[toc:ul]
1. Mở bài: Giới thiệu vẻ đẹp hình tượng người nông dân trong Văn Tế Nghĩa Sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu
2. Thân bài:
a. Hoàn cảnh sáng tác Văn Tế Nghĩa Sĩ Cần Giuộc
b. Vẻ đẹp người nông dân
c. Nhận xét chung Văn Tế Nghĩa Sĩ Cần Giuộc
3. Kết bài: Khẳng định vẻ đẹp hình tượng người nông dân Văn Tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu.
Bài văn
Nguyễn Đình Chiểu là nhà văn tài ba khi đã nêu lên hình ảnh người nông dân trong văn học mà trong suốt các thời gian qua chưa được nhắc đến thông qua bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc.Trong bài văn tế, hình ảnh người nông dân được khắc hoạ rõ ràng. Hình ảnh người nông dân nghèo khổ chỉ biết làm ăn một cách thầm lặng, quanh năm chỉ biết ruộng trâu, cần cù lao động.Họ là những người nông dân yêu ghét rõ ràng , căm thù quyết không đội trời chung với giặc khi thực dân Pháp xâm lược.Họ đã anh dũng chiến đấu và anh dũng hi sinh, trong lời văn là những lời lẽ bi thương đầy nước mắt nhưng không hề rơi nước mắt. Đó chính là cái hay của thơ văn Nguyễn Đình Chiểu.
Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc ra đời vào năm 1858, khi thực dân Pháp nổ súng vào Đà Nẵng, Việt Nam. Sau khi chiếm được thành Gia Định vào đầu năm 1859, quân Pháp bắt đầu một quá trình mở rộng tấn công ra các vùng lân cận như Tân An, Cần Giuộc, Gò Công... Ngày 15 tháng 11 năm Tân Dậu, những nghĩa sĩ mà là nông dân, vì quá căm phẫn kẻ ngoại xâm, đã dũng cảm đứng lên chiến đấu tập kích đồn Pháp ở Cần Giuộc, tiêu diệt được một số quân của đối phương và viên tri huyện người Việt đang làm cộng sự cho Pháp. Khoảng mười lăm nghĩa sĩ bỏ mình. Những tấm gương đó đã gây nên niềm xúc động lớn trong nhân dân.Theo yêu cầu của tuần phủ Gia Định là Đỗ Quang, Nguyễn Đình Chiểu làm bài ``Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc``, để đọc tại buổi truy điệu các nghĩa sĩ đã hi sinh trong trận đánh này.
Như chúng ta biết thì "Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc" là một "Tác phẩm nghệ thuật" hiếm có. "Bi tráng" là tầm vóc và tính chất của tác phẩm nghệ thuật ấy: vừa hoành tráng, hùng tráng, vừa thống thiết, bi ai. Hùng tráng ở nội dung chiến đấu vì nghĩa lớn. Hùng tráng ở phẩm chất anh hùng, ở đức hi sinh quyết tử. Hùng tráng ở chỗ nó dựng lên một thời đại sóng gió dữ dội, quyết liệt của đất nước và dân tộc. Mở đầu bài văn tế là hai tiếng "Hỡi ôi!" vang lên thống thiết, đó là tiếng khóc của nhà thơ đối với nghĩa sĩ, là tiếng nấc đau thương cho thế nước hiểm nghèo:
"Súng giặc, đất rền; lòng dân trời tỏ" có ý nghĩa là Tổ quốc lâm nguy, súng giặc nổ vang rền trời đất và quê hương. Trong cảnh nước mất nhà tan, chỉ có nhân dân đứng lên gánh vác sứ mệnh lịch sử, đánh giặc cứu nước cứu nhà. Và người nông dân chỉ biết cui cút làm ăn một cách tội nghiệp đã dũng cảm đứng lên đánh giặc giành lại .nền độc lập cho Tổ quốc thân yêu mà sự dũng cảm đó xuất phát từ tấm lòng yêu nước có trong mỗi con người. Tấm lòng yêu nước, căm thù giặc của những người nông dân, của những người áo vải mới tỏ cùng trời đất và sáng ngời chính nghĩa. Hình ảnh chính của bài Văn tế chính là những chiến sĩ nghĩa quân Cần Giuộc.
Nguồn gốc của họ là nông dân nghèo sống cuộc đời "côi cút" sau luỹ tre làng. Chất phác và hiền lành, cần cù là chịu khó trong làm ăn, quanh quẩn trong xóm làng, làm bạn với con trâu, đường cày, sá bừa, rất xa lạ với cung ngựa trường nhung:
"Nhớ linh xưa:
Cui cút làm ăn; toan lo nghèo khó"
Cui cút làm ăn: có nghĩa là làm ăn lẻ loi, thầm lặng một cách tội nghiệp.Dù mệt mỏi hay vất vả thì họ vẫn âm thầm, lặng lẽ chịu đựnng một mình mà chẳng nói với ai ."Cui cút làm ăn; toan lo nghèo khó" đã hiện lên đầy đủ một vòng đời không lối thoát của người nông dân Việt, người "dân ấp dân lân" Nam Bộ. Bắt đầu bằng cui cút, vật lộn làm ăn, toan lo để cuối cùng kết thúc trong nghèo khó.Họ là những người nông dân mà quanh năm chỉ biết làm với làm, chưa hề biết đến cái gì gọi là cung, cái gì gọi là ngựa.
"Chưa quen cung ngựa đâu tới trường nhung; chỉ biết ruộng trâu, ở trong làng bộ".
Họ là lớp người đông đảo, sống gần gũi quanh ta. Quanh năm chân lấm tay bùn với nghề nông, "chưa hề ngó tới" việc binh và vũ khí đánh giặc: "Việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy, tay vốn quen làm; tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ mắt chưa từng ngó". Thế nhưng khi đất nước quê hương bị giặc Pháp xâm lược, những người dân chân lấm tay bùn ấy đã đứng lên tình nguyện làm quân tự nguyện đánh giặc cứu nước cứu nhà, bảo vệ cái nghề làm lụng mà họ coi là bát cơm manh áo của họ là cái nghĩa lớn mà họ "mến" là đeo đuổi.
"Bữa thấy bong bong che trắng lốp, muốn tới an gan; ngày xem ống khói chạy đen sì, muốn ra cắn cổ".
Đối với giặc Pháp và lũ tay sai bán nước, họ chỉ có 1 thái độ: "ăn gan" và "cắn cổ", chỉ có 1 chí hướng: "phen này xin ra sức đoạn kình..., chuyến này dốc ra tay bộ hổ".
Trong tác bài Văn Tế Nguyễn Đình Chiểu đã có khắc nên sự đối lập giữa đoàn dũng sĩ của quê hương và giặc Pháp xâm lược.Giặc xâm lược được trang bị tối tân, có "tàu thiếc, tàu đồng", "bắn đạn nhỏ, đạn to", có bọn lính đánh thuê "mã tà, ma ní" thiện chiến. Trái lại, trang bị của nghĩa quân lại hết sức thô sơ. Quân trang chỉ là "1 manh áo vải" . Vũ khí chỉ có "một ngọn tầm vông", hoặc "một lưỡi dao phay", một súng hoả mai khai hoả "bằng rơm con cúi". Thế mà họ vẫn lập được chiến công: "đốt xong nhà dạy đạo kia" và "chém rớt đầu quan hai nọ". Bài Văn tế đã tái hiện lại những giờ phút giao tranh ác liệt của các chiến sĩ nghĩa quân với giặc Pháp:
"Chi nhọc quan quản gióng trống kì, trống giục, đạp rào lướt tới, coi giặc cũng như không; nào sợ thằng Tây bắn đạn nhỏ đạn to, xô cửa xông vào, liều mình như chẳng có" . "Kẻ đâm ngang, người chém ngược, làm cho ma ní, mã tà hồn kinh; bọn hè trước, lũ ó sau, trối kệ tàu thiếc, tàu đồng súng nổ".
Không khí chiến trận có tiếng trống thúc quân giục giã, "có bọn hè trước, lũ ó sau" vang dậy đất trời cùng tiếng súng nổ. Các nghĩa sĩ của ta coi cái chết như không, tấn công như vũ bão, tung hoành giữa đồn giặc: "đạp rào lướt tới", "xô cửa xông vào", "đâm ngang chém ngược", "hè trước, ó sau".Giọng văn của Nguyễn Đình Chiểu đã tô đậm tinh thần dũng cảm, kiên cường bất khuất của các nghĩa sĩ nông dân Cần Giuộc.Ông cũng thể hiện rõ lòng khâm phục đối với người nghĩa sĩ nông dân.Từ trước đến nay, đây là tác phẩm đầu tiên có đưa hình ảnh của nghĩa sĩ nông dân. Trong bài "Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc" còn có tiếng khóc của mẹ già nơi quê nhà trông chờ con về, vợ thương nhớ về chồng, con ngóng cha về ngh thống thiết, bi ai. . Nhiều nghĩa sĩ đã ngã xuống trên chiến trường trong tư thế người anh hùng:
"Những lăm lòng nghĩa lâu dùng; đâu biết xác phàm vội bỏ".
Đất nước, quê hương vô cùng thương tiếc. Một không gian rông lớn bùi ngùi, đau đớn: "Đoái sông Cần Giuộc, cỏ cây mấy dặm sầu giăng; nhìn chợ Trường Bình, già trẻ 2 hàng lệ nhỏ". Tiếng khóc của người mẹ già, nỗi đau đớn của người vợ trẻ, nỗi nhớ thương của con cái được nói đến vô cùng xúc động: "Đau đớn bấy mẹ già ngồi khóc trẻ, ngọn đèn khuya leo lét trong lều; não nùng thay vợ yếu chạy tìm chồng, cơn bóng xế dật dờ trước ngõ". Các nghĩa sĩ đã sống anh dũng chiến đấu, và hi sinh rất vẻ vang. Tấm gương chiến đấu và hi sinh của họ là để ta biết rằng đất nước nào cũng là độc lập, tự chủ. Không ai được quyền xâm chiếm. Họ là tấm gương sáng rất đáng tự hào:
"Ôi! Một trận khói tan; nghìn năm tiết rỡ".
Sự hi sinh của những người nghĩa sĩ Cần Giuộc là bài học quý báu mà họ đã để lại. Thà chết vinh còn hơn sống nhục.Họ là tấm gương sáng để dân tộc Việt Nam noi theo mà làm, là ngòn đèn soi sáng cho dân tộc Việt Nam. "Sống đánh giặc, thác cũng đánh giăc, linh hồn theo giúp cơ binh, muôn kiếp nguyện được trả thù kia;...". Công lao của người nghĩa sĩ nông dân Cần Giuộc sẽ đời đời nằm trong lòng mỗi người dân Việt Nam về tấm gương anh dung, sẵn sàng xả thân vì độc lập Tổ Quốc. "Nước mắt anh hùng lau chẳng ráo, thương vì hai chữ thiên dân; cây hương nghĩa sĩ thắp thêm thơm, cám bởi một câu vương thổ".
Tóm lại, "Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc" khẳng định , tấm lòng yêu thương dân thiết tha của Nguyễn Đình Chiểu."Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc" là niềm tự hào và biết ơn sâu sắc của nhân dân ta đối với người nghĩa sĩ nông dân Cần Giuộc đã anh dũng chiến đấu chống giặc ngoại xâm bảo vệ nền độc lập vững chắc của quê nhà, nơi họ đã sinh ra và lớn lên hay đó là Tổ quốc mà đối với họ "nó"rất quan trọng trong cuộc đời.Nghĩa sĩ nông dân Cần Giuộc chính là tấm gương về tinh thần dũng cảm, lòng yêu nước sâu sắc để cho các thế hệ đi sau khi đọc được bài văn Tế này mà noi theo để xây dựng đất nước càng ngày giàu mạnh hơn.
Bài văn
Nguyễn Đình Chiểu là nhà thơ lớn của dân tộc ta trong thế kỉ XIX, là niềm tự hào của nhân dân miền Nam nói riêng và cả nước nói chung. Thơ văn của ông là nỗi niềm của một tấm lòng yêu nước, con người sâu sắc trong cảnh mù lòa. Viết về nhiều đề tài khác nhau nhưng có lẽ luôn sát cánh vẫn là những vần thơ chống giặc, cổ động tinh thần yêu nước cùng nhân dân. Đặc biệt, Nguyễn Đình Chiểu đã dành cho người nông dân một vị trí hiếm có trong sự nghiệp sáng tác của mình. Và "Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc" là một tác phẩm tiêu biểu thể hiện một cái nhìn mới về hình tượng người nông dân – người anh hùng của nhà thơ xứ mù Đồng Nai.
Bài "Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc" ra đời đã khẳng định sự thành công trong ngòi bút văn tế của Nguyễn Đình Chiểu. Bài văn được viết sau đêm ngày 14 tháng 12 năm 1861, tế vong linh những người nghĩa sĩ nông dân đã tham gia tấn công đồn giặc Pháp ở Cần Giuộc. Có thể nói, đây là lần đầu tiên người nông dân đi vào thơ ca với tư cách người nghĩa binh chống giặc cứu nước. Lần đầu tiên trong lịch sử văn học dân tộc có một tượng đài nghệ thuật sừng sững về người nông dân tương xứng với phẩm chất vốn có ngoài đời của họ. Đồng thời cũng thể hiện một quan niệm rất mới về người anh hùng của Nguyễn Đình Chiểu mà người đọc chưa từng thấy trong văn học yêu nước đương thời. Vậy điểm khác ở đây như thế nào? Trước kia khi xây dựng hình tượng người anh hùng, nhà văn thường tập trung thể hiện những bậc hào kiệt, những con người kiệt xuất lãnh đạo các phong trào đấu tranh của nhân dân. Còn đến với văn thơ Nguyễn Đình Chiểu, hình ảnh về người anh hùng không có gì xa lạ mà ngay trong bản thân những người nông dân hiền lành, chất phác, yêu nước sâu nặng.
Như vậy, vẻ đẹp hình tượng người nông dân trước hết được thể hiện ở tính cách cần cù, chịu thương chịu khó, chất phác: "cui cút làm ăn, toan lo nghèo khó", làm ăn "chưa quen cung ngựa, đâu tới trường nhung, chỉ biết ruộng trâu, ở trong làng bộ". Họ là lớp người vô danh "chân lấm tay bùn" chỉ biết "việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy, tay vốn quen làm. Tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ, mắt chưa từng ngó". Vẻ đẹp của họ là vẻ đẹp của những con người lao động âm thầm cống hiến, mang lại sự sống, phát triển cho hàng ngàn năm của đất nước. Vì sao ư, vì chính họ đã lao động, sản xuất ra của cải vật chất để duy trì và phát triển đời sống của dân tộc, nhất là với một đất nước sống dựa vào nông nghiệp là chủ yếu như Việt Nam chúng ta. Nhà văn đã phát hiện và xây dựng được hình tượng người anh hùng nông dân áo vải. Đây không phải là một cá nhân cụ thể mà đó là cả một tập thể những anh hùng, họ là những người nghĩa sĩ Cần Giuộc.
Yêu nước sâu sắc, đó là vẻ đẹp mà người đọc chúng ta ai cũng nhìn thấy của những người nông dân Cần Giuộc. Khi đất nước, quê hương bị giặc xâm lược, những người "dân ấp dân lân" ấy đã anh dũng đứng lên "mến nghĩa làm quân chiêu mộ" đánh giặc để cứu nước nhà, để bảo vệ "bát cơm manh áo ở đời" là cái nghĩa lớn mà họ mến và theo đuổi. Không thấy vua quan đâu, họ tự ý thức được sứ mệnh bảo vệ Tổ quốc của mình. Họ đã rơi vào bi kịch là bị quan quân triều đình bỏ rơi, phải một mình chống cự với quân thù. Đơn độc trong cuộc chiến, họ thiếu thốn về mọi mặt: kinh nghiệm, quân trang khi mà "ngoài cật chỉ có một manh áo vải", đánh giặc bằng những vũ khí quá đỗi thô sơ: "rơm con cúi, dao phay…". Chao ôi, trong khi giặc Pháp là "đạn nhỏ, đạn to", "tàu thiếc, tàu đồng"… Xét về lực lượng, họ kém giặc Pháp rất nhiều. Thế mà họ vẫn lập được chiến công chém rớt đầu quan hai nọ và đốt xong nhà dạy đạo kia. Vì sao họ có khí thế ấy, đó chính là vì lòng yêu nước sôi sục, căm thù giặc đến tận xương tủy. "Bữa thấy bòng bong che trắng lốp, muốn tới ăn gan; ngày xem ống khói chạy đen sì, muốn ra cắn cổ". Nhà văn đã tái hiện lại cuộc chiến đấu với sức mạnh quật cường và khí thế chiến đấu anh dũng của các chiến sĩ Cần Giuộc. "Chi nhọc quan quản gióng trống kì, trống giục, đạp rào lướt tới, coi giặc cũng như không; nào sợ thằng Tây bắn đạn nhỏ đạn to, xô cửa xông vào liều mình như chẳng có". Các nghĩa sĩ coi cái chết như không, tấn công như vũ bão vào đồn giặc. Lòng yêu nước của họ thật cảm động, nó thậm chí không thể có được ở những bậc quân vương đương thời. Tình yêu đất nước hòa với tình yêu làng xóm tổ tiên. Mạnh mẽ trong ý chí, can trường quả cảm trong chiến đấu. Hình ảnh họ xả thân sống mái với quân thù khiến chúng phải hồn bay phách tán.
Tuy nhiên, bi kịch cuối cùng là điều không thể tránh khỏi : những người nghĩa sĩ nông dân phải bỏ mạng chốn xa trường. Họ đã hi sinh để lại muôn vàn mất mát. Cuộc khởi nghĩa thất bại nhưng tinh thần yêu nước không mất đi. Các nghĩa sĩ đã sống anh dũng, chết vẻ vang. Tấm lòng chiến đấu và hi sinh của họ là tấm lòng son gửi lại bóng trăng rằm đời đời bất diệt, sáng rực mãi, trường tồn cùng sông núi. Sống hiên ngang, chết bất khuất.
Với một giọng văn hào hùng, phép đối tài tình, các động từ mạnh được chọn lọc và đặt đúng chỗ đã tô đậm tinh thần chiến đấu quả cảm vô song của các nghĩa sĩ Cần Giuộc. Tác giả đã dành cho những người nông dân tình cảm đẹp nhất, khâm phục, ngợi ca, tự hào. Qua đó, ta thấy được lần đầu tiên hình tượng người nông dân đi vào thơ văn với tầm xứng của các anh hùng dân tộc, những anh hùng xuất thân từ tầng lớp nông dân, quanh năm chân lấm tay bùn, dường như chỉ biết việc cày cấy vậy mà khi có giặc xâm lược, họ đã anh dũng đứng lên một cách tự nguyện và hăng hái, chiến đấu quên mình cho nền độc lập dân tộc. "Sống đánh giặc, thác cũng đánh giặc, linh hồn theo giúp cơ binh, muôn kiếp được trả thù kia…". Ra đi, họ vẫn còn lo cho nước, cho dân. Tình cảm thiêng liêng ấy còn theo họ đến tận chốn thiên đường đầy ánh sáng. Tuy họ không còn nữa nhưng ý chí chiến đấu của họ, tấm gương của họ vẫn còn mãi để nêu gương cho người sống, động viên cổ vũ cho mọi người tiếp tục chiến đấu để trả thù quân xâm lược. Hình ảnh họ đã trở thành bất hủ, là biểu tượng của chủ nghĩa yêu nước anh hùng.
"Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc" có thể nói là một tượng đài nghệ thuật sừng sững về người anh hùng nông dân khởi nghĩa, thể hiện sức mạnh bất diệt của dân tộc ta trong chống giặc ngoại xâm. Tác phẩm như một bản anh hùng ca ngợi ca vẻ đẹp của những người nông dân yêu nước hiên ngang, dũng cảm. Đồng thời cũng thể hiện niềm biết ơn của Nguyễn Đình Chiểu về những con người vô danh tuy thất thế nhưng vẫn mãi ngân vang và sống mãi trong lòng chúng ta. Tóm lại tác phẩm khẳng định văn chương lỗi lạc và tấm lòng yêu nước thương dân của Đồ Chiểu bằng giọng văn vừa hùng tráng, vừa thống thiết bi ai, tác giả đã dựng lên tượng đài nghệ thuật về người nông dân yêu nước.
Bài văn
Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc là đỉnh cao sáng tác của nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu và cũng là biểu tượng rõ ràng nhất, sâu sắc nhất tư tưởng yêu nước thương dân của ông. Với lòng cảm thương, khâm phục chân thành, nhà thơ đã xây dựng nên một “tượng đài nghệ thuật” bất hủ về người anh hùng nghĩa sĩ nông dân trong lịch sử chiến đấu chống giặc ngoại xâm của dân tộc.
Có thể nói bài văn tế là khúc bi tráng về người nghĩa sĩ nông dân xả thân vì sự sống còn của đất nước. Người nông dân nghèo khổ chân chất “côi cút làm ăn toan lo nghèo khổ" đã tự nguyện đứng lên gánh vác việc nước lớn lao và cực kì gian khổ: đánh giặc. Trước tội ác tày trời của giặc Pháp, trước thái độ nhu nhược đến hèn nhát của triều đình, họ không thể bưng tai bịt mắt làm ngơ. Trách nhiệm công dân thúc đẩy họ cầm vũ khí chiến đấu:
“Nào đợi ai đòi, ai bắt, phen này xin ra sức đoạn kình;
Chẳng thèm trốn ngược trốn xuôi, chuyến này dốc ra tay bộ hổ”.
Họ không phải là lính chính quy của triều đình mà chỉ là “dân ấp dân lân, mến nghĩa làm quân chiêu mộ”. Đó là cái nghĩa vì nước quên mình, dám đánh giặc, dám hi sinh. Điều này hoàn toàn đối lập với lũ quan quân triều đình tham sống sợ chết. Vì lẽ đó mà hình ảnh người nghĩa sĩ nông dân càng thêm thương, thêm quý.
Không cần lệnh quan trên, không cần chờ trang bị, cũng chẳng đợi tập rèn, họ lao vào cuộc chiến đấu sống chết với kẻ thù bằng một tinh thần dũng cảm hiếm có: “Kẻ đâm ngang, người chém ngược, làm cho mã tà, ma ní hồn kinh. Bọn hè trước, lũ ó sau, trối kệ tàu thiếc, tàu đồng súng nổ”. Tinh thần ấy khiến cho các vũ khí thô sơ trong tay họ trở lên hữu hiệu:
”Hỏa mai đánh bằng rơm con cúi, cũng đốt xong nhà dạy đạo kia – Gươm đeo dùng bằng lưỡi dao phay, cũng chém rơi đầu quan hai nọ”.
Cái dũng cảm trong chiến đấu đã khắc phục cái yếu kém trong trang bị. Giữa bức tranh hoành tráng của cuộc chiến đấu, nổi bật hình bóng lồng lộng, hiên ngang của người nghĩa sĩ nông dân Cần Giuộc.
Trong văn thơ ngày xưa của ta có không nhiều những trang miêu tả một trận chiến đấu mà thường là lược tả một vài nét. Ở bài văn tế này, nhà thơ đã tả bằng những chi tiết rất chân thực, sống động cho nên không khí hào hùng gần gũi, quen thuộc với cuộc sống, với mọi người. Sức mạnh của nghệ thuật đã biến những hình ảnh tầm thường thành những hình ảnh tượng trưng cho người nghĩa quân nông dân quanh năm chân lấm tay bùn, vậy mà khi lòng nghĩa cháy lên, họ đã biến thành người chiến sĩ cứu nước anh hùng. Hình bóng họ làm chủ chiến trường, nổi lên trên nền trời, che lấp cả không gian, lồng lộng như một tượng đài kì vĩ.
Cảm xúc chủ đạo của bài văn là cảm xúc bi tráng, lời văn rắn rỏi, mãnh liệt, toàn là những hành động được thể hiện bằng những động từ mạnh mẽ, âm điệu sôi sục, dồn dập. Nghệ thuật đối đã phát huy được hiệu quả cao nhất của nó… Tất cả hợp thành một âm điệu chiến trận hào hùng, phấn khích. Thật là một thiên anh hùng ca tuyệt diệu. Ngòi bút tác giả hoàn toàn xứng đáng với hành động cao cả của người nghĩa sĩ nông dân; với tư tưởng cực kì lớn lao mà tác giả đã phát hiện ra trong hành động giết giặc cứu nước của họ.
Gần ba chục nghĩa sĩ nông dân bỏ mình trong cuộc chiến đấu ác liệt và không cân sức. Cái chết bi tráng của họ khiến con người, cây cỏ trên một miền quê bao la này đều thương tiếc: “Đoái sông Cần Giuộc, cỏ cây mấy dặm sầu giăng – Nhìn chợ Trường Bình, già trẻ hai hàng luỵ nhỏ”. Người chết vì nước non, vì đồng bào, làm sao không xúc động đến đồng bào, non nước ? “Tượng đài nghệ thuật” về người nghĩa sĩ nông dân mang tính chất bi tráng. Nó được dựng lên trong khói lửa chiến trận, trong tiếng thét xung phong, và cả trong nước mắt, trong tiếng khóc thống thiết của nhà thơ và của nhân dân. Đây là thành công nghệ thuật xuất sắc của nhà thơ mù yêu nước Nguyễn Đình Chiểu. Bài văn tế như một cái bia, cái mốc, một lâu đài vinh dự cho người nông dân, cho nhân dân lao động Nam Bộ muôn thuở sáng ngời.