trọng và kẻ tài thiểu đức sơ trong bậc thang giá trị. Trong hoàn cảnh ấy, thái độ cao ngạo, khinh bạc ban đầu của Huấn Cao là hợp lí. Thái độ ấy không làm cho viên quản ngục nổi giận mà ngược lại, càng khâm phục và kính nể Huấn Cao hơn.  

Nếu như Huấn Cao không thay đổi thái độ đối với viên quản ngục thì đến cuối truyện, chắc hẳn vẻ đẹp của hình tượng Huấn Cao không trọn vẹn. Nhưng Nguyễn Tuân đã không làm như vậy mà ông muốn Huấn Cao trở thành biểu tượng của Cái Đẹp toàn thiện toàn mĩ. Khi biết được ước nguyện của viên quản ngục, Huấn Cao đã vô cùng cảm kích. Sự chuyển biến trong thái độ của Huấn Cao cho chúng ta thấy rõ hơn phẩm chất cao thượng của ông. Ngoài tài năng và khí phách hơn người, Huấn Cao còn là một nhân cách lớn, biết nhìn nhận và trân trọng vẻ đẹp tâm hồn, dù vẻ đẹp ấy khuất lấp ở chốn không dành cho nó. Sự thay đổi đột ngột trong thái độ của Huấn Cao là điều dễ hiểu, vì ông đã nhận ra tấm lòng biệt nhỡn liên tài, sự dịu dàng và biết trọng người ngay của viên quản ngục. Mặt khác, Huấn Cao vốn có thiên lương trong sáng, có cái tâm tha thiết với con người, với cuộc đời cho nên sự gặp gỡ, đồng cảm giữa ông và viên quản ngục là điều tất yếu.  

Sự thay đổi thái độ của Huấn Cao đối với viên quản ngục có một ý nghĩa quan trọng trong tác phẩm. Qua đó, chúng ta hiểu sâu hơn bản chất cao quý của Huấn Cao. Ngoài tài năng, khí phách, Huấn Cao còn có một tâm hồn đẹp, một nhân cách cao quý. Chiều hướng tích cực trong cách nhìn nhận, đánh giá của Huấn Cao cho thấy viên quản ngục cũng là người đáng nể trọng. Đúng như nhận xét của Nguyễn Tuân, viên quản ngục là thanh âm trong trẻo chen vào giữa một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn, xô bồ. Tấm lòng biệt nhỡn liên tài, ý thức bảo vệ, gìn giữ Cái Đẹp như một báu vật ở đời của viên quản ngục quả là hiếm hoi trong xã hội phong kiến suy tàn thời ấy.  

Thái độ của Huấn Cao trước sau có khác: trước cao ngạo, lạnh nhạt, sau thân mật, ân cần nhưng vẫn giữ phong thái đĩnh đạc, ung dung, độ lượng của một bậc chính nhân quân tử đối với nét đẹp trong phẩm cách con người, dù là nhỏ nhất, dù ở hoàn cảnh trớ trêu nhất. Thiên truyện chấm dứt bằng lời nói rưng rưng nghẹn ngào nhiều ý nghĩa của viên quản ngục.  

Nguyễn Tuân đã thành công khi đặt hai nhân vật Huấn Cao và viên quản ngục cạnh nhau. Hai nhân vật này bổ sung tính cách và soi sáng cho nhau để tôn vinh giá trị trường tồn của Cái Đẹp trong tác phẩm.   Với tập truyện Vang bóng một thời, Nguyễn Tuân đã đạt được ước nguyện khi tìm về và trân trọng ca ngợi những vẻ đẹp tinh thần truyền thống của dân tộc. Tác phẩm Chữ người tử tù của ông đã để lại dấu ấn không thể phai mờ trong lòng người đọc, trong đó hình tượng Huấn Cao tượng trưng cho vẻ đẹp lí tưởng mà con người tôn thờ và luôn khát khao vươn tới.  

 Viết Chữ người tử tù, Nguyễn Tuân có ngụ ý sâu xa gì nữa không? Điều chắc chắn là tác giả muốn nói lên nỗi tiếc nuối khôn nguôi của mình đối với một con người tài giỏi, nghĩa khí, một nhân cách lớn lao ở cái thời đất nước suy vong. Đồng thời, ông cũng kín đáo lồng vào đó nỗi đau chung cho cả dân tộc đang trong vòng nô lệ, tất cả những gì tốt đẹp, tài ba trong đời đều bị lũ thực dân, đế quốc chà đạp, vùi dập một cách bạo tàn.   Chúc các bạn học giỏi!

Bài mẫu số 4: Văn mẫu viết về thái độ của nhân vật Huấn Cao đối với viên quản ngục

Nguyễn Tuân đã xây dựng nên một hình ảnh Huấn Cao vừa cao ngạo vừa bất khuất, chân tình và tài hoa, vừa biết trọng những tấm lòng thiên lương con người. Điều đó đã khẳng định sự thành công trong nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật và một lần nữa ca ngợi phong cách nghệ thuật tài hoa, độc đáo của Nguyễn Tuân.

Bài làm

Truyện ngắn “Chữ người tử tù” được rút trong tập truyện “Vang bóng một thời” của Nguyễn Tuân, là một tác phẩm thành công trong nghệ thuật xây dựng nhân vật. Điều đó được thể hiện rõ nhất qua nhân vật Huấn Cao, đặc biệt là diễn biến tâm lí, thái độ của Huấn Cao đối với viên quản ngục.

Tác giả Nguyễn Tuân đã khắc họa hình tượng nhân vật Huấn Cao là một người anh hùng đầu đội trời chân đạp đất, văn võ song toàn và đặc biệt là có tài viết chữ đẹp, thiên lương trong sáng. Ông có lòng nhân ái bao la, không cam chịu sự áp bức bóc lột của gia cấp phong kiến tàn bạo nên đã lãnh đạo nhân dân nổi dậy khởi nghĩa, tuy nhiên khởi nghĩa không thành công, nên ông đã bị triều đình bát giam, chịu án tử hình. Chính nơi ngục tù là nơi gặp gỡ giữa 2 nhân vật đại diện: một bên là đại diện cho chính quyền phong kiến thối nát – viên quản ngục, một bên là kẻ nổi loạn bất mãn với cường quyền, xã hội ấy – người tử tù Huấn Cao.

Trên bình diện xã hội họ chính là thù địch với nhau. Biết rõ sự đối lập đó nên Huấn Cao đã không tiếc sự coi thường, khinh rẻ viên quản ngục, tưởng rằng viên quản ngục cũng chỉ là lũ xấu xa, bảo thủ. Ngờ đâu con người ấy lại có tấm lòng “biệt nhỡn liên tài”, có sở thích cao quý và có tâm nguyện rất lớn đối với tài viết chữ của ông Huấn. Sau khi hiểu được điều đó ở viên quản ngục, Huấn Cao đã thay đổi thái độ, trước ông khinh miệt bao nhiêu thì nay lại cảm kích bấy nhiếu, ông không những quyết định cho chữ viên quản ngục mà còn dành cho những lời khuyên răn của một nhà Nho chân chính đối với viên quản ngục.

Lần đầu tiên Huấn Cao đứng trước uy quyền của nhà lao, ông vẫn tỏ ra đầy khí thế và hiên ngang, giữ thái độ bình thản, coi thường bằng những hành động đầy thách thức: “Rỗ mạnh gông, cúi đầu thúc mạnh đầu thang xuống đất đánh thuỳnh một cáo” phá đi sự trang nghiêm của chốn ngục tù. Tuy ở trong nhà lao rồi nhưng ông biết rõ thân phận của mình, không chịu khúm núm, nhún nhường với những kẻ tàn bạo, xấu xa. Trong suốt thời gian được viên quản ngục “biệt đãi” vì lòng mến chữ, nhưng ông lại “khing miệt đến điều”, xúc phạm viên quản ngục mà chẳng đếm xỉa tới sự trả thù, vẫn rất ung dung, bình thản. Thái độ ấy của Huấn Cao đối với viên quản ngục là tất yếu, bởi Huấn Cao chưa nhận ra tấm lòng của viên quản ngục, Huấn Cao mang trong mình nhân cách và khí phách của một người anh hùng, ông coi viên quản ngục là kẻ tiểu nhân, tay sai cho chính quyền phong kiến tàn lụi mà ông căm ghét: tất cả bọn chúng đều đáng khinh và đáng coi thường mà thôi. Về sau, Huấn Cao đã cảm thấy ân hận, cảm động mà nói “Ta cảm cái tấm lòng biệt nhỡn liên tài của các ngươi”, “Thiếu chút nữa ta đã phụ một tấm lòng trong thiên hạ”. Chính vì lí đó mà Huấn Cao vốn chỉ cho chữ những người mà ông coi là tri kỉ thì nay ông đã dành tặng nét chữ cuối đời cho viên quản ngục, xem viên quản ngục trở thành tri kỉ của mình. Khuyên răn viên quản ngục nên từ bỏ chốn lao tù này để bảo vệ được cái đời lương thiện. Cái đẹp có thể sinh ra ở nơi bẩn thỉu, nơi của các ác nhưng không thể để nó sống chung với cái ác. Sự thay đổi thái độ của Huấn Cao với viên quản ngục thực ra không bất ngờ hay phi lí, bởi thực tế Huấn Cao là người khí phách hiên ngang nhưng viên quản ngục cũng không hoàn toàn xấu xa, ông vẫn giữ được một “thiên lương trong sáng”, họ tri âm với nhau bởi lòng yêu mến và tôn sùng cái đẹp. Trong nhân cách Huấn Cao con là người tinh tế, độ lượng, biết trọng người có thiên lương, nơi ngục từ, và trong những giây phút cuối đời, nào ngờ đâu ông lại được gặp một tâm hồn tri âm, tri kỉ. Qua diễn biến tâm lí của Huấn Cao, Nguyễn Tuân đã khẳng định: cái đẹp, cái thiện có thể sinh ra từ cái ác – xấu nhưng không thể sống chung với nó và cái đẹp có thể cảm hóa con người.

Nguyễn Tuân đã xây dựng nên một hình ảnh Huấn Cao vừa cao ngạo vừa bất khuất, chân tình và tài hoa, vừa biết trọng những tấm lòng thiên lương con người. Điều đó đã khẳng định sự thành công trong nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật và một lần nữa ca ngợi phong cách nghệ thuật tài hoa, độc đáo của Nguyễn Tuân.

Bài mẫu số 5: Bài mẫu phân tích thái độ của nhân vật Huấn Cao đối với viên quản ngục

Huấn Cao là một hình thượng văn học hoàn mĩ, đẹp đẽ nhất trong nền văn học nước nhà. Nhưng hình tượng ấy không hề cứng nhắc, khô khan. Ngược lại, nó vô cùng sinh động dưới ngòi bút tài hoa của Nguyễn Tuân.

Bài làm

Truyện ngắn “Chữ người tử tù” trong tập truyện “Vang bóng một thời” của Nguyễn Tuân là một tác phẩm tiêu biểu và có nhiều thành công lớn về mặt nội dung lẫn nghệ thuật. Bên cạnh bút pháp lãng mạn, thủ pháp nghệ thuật đối lập,…nghệ thuật xây dựng nhân vật cũng tạo một ấn tượng khó phai mờ, góp phần vào sự thành công của truyện. Điều đó, thể hiện rõ nét quá tâm lí nhân vật Huấn Cao, đặc biệt là diễn biến tâm lí, thái độ của Huấn Cao đối với viên quản ngục.  

Nhân vật Huấn Cao hiện lên trong tác phẩm “Chữ người tử tù” là một anh hung, đầu đội trời, chân đạp đất; có tài viết chữ đẹp; văn võ song toàn. Bởi vì Huấn Cao có tấm lòng nhân ái bao la; ông thương cho nhân dân vô tội, nghèo khổ, lầm than bị áp bức bóc lột bởi giai cấp thống trị tàn bạo nên cùng nhân dân khởi nghĩa chống lại triều đình. Nhưng cuộc khởi nghĩa không thành công, ông bị triều đình bắt giam vào chốn tù với án tử chờ ngày ra pháp trường.   Chính chốn ngục tù tăm tối ấy là nơi diễn ra cuộc gặp gỡ khác thường giữa hai nhân vật khác thường : một bên là viên quản ngục - kẻ đạị diện cho chính quyền phong kiến thối nát, bảo thủ đương thời; một bên là người tử tù Huấn Cao – một kẻ “nổi loạn”; một anh hung vì bất mãn với cường quyền mak đứng lên khởi nghĩa. Xét về phương diện xã hội, họ là hai thế lực thù địch, đối lập nhau.   Hiểu rõ điều này hơn ai hết là Huấn Cao. Ông tỏ vẻ coi thường, khinh miệt viên quản ngụ. Nhưng sự đời nào ai biết trước chuyện gì, tưởng chừng viên quản ngục là kẻ xấu xa, bảo thủ; ai ngờ rằng con người ấy lại có tấm lòng “biệt nhỡn liên tài”, có sở thích cao quý, rất mến và yêu cái tài viết chữ của ông Huấn. Sau khi hiểu được tấm lòng của viên quản ngục, Huấn Cao đã thay đổi thái độ: từ khinh miệt, coi thường đến trân trọng yêu quý và vì thế, ông đã đồng ý cho chữ. Chẳng những vậy, Huấn Cao còn dành những lời nói cuối cùng vọng lên từ tâm hồn của một nhà nho chân chính khuyên giải viên quản ngục, nhắc ông quay về với thiên lương.  

Nguyễn Tuân thật sự rất thành công trong việc khắc họa diễn biến tâm trạn phức tạp của Huấn Cao.   Lần đầu tiên “ra mắt” những quản ngục tính Sơn, trước uy quyền của nhà lao, Huấn Cao vẫ tỏ ran gang ngạo. Ông vẫn giữ thái độ bình thản, xem thường bằng việc làm đầy thách thức : “rõ mạnh gông”. Huấn Cao “cúi đầu thúc mạnh dầu thang xuống đất đánh thuỳnh một cái” làm vỡ tan đi chốn trang nghiêm của chốn ngục tù. Vào trong nhà giam rồi nhưng ông vẫn ngang tàn, ko hề nhún nhường. “Suốt nửa tháng”, trong khi viên quản ngục vì mến tài viết chữ mà hết lòng ưu ái, “biệt đãi” ông và các đồng chí thì Huấn Cao tỏ vẻ : “khinh miệt đến điều”. Khi viên quản ngục “mở khóa cửa buồng kín, khép nép hỏi ông Huấn” : “Ngài muốn gì xin cho tôi biết tôi sẽ cố gắng chu cấp” thì ông khinh bạc, lạnh lung trả lời : “ Ngươi bảo ta cần gì, ta chỉ cần ngươi đừng đặt chân vào đây nữa”. Cách trả lời ngang tàn, ngạo mạn. Huấn Cao không thèm  đếm xỉa đến sự trả thù của kẻ mà ông xúc phạm. Ông rất ung dung, bình thản.  

Thái độ trên của Huấn Cao đối với viên quản ngục là một điều tất yếu. Bởi vì, Huấn Cao chưa hiểu được tấm lòng của một người giữ tù. Trong suy nghĩ của ông Huấn, hắn chỉ là một con người xấu xa, tàn bạo; đại diện cho chính quyền phong kiến thối nát ông thù hận : hắn là kẻ thù của ông. Huấn Cao đâu chỉ tài năng xuất chúng, ông còn có nhân cách và khí phách của một người anh hung. Với nhân cách cao đẹp, trong mắt Huấn Cao, ông chỉ coi viên quản ngục là kẻ tiểu nhân, ăn bám theo cái chính quyền phong kiến tàn lụi mà ông căm ghét : tất cả bọn chúng chỉ là những kẻ đáng khinh, đáng coi thường mà thôi !   Nếu mạch truyện đi theo chiều hướng này thì cũng rất hay. Nhưng Nguyễn Tuân lại không muốn ik theo con đường tầm thường ấy. Mỗi tác phẩm của ông đều phải xuất sắc, đạt đến trình độ hoàn mỹ toàn diện.

Như ta đã biết, Nguyễn Tuân là một nhà văn lãng mạn, ông yêu đến say đắm cái đẹp, ngợi ca cái đẹp, tôn thờ cái đẹp. Nhân vật hiện lên trong các tác phẩm của ông phải là hiện thân của cái đẹp. Nhân vật viên quản ngục không phải là ngoại lệ. Tìm ẩn trong con người ấy là cả một tâm hồn trong sáng với thiên lương cao quý. Để cho người đọc thấy rõ điều đó, Nguyễn Tuân đã mượn thái độ của Huấn Cao đối với viên quản ngục- một thái độ khác hẳn, hoàn toàn ngược lại ban đầu.   Huấn Cao cẩm thấy ân hận, ông “lặng nghĩ một lát rồi mỉm cười”: “Ta cảm thấy tấm lòng biệt nhỡn liên tài của các ngươi. Ta biết đâu một người như thầy quản đây mà lại có sở thích cao quý đến như vậy. Thiếu chút nữa ta đã phụ một tấm lòng trong thiên hạ”. Do đó, dù là một người “vốn khoảnh”, “trừ chỗ tri kỉ”, “ông ít cho chữ” thì nay, những dòng chữ cuối đời của mình, ông dành tặng người quản ngục. Có phải lúc bấy giờ, viên quản ngục đã trở thành “người tri kỉ” của Huấn Cao ?. Một người mà Huấn Cao tin tưởng trao “những nét chữ cuối cùng của mình”. Chẳng những vậy, ông còn coi viên quản ngục như chỗ tri âm mà khuyên giải: “Ta khuyên thầy Quản nên thay chốn ở đi…tìm về quê mà ở…rồi hãy nghĩ đến chuyện chơi chữ. Ơ đây khó giữ cho thiên lương lành vững và rồi cũng nhem nhuốc mất cái đời lương thiện đi”.

Huấn Cao đã thay đổi hoàn toàn thái độ với viên quản ngục. Đoạn văn miêu tả cảnh cho chữ đã gây nhiều rung cảm cho người đọc, xứng đáng là “cảnh tưởng” đẹp nhất trong văn học Việt Nam.   Đó quả thật là “cảnh tưởng xưa nay chưa từng có”. Nguyễn Tuân chắc đã tập trung toàn bộ tài năng và sự lãng mạn, bay bổng vào cảnh này. Viết chữ hay cho chữ thường diễn ra ở nơi trang nhã thanh cao như thư phòng. Còn ở đây, lại diễn ra ở chốn ngục tù tăm tối. Lúc nửa đêm, trong nhà tù, vài canh giờ trước lúc ra pháp trường. Trong không gian trật hẹp, nơi mịt mù, tăm tối kia. Một người tù “cổ mang gông, chân vướng xiềng” đang tô dậm những nét chữ bay bổng “cuối cùng”. Cạnh bên là viên quản ngục đang khúm núm, sợ sệt.   Không gian im lìm, tĩnh lặng, nếu có âm thanh vang lên thì đó là tiếng nói của Huấn Cao, tiếng nói của cái đẹp,…tiếng nói khuyên con người về với cái thiện “ở đây lẫn lộn, ta khuyên thầy…về quê, không ở đây nhem nhuốc” cả tâm hồn lẫn nhân phẩm. Và người quản ngục chỉ có thế nghẹn ngào một tiếng “kẻ mê muội này xin bái lĩnh”. Vậy là cái Đẹp đã cảm hóa cái xấu, cái ác. Lời khuyên chân tình của Huấn Cao : “ Ở đây không phải chốn treo tấm lụa” còn khẳng định một điều : cái Đẹp không thể sống chung, sống cùng, sống lẫn lộn với cái ác, cái xấu.  

Sau câu nói của Huấn Cao, không gian tĩnh lặng để cho cái Đẹp, cái Thiện bồi hồi nhân vang….Và khi ấy, Huấn Cao và người quản ngục từ thế đối lập đã hòa vào nhau chỉ còn niềm tôn kính vô bờ, trân trọng cái Đẹp, cái Thiện của cuộc đời này.   Sự thay đổi thái độ của Huấn Cao với viên quản ngục thực ra không có điều gì bất ngờ và phi lí. Bởi thực tế, Huấn Cao là người khí phách nhưng viên quản ngục không phải hoàn toàn xấu xa. Huống hồ họ gặp nhau nơi lòng yêu mến, tong sung cái đẹp. Vì vậy, ta có thể hiểu con đường họ đi từ thế đối lập sàn hòa hợp trong sự tỏa hương của con chữ thiên lương. Không chỉ vậy, trong nhân cách Huấn Cao, ông còn là con người đầy tinh tế, độ lượng, biết trọng người có thiên lương. Ông vì cảm tấm lòng mà cho chữ kẻ tội đồ của cái Thiện. Nơi ngục tù, lúc cuối đời, ông đâu ngờ lại gặp được một tâm hồn tri âm, tri kỉ!   Miêu tả thành công diễn biến tâm trạng, thái độ của Huấn Cao đối với viên quản ngục, Nguyễn Tuân đã tô đậm nhân cách cho nhân vật Huấn Cao-một con người tài hoa, có cái tâm trong sáng và khí phách hiên ngang, bất khuất. Đó là hình tượng cho một con người có nhân cách cao đẹp-một biểu tượng hoàn mĩ cho cái Đẹp, cái Thiện.

Qua diễn biến tâm lí nhân vật Huấn Cao, nhà văn đã khẳng định hai điều : cái thiện  có thể sinh ra từ cái ác nhưng không thể sống chung, sống lẫn lộn cùng với cái ác và cái thiện, cái đẹp có thể cảm hóa được con người.  Huấn Cao là một hình thượng văn học hoàn mĩ, đẹp đẽ nhất trong nền văn học nước nhà. Nhưng hình tượng ấy không hề cứng nhắc, khô khan. Ngược lại, nó vô cùng sinh động dưới ngòi bút tài hoa của Nguyễn Tuân.

Với bút pháp xây dựng nhân vật độc đáo, Nguyễn Tuân đã vẽ nên một hình ảnh Huấn Cao vừa cao ngạo, bất khuất, vừa chân tình, tài hoa, biết yêu quý nghệ thuật, trân trọng những tấm lòng trong thiên hạ, biết đề cao thiên lương con người. Điều đó cũng khẳng định sự thành công trong nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật và thêm một lần nữa ngợi ca phong cách nghệ thuật tài hoa độc đáo của Nguyễn Tuân trong nền văn học Việt Nam.

Tìm kiếm google:

Xem thêm các môn học

Bài văn mẫu 11


Copyright @2024 - Designed by baivan.net