Phong cách nghệ thuật của Hồ Xuân Hương qua bài thơ Bánh trôi nước, Tự tình (bài II)

Đề bài: Phong cách nghệ thuật của Hồ Xuân Hương qua bài thơ Bánh trôi nước, Tự tình (bài II)

[toc:ul]

Bài mẫu số 1: Phong cách nghệ thuật của Hồ Xuân Hương qua bài thơ Bánh trôi nước, Tự tình (bài II)

Người phụ nữ như  những chiếc bánh trôi nước, ngon hay dở là do tay kẻ nặn. May mắn hay rủi ro, hạnh phúc hay bất hạnh đều không thể tự mình quyết định. Nhưng họ vẫn giữ phẩm giá cao quý – tấm lòng son. Hồ Xuân Hương khẳng định rằng dù xã hội có nhẫn tâm vùi dập đến đâu chăng nữa thì người phụ nữ vẫn giữ trọn vẹn phẩm giá cao quý của mình.

Bài làm

Trong kho tàng văn học Việt Nam, có rất nhiều cái tên đã đi vào thời đại. Một trong những cái tên tiêu biểu ấy chính là Hồ Xuân Hương. Bà được mệnh danh là bà chúa thơ Nôm. Đặc biệt, với bài thơ “Bánh trôi nước” và “Tự tình” (bài II), Hồ Xuân Hương đã thể hiện phong cách nghệ thuật độc đáo qua cách sử dụng ngôn ngữ dân tộc đạt tới trình độ tinh tế và điêu luyện.

Phong cách nghệ thuật của Hồ Xuân Hương được thể hiện rõ nét qua cả hai bài thơ mà trước tiên là bài thơ “Bánh trôi nước”. Mở đầu bài thơ, bà dùng nói quen thuộc trong ca dao:

“Thân em vừa trắng lại vừa tròn,

Bảy nổi ba chìm với nước non.”

Ca dao xưa thường mở đầu bằng những lời lẽ than thân trách phận: Thân em như hạt mưa sa… Thân em như dải lụa đào… Trong bài thơ, Hồ Xuân Hương dùng ngôn ngữ thuần Việt giản dị tự nhiên để nhân vật trữ tình tự giới thiệu bằng lời lẽ khiêm nhường mà ẩn chứa niềm tự hào chính đáng: Thân em vừa trắng lại vừa tròn. Chiếc bánh trôi tròn trịa, xinh xẻo chính là hình ảnh tượng trưng cho người phụ nữ xinh đẹp. Nhưng trong xã hội đương thời với nhiều áp bức bất công, người phụ nữ phải chịu bao bất hạnh. Người phụ nữ không chỉ bị ràng buộc bởi những quan niệm luân lí khắt khe, bị tước đoạt quyền sống tự do mà còn bị khinh rẻ và chà đạp lên nhân phẩm.

Thành ngữ Bảy nổi ba chìm chỉ những số phận long đong, lận đận, vất vả trăm bề đã được Hổ Xuân Hương vận dụng tự nhiên và phù hợp, diễn tả chính xác sự suy ngẫm và nỗi ngậm ngùi, chua xót của nữ sĩ trước tình cảnh riêng của bản thân và tình cảnh chung của phụ nữ thời ấy.

“Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn,

Mà em vẫn giữ tấm lòng son.”

Người phụ nữ như  những chiếc bánh trôi nước, ngon hay dở là do tay kẻ nặn. May mắn hay rủi ro, hạnh phúc hay bất hạnh đều không thể tự mình quyết định. Nhưng họ vẫn giữ phẩm giá cao quý – tấm lòng son. Hồ Xuân Hương khẳng định rằng dù xã hội có nhẫn tâm vùi dập đến đâu chăng nữa thì người phụ nữ vẫn giữ trọn vẹn phẩm giá cao quý của mình.

Đến bài thơ Tự tình II, bà vẫn giữ phong cách ngôn ngữ nghệ thuật giản dị, tự nhiên để thể hiện tâm trạng cô đơn, buồn bã, tủi hờn nhưng vẫn tha thiết yêu đời, yêu cuộc sống của mình.

“Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn,

Trơ cái hồng nhan với nước non.”

Đêm khuya thanh vắng, tiếng trống canh thỉnh thoảng lại văng vảng. Nghệ thuật lấy động tả tĩnh đã được sử dụng khéo léo.Tiếng trống canh vang lên bức bối trong màn đêm thăm thẳm, mịt mùng khiến cho sự vắng lặng càng tăng lên. Thời gian trôi qua chậm chạp, nặng nề. Tâm trạng con người như lắng đọng lại và thỉnh thoảng lại như dồn; như thúc, như chồng chất thêm lên khiến cho lòng càng đau đớn, dằn vặt khôn nguôi.

Đến câu thơ sau, nhà thơ kết hợp tài tình giữa ngôn ngữ dân gian và ngôn ngữ văn chương bác học Hồng nhan – nước non.  Hồ Xuân Hương gọi là cái hồng nhan, đặt tính từ “trơ” lên đầu câu khiến cho vẻ đẹp mà tạo hóa ưu ái ban cho riêng phái nữ giống như một sự vật vô tri vô giác. Vẻ đẹp là tinh hoa của trời đất, rất đáng nâng niu, trân trọng. Vậy mà nó trơ ra trước con mắt lạnh lùng vô cảm của người đời. Hồ Xuân Hương đã đặc tả một cách thần tình nỗi đau âm ỉ, nung nấu và thiêu đốt tâm can mình bấy lâu bằng câu thơ giản dị mà có sức lay động, ám ảnh lạ lùng.

Tưởng chừng như nỗi cô đơn, sầu tủi đến mức đắng cay, chua chát đã biến con người thành gỗ đá. Nhưng tim còn để quên đi, chỉ là:

“Chén rượu hương đưa say lại tỉnh,

Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn.”

Một lần nữa, Hồ Xuân Hương đã lựa chọn từ ngữ hết sức tài tình, chuẩn xác nhưng vẫn tự nhiên, dung dị mà chứa chất tầng tầng lớp lớp ý nghĩa, khai thác mãi không vơi cạn.. Cố say, cố quên, vậy mà càng tỉnh hơn, thấy rõ bao nhiêu dối trá, hững hờ của người đời.  Nỗi cô đơn lại càng tăng lên gấp bội. Giống như hình ảnh vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn, cuộc đời mình cũng đã ngả chiều, đợi chờ mãi vẫn không biết bao giờ ước nguyện mới thành hiện thực?

“Xiên ngang mặt đất, rêu từng đám.

Đâm toạc chân mây, đá mấy hòn.”

Vốn có cá tính mạnh mẽ, bà không thể đắm chìm mãi trong cảm xúc thương thân tủi phận. Ngọn lửa niềm tin trong lòng vẫn cháy, nữ sĩ tin vào tình yêu chân thành, tha thiết của mình đối với con người và cuộc đời, mạnh mẽ vùng lên. Một loạt động từ mạnh được sửu dụng như nhắc nhở, thúc giục nữ sĩ nói riêng và phụ nữ nói chung hãy xiên ngang, đâm toạc tất cả những gì phi lí ràng buộc, vây bủa con người để hướng tới một cuộc sống thật sự tự do, thật sự hạnh phúc.

Khép lại bài thơ, Hồ Xuân Hương đã giãi bày chân thực tâm trạng cô đơn, tiếc nuối, xót xa, cay đắng, chán chường nhưng không tuyệt vọng, vẫn âm ỉ, le lói ước mong được chia sẻ, yêu thương:

“Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại,

Mảnh tình san sẻ tí con con!”

Câu thơ sử dụng nghệ thuật ngôn từ đặc sắc cùng điệp khúc xuân đi xuân lại lại khẳng định quy luật không thể thay đổi của tạo hóa. Tuổi xuân qua đi không bao giờ trở lại. Nhưng tình cảm vẫn không được trọn vẹn, chỉ khao khát một tấm chân tình cũng không được, chỉ còn một mảnh. Mảnh tình ấy tiếp tục đem san sẻ thì cũng chỉ được một tí con con. Cách nói dân gian tự nhiên cùng sự sáng tạo của nữ sĩ tài hoa đã cụ thể hóa tình yêu khiến nó dễ hiểu, dễ đi vào lòng người hơn.

Hai bài thơ đều mang đậm dấu ấn tính cách và phong cách sáng tác của Hồ Xuân Hương – người được mệnh danh Bà chúa thơ Nôm. Với những giá trị ấy, hai bài thơ đã góp phần to lớn vào sự phát triển của ngôn ngữ dân tộc.

Bài mẫu số 2: Cảm nhận phong cách nghệ thuật của Hồ Xuân Hương qua bài thơ Bánh trôi nước, Tự tình (bài II)

Thành ngữ này đã được Hổ Xuân Hương vận dụng vào bài thơ thật tự nhiên và phù hợp, diễn tả chính xác sự suy ngẫm và nỗi ngậm ngùi, chua xót của nữ sĩ trước tình cảnh riêng của bản thân và tình cảnh chung của phụ nữ thời ấy. Đúng như lời đúc kết của đại thi hào Nguyễn Du: Đau đớn thay phận đàn bà, Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung!

Bài làm

Nhà thơ Xuân Diệu vô cùng yêu mến và kính phục nữ sĩ Hồ Xuân Hương nên đã đặt cho bà danh hiệu cao quý là “Bà chúa thơ Nôm”. Quả thật, với tài năng sử dụng ngôn ngữ dân tộc đạt tới trình độ tinh tế và điêu luyện, nữ sĩ rất xứng đáng với danh hiệu đó. Chúng ta có thể lấy hai bài thơ nổi tiếng tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật độc đáo của Hồ Xuân Hương để chứng minh.

Bài thơ Bánh trôi nước thuộc loại thơ vịnh vật khá phổ biến trong thơ ca trung đại, thường được dùng để gửi gắm một cách kín đáo suy nghĩ hay thái độ, quan điểm của tác giả trước một vấn đề nào đó có tính chất xã hội được nhiều người quan tâm. Hồ Xuân Hương nhìn chiếc bánh trôi nước quen thuộc trong dân gian mà liên tưởng tới thân phận long đong, ba chìm bảy nổi của người phụ nữ trong xã hội phong kiến trọng nam khinh nữ đầy áp bức bất công. Tuy hình thức bài thơ được làm theo thể thất ngôn tứ tuyệt Đường luật với quy định khá chặt chẽ về nghệ thuật và nội dung nhưng ngôn ngữ thơ thì thuần là lời ăn tiếng nói hằng ngày của người lao động.

Bánh trôi là thứ bánh được làm bằng bột nếp và đường thẻ. Gạo nếp ngâm một đêm cho mềm rồi đem xay thành bột, lọc cho mịn, để thật ráo nước. Bẻ từng mẩu nhỏ cỡ đầu ngón tay cái, nặn cho tròn, giữa đặt một miếng đường thẻ xắt vuông hạt lựu làm nhân. Thả bánh vào nồi nước đang sôi để luộc. Chìm nổi vài lần là bánh chín, vớt ra nhúng sơ vào nước nguội rồi xếp vào đĩa, mỗi đĩa khoảng trên dưới một chục cái. Vỏ bánh trắng trong, hiện rõ nhân màu nâu đỏ, ăn dẻo, thơm và có vị ngọt đậm đà. Người xưa cho rằng đây là thứ bánh tinh khiết, thanh đạm, có thể dùng để cúng lễ. (Mùng 3 tháng 3 Âm lịch, dân gian cúng trời đất bằng bánh trôi, bánh chay và hoa quả).

Hồ Xuân Hương mở đầu bài thơ bằng cách nói quen thuộc trong ca dao:

Thân em vừa trắng lại vừa tròn,

Bảy nổi ba chìm với nước non.

Những câu ca dao với chủ đề than thân trách phận thường được mở đầu bằng cụm từ mang đậm mặc cảm tự ti của người phụ nữ: Thân em như hạt mưa sa… Thân em như trái bần trôi… Thân em như miếng cau khô… Trong bài thơ này, Hồ Xuân Hương để nhân vật trữ tình tự giới thiệu bằng lời lẽ khiêm nhường mà ẩn chứa niềm tự hào chính đáng: Thân em vừa trắng lại vừa tròn. Tả chiếc bánh trôi tròn trịa, xinh xẻo nhưng đằng sau những chi tiết rất thực ấy, tác giả muốn nói tới thân phận phụ thuộc và vẻ đẹp cùng phẩm giá cao quý của người phụ nữ. Xưa nay, phụ nữ được coi là phái đẹp, là tinh hoa của Tạo hoá. Bởi vậy, nhìn những chiếc bánh trôi nước, ta sẽ nghĩ tới vẻ đẹp trong trắng của những cô gái đương xuân.

Giữa những chiếc bánh trôi nước với thân phận của đa số phụ nữ dưới chế độ phong kiến có những nét tương đổng. Người phụ nữ không chỉ bị ràng buộc bởi những quan niệm luân lí khắt khe, bị tước đoạt quyền sống tự do mà còn bị khinh rẻ và chà đạp lên nhân phẩm. Thái độ trọng nam khinh nữ: Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô, hay luật Tam tòng khiến cho họ bất bình, phẫn uất nhưng buộc phải cắn răng cam chịu.

Bảy nổi ba chìm là thành ngữ phổ biến mang nghĩa hàm ngôn, dùng để chỉ những số phận long đong, lận đận, vất vả trăm bề. Thành ngữ này đã được Hổ Xuân Hương vận dụng vào bài thơ thật tự nhiên và phù hợp, diễn tả chính xác sự suy ngẫm và nỗi ngậm ngùi, chua xót của nữ sĩ trước tình cảnh riêng của bản thân và tình cảnh chung của phụ nữ thời ấy. Đúng như lời đúc kết của đại thi hào Nguyễn Du: Đau đớn thay phận đàn bà, Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung!

Thấu hiểu điều đó nên Hồ Xuân Hương đã dùng những từ ngữ bình dân, nôm na nhưng rất giàu khả năng gợi tả để thể hiện thân phận phụ thuộc ấy:

Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn,

Mà em vẫn giữ tấm lòng son.

Không được sống tự do, tự chủ, người phụ nữ nào có khác chi những chiếc bánh trôi nước kia ngon hay dở là do tay kẻ nặn. May mắn hay rủi ro, hạnh phúc hay bất hạnh đều không thể tự mình quyết định. Nhưng Hồ Xuân Hương không chỉ đơn thuần nói đến chuyện đó mà bà muốn nhấn mạnh tới tấm lòng son, tức là phẩm giá cao quý của người phụ nữ, dù họ phải sống trong hoàn cảnh éo le, trớ trêu tới mức nào. Điều lớn lao ấy đặc biệt ở chỗ là nó được nữ sĩ dẫn dắt, khơi gợi từ hình ảnh chiếc bánh trôi nước nhỏ bé và xinh xẻo. Bánh trôi lúc chín trắng trong, lộ rõ màu nhân nâu đỏ. Từ thực tế ấy mà Hồ Xuân Hương liên tưởng đến tấm lòng son. Như thế là ý nghĩa ngụ ngôn mà nữ sĩ gửi gắm trong hình tượng thơ đã bộc lộ rõ. Bà muốn khẳng định rằng dù xã hội có nhẫn tâm vùi dập, dù cuộc đời có bảy nổi ba chìm đến đâu chăng nữa thì người phụ nữ vẫn giữ trọn vẹn phẩm giá cao quý của mình. Cách xưng hô, cách nói trong bài thơ trước sau vẫn giữ được vẻ khiêm nhường mà chứa đựng một ý chí kiên định biết chừng nào!

Ở bài thơ Tự tình II, về cơ bản Hồ Xuân Hương vẫn giữ phong cách ngôn ngữ nghệ thuật giản dị, tự nhiên giống như bài thơ Bánh trôi nước để thể hiện tâm trạng cô đơn, buồn bã, tủi hờn nhưng vẫn tha thiết yêu đời, yêu cuộc sống của mình.

Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn,

Trơ cái hồng nhan với nước non.

Câu thứ nhất chỉ thời điểm diễn ra tâm trạng. Đó là lúc đêm khuya thanh vắng, lâu lâu lại văng vẳng tiếng trống canh. Nghệ thuật lấy động tả tĩnh ở đây đã tỏ ra đắc dụng. Tiếng trống canh vang lên bức bối trong màn đêm thăm thẳm, mịt mùng khiến cho sự vắng lặng càng tăng lên gấp bội. Thời gian trôi qua mới chậm chạp làm sao! Chậm chạp, nặng nề nhưng nó vẫn đi. Còn tâm trạng con người trong khung cảnh ấy thì như lắng đọng lại và thỉnh thoảng lại như dồn; như thúc, như chồng chất thêm lên khiến cho lòng càng đau đớn, dằn vặt khôn nguôi.

Câu thứ hai: Trơ cái hồng nhan với nước non có sự kết hợp tài tình giữa ngôn ngữ dân gian và ngôn ngữ văn chương bác học. Hồng nhan có nghĩa là gương mặt đẹp của người con gái, thường được dùng để chỉ phụ nữ nói chung. Nhưng Hồ Xuân Hương đã cố tình sự vật hóa nó bằng cách gọi là cái hồng nhan, lại đặt tính từ Trơ lên đầu câu khiến cho vẻ đẹp mà Tạo hóa ưu ái ban cho riêng phái nữ giống như một sự vật vô tri vô giác nào đó. Vẻ đẹp là tinh hoa của trời đất, rất đáng nâng niu, trân trọng. Ấy vậy mà nó bẽ bàng Trơ ra trước con mắt lạnh lùng vô cảm của người đời, chứ không phải chỉ là trơ trọi trước cảnh thiên nhiên, non nước luôn dào dạt sức sống, sức yêu. Hồ Xuân Hương đã đặc tả một cách thần tình nỗi đau âm ỉ, nung nấu và thiêu đốt tâm can mình bấy lâu bằng câu thơ giản dị mà có sức lay động, ám ảnh lạ lùng, Đó là tình cảnh và tâm trạng bi đát của nữ sĩ trong thời điểm đặc biệt này. Tưởng chừng như nỗi cô đơn, sầu tủi đến mức đắng cay, chua chát đã biến con người thành gỗ đá.

Nhưng không phải vậy. Trái tim còn đập nên ý thức vẫn còn, nữ sĩ đành mượn rượu giải sầu, muốn say cho quên hết. Khổ nỗi:

Chén rượu hương đưa say lại tỉnh,

Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn.

Hết say lại tỉnh, có nghĩa là đã nhiều lần say và những cơn say nối tiếp nhau. Cố say, cố quên, vậy mà lúc tỉnh rượu thì thấy bao nhiêu dối trá, hững hờ của người đời vẫn còn sờ sờ ra đó và nỗi đau khổ, bẽ bàng của mình cũng cứ còn nguyên. Nỗi cô đơn lại càng tăng lên gấp bội. Ước mong một mảy may bù đắp, một chút tròn đầy mà không sao có được. Giống như hình ảnh vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn, cuộc đời mình cũng đã ngả chiều và chờ đợi cũng đã mỏi mòn mà không biết bao giờ ước nguyện mới thành hiện thực?! Sự lựa chọn từ ngữ của Hồ Xuân Hương quả là đã đạt tới mức tài tình, chuẩn xác nhưng vẫn tự nhiên, dung dị mà chứa chất tầng tầng lớp lớp ý nghĩa, khai thác mãi không vơi cạn..

Mạch suy tư của nữ sĩ bất chợt rẽ sang một hướng khác. Với tính cách vốn mạnh mẽ, bà không thể đắm chìm mãi trong cảm xúc thương thân tủi phận. Cố say để quên nhưng không sao quên được. Tỉnh thì đau khổ nhưng mình vẫn còn được là mình. Trăng khuyết chưa tròn thì không đến nỗi tuyệt vọng. Ngọn lửa niềm tin trong lòng vẫn cháy, nữ sĩ tin vào tình yêu chân thành, tha thiết của mình đối với con người và cuộc đời, tin vào nghị lực của bản thân. Nhìn rộng ra xung quanh, thấy lời dạy của đất trời sâu kín mà rành rành trước mắt, ngụ ở trong từng ngọn rêu, tảng đá. Hình ảnh trong bài thơ không có gì là cao xa, khó hiểu mà vô cùng gần gũi nhưng vẫn chứa đựng ý nghĩa hàm súc và thâm thúy. Rêu nhỏ bé, yếu ớt là thế mà vẫn cố hết sức Xiên ngang mặt đất, vươn lên đầy sức sống. Đá lầm lì là vậy mà Đâm toạc chân mây để khẳng định sự hiện diện của mình. Hồ Xuân Hương tỏ ra rất táo bạo và sáng tạo trong việc đảo ngược cấu trúc thông thường của câu thơ, nhằm thể hiện tới mức cao nhất ý mình muốn nói. Tính ẩn dụ của hình ảnh vì thế mà có khả năng gợi liên tưởng rất mạnh và có ý nghĩa giáo dục sâu sắc. Nó như nhắc nhở, thúc giục nữ sĩ nói riêng và phụ nữ nói chung hãy xiên ngang, đâm toạc tất cả những gì phi lí ràng buộc, vây bủa con người để hướng tới một cuộc sống thật sự tự do, thật sự hạnh phúc.

Tự tình là mình nói với mình, mình tâm sự, bày tỏ nỗi lòng với chính mình, nhưng không phải vì thế mà tính khái quát của bài thơ bị hạn chế. Hồ Xuân Hương đã giãi bày rất chân thực tâm trạng cô đơn, tiếc nuối, xót xa, cay đắng, chán chường nhưng không tuyệt vọng, vẫn âm ỉ, le lói ước mong được chia sẻ, yêu thương:

Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại,

Mảnh tình san sẻ tí con con!

Điệp khúc xuân đi xuân lại lại khẳng định quy luật cua Tạo hóa là không thể đổi thay. Biết thế nhưng với tâm trạng trên thì nữ sĩ lại thấy nó như trêu ngươi khiến mình càng thêm buồn, thêm tủi. Sự trái ngược giữa mùa xuân của thiên nhiên và mùa xuân của đời người làm tăng nỗi ngao ngán sẵn có trong lòng bấy lâu nay. Tuổi xuân qua đi không bao giờ trở lại. Ngẫm nghĩ về mình thì tấm tình xưa dành cho người, dành cho đời rộng rãi, mênh mông là thế, nay sau bao năm không nhận được mảy may bù đắp nên chỉ còn một mảnh. Mảnh tình ấy tiếp tục đem san sẻ thì cũng chỉ được một tí con con. Cách nói dân gian tự nhiên cộng thêm phần sáng tạo của nữ sĩ tài hoa đã cụ thể hóa tình yêu vốn dĩ là một khái niệm trừu tượng, biến nó thành dễ hiểu, dễ đi vào lòng người.

Hai bài thơ trên in đậm dấu ấn tính cách và phong cách sáng tác của Hồ Xuân Hương – một kì nữ trong nền thơ ca tiếng Việt. Với sự nghiệp sáng tác độc đáo để lại cho đời, Hồ Xuân Hương đã góp phần khẳng định tiếng Việt của dân tộc ta giàu và đẹp.

Bài mẫu số 3: Phân tích phong cách nghệ thuật của Hồ Xuân Hương qua bài thơ Bánh trôi nước, Tự tình (bài II)

Giữa những chiếc bánh trôi nước với thân phận của đa số phụ nữ dưới chế độ phong kiến có những nét tương đồng. Người phụ nữ không chỉ bị ràng buộc bởi những quan niệm luân lí khắt khe, bị tước đoạt quyền sống tự do mà còn bị khinh rẻ và chà đạp lên nhân phẩm. Thái độ trọng nam khinh nữ: Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô, hay luật Tam tòng khiến cho họ bất bình, phẫn uất nhưng buộc phải cắn răng cam chịu.

Bài làm

Nhà thơ Xuân Diệu vô cùng yêu mến và kính phục nữ sĩ Hồ Xuân Hương nên đã đặt cho bà danh hiệu cao quý là "Bà chúa thơ Nôm". Quả thật, với tài năng sử dụng ngôn ngữ dân tộc đạt tới trình độ tinh tế và điêu luyện, nữ sĩ rất xứng đáng với danh hiệu đó. Chúng ta có thể lấy hai bài thơ nổi tiếng tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật độc đáo của Hồ Xuân Hương để chứng minh.

Bài thơ Bánh trôi nước thuộc loại thơ vịnh vật khá phổ biến trong thơ ca trung đại, thường được dùng để gửi gắm một cách kín đáo suy nghĩ hay thái độ, quan điểm của tác giả trước một vấn đề nào đó có tính chất xã hội được nhiều người quan tâm. Hồ Xuân Hương nhìn chiếc bánh trôi nước quen thuộc trong dân gian mà liên tưởng tới thân phận long đong, ba chìm bảy nổi của người phụ nữ trong xã hội phong kiến trọng nam khinh nữ đầy áp bức bất công. Tuy hình thức bài thơ được làm theo thể thất ngôn tứ tuyệt Đường luật với quy định khá chặt chẽ về nghệ thuật và nội dung nhưng ngôn ngữ thơ thì thuần là lời ăn tiếng nói hằng ngày của người lao động.

Bánh trôi là thứ bánh được làm bằng bột nếp và đường thẻ. Gạo nếp ngâm một đêm cho mềm rồi đem xay thành bột, lọc cho mịn, để thật ráo nước. Bẻ từng mẩu nhỏ cỡ đầu ngón tay cái, nặn cho tròn, giữa đặt một miếng đường thẻ xắt vuông hạt lựu làm nhân. Thả bánh vào nồi nước đang sôi để luộc. Chìm nổi vài lần là bánh chín, vớt ra nhúng sơ vào nước nguội rồi xếp vào đĩa, mỗi đĩa khoảng trên dưới một chục cái. Vỏ bánh trắng trong, hiện rõ nhân màu nâu đỏ, ăn dẻo, thơm và có vị ngọt đậm đà. Người xưa cho rằng đây là thứ bánh tinh khiết, thanh đạm, có thể dùng để cúng lễ. (Mùng 3 tháng 3 Âm lịch, dân gian cúng trời đất bằng bánh trôi, bánh chay và hoa quả).

Hồ Xuân Hương mở đầu bài thơ bằng cách nói quen thuộc trong ca dao:

Thân em vừa trắng lại vừa tròn,

Bảy nổi ba chìm với nước non.

Những câu ca dao với chủ đề than thân trách phận thường được mở đầu bằng cụm từ mang đậm mặc cảm tự ti của người phụ nữ: Thân em như hạt mưa sa... Thân em như trái bần trôi... Thân em như miếng cau khô... Trong bài thơ này, Hồ Xuân Hương để nhân vật trữ tình tự giới thiệu bằng lời lẽ khiêm nhường màẩn chứa niềm tự hào chính đáng: Thân em vừa trắng lại vừa tròn. Tả chiếc bánh trôi tròn trịa, xinh xẻo nhưng đằng sau những chi tiết rất thực ấy, tác giả muốn nói tới thân phận phụ thuộc và vẻ đẹp cùng phẩm giá cao quý của người phụ nữ. Xưa nay, phụ nữ được coi là phái đẹp, là tinh hoa của Tạo hoá. Bởi vậy, nhìn những chiếc bánh trôi nước, ta sẽ nghĩ tới vẻ đẹp trong trắng của những cô gái đương xuân.

Giữa những chiếc bánh trôi nước với thân phận của đa số phụ nữ dưới chế độ phong kiến có những nét tương đồng. Người phụ nữ không chỉ bị ràng buộc bởi những quan niệm luân lí khắt khe, bị tước đoạt quyền sống tự do mà còn bị khinh rẻ và chà đạp lên nhân phẩm. Thái độ trọng nam khinh nữ: Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô, hay luật Tam tòng khiến cho họ bất bình, phẫn uất nhưng buộc phải cắn răng cam chịu.

Bảy nổi ba chìm là thành ngữ phổ biến mang nghĩa hàm ngôn, dùng để chỉ những số phận long đong, lận đận, vất vả trăm bề. Thành ngữ này đã được Hồ Xuân Hương vận dụng vào bài thơ thật tự nhiên và phù hợp, diễn tả chính xác sự suy ngẫm và nỗi ngậm ngùi, chua xót của nữ sĩ trước tình cảnh riêng của bản thân và tình cảnh chung của phụ nữ thời ấy. Đúng như lời đúc kết của đại thi hào Nguyễn Du:

Đau đớn thay phận đàn bà,

Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung!

Thấu hiểu điều đó nên Hồ Xuân Hương đã dùng những từ ngữ bình dân, nôm na nhưng rất giàu khả năng gợi tả để thể hiện thân phận phụ thuộc ấy:

Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn,

Mà em vẫn giữ tấm lòng son.

Không được sống tự do, tự chủ, người phụ nữ nào có khác chi những chiếc bánh trôi nước kia ngon hay dở là do tay kẻ nặn. May mắn hay rủi ro, hạnh phúc hay bất hạnh đều không thể tự mình quyết định. Nhưng Hồ Xuân Hương không chỉ đơn thuần nói đến chuyện đó mà bà muốn nhấn mạnh tới tấm lòng son, tức là phẩm giá cao quý của người phụ nữ, dù họ phải sống trong hoàn cảnh éo le, trớ trêu tới mức nào. Điều lớn lao ấy đặc biệt ở chỗ là nó được nữ sĩ dẫn dắt, khơi gợi từ hình ảnh chiếc bánh trôi nước nhỏ bé và xinh xẻo. Bánh trôi lúc chín trắng trong, lộ rõ màu nhân nâu đỏ. Từ thực tế ấy mà Hồ Xuân Hương liên tưởng đến tấm lòng son. Như thế là ý nghĩa ngụ ngôn mà nữ sĩ gửi gắm trong hình tượng thơ đã bộc lộ rõ. Bà muốn khẳng định rằng dù xã hội có nhẫn tâm vùi dập, dù cuộc đời có bảy nổi ba chìm đến đâu chăng nữa thì người phụ nữ vẫn giữ trọn vẹn phẩm giá cao quý của mình. Cách xưng hô, cách nói trong bài thơ trước sau vẫn giữ được vẻ khiêm nhường mà chứa đựng một ý chí kiên định biết chừng nào! Ở bài thơ Tự tình II, về cơ bản Hồ Xuân Hương vẫn giữ phong cách ngôn ngữ nghệ thuật giản dị, tự nhiên giống như bài thơ Bánh trôi nước để thể hiện tâm trạng cô đơn, buồn bã, tủi hờn nhưng vẫn tha thiết yêu đời, yêu cuộc sống của mình.

Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn,

Trơ cái hồng nhan với nước non.

Câu thứ nhất chỉ thời điểm diễn ra tâm trạng. Đó là lúc đêm khuya thanh vắng, lâu lâu lại văng vẳng tiếng trống canh. Nghệ thuật lấy động tả tĩnh ở đây đã tỏ ra đắc dụng. Tiếng trống canh vang lên bức bối trong màn đêm thăm thẳm, mịt mùng khiến cho sự vắng lặng càng tăng lên gấp bội. Thời gian trôi qua mới chậm chạp làm sao! Chậm chạp, nặng nề nhưng nó vẫn đi. Còn tâm trạng con người trong khung cảnh ấy thì như lắng đọng lại và thỉnh thoảng lại như dồn; như thúc, như chồng chất thêm lên khiến cho lòng càngđau đớn, dằn vặt khôn nguôi. Câu thứ hai: Trơ cái hồng nhan với nước non có sự kết hợp tài tình giữa ngôn ngữ dân gian và ngôn ngữ văn chương bác học. Hồng nhan có nghĩa là gương mặt đẹp của người con gái, thường được dùng để chỉ phụ nữ nói chung. Nhưng Hồ Xuân Hương đã cố tình sự vật hóa nó bằng cách gọi là cái hồng nhan, lại đặt tính từ Trơ lên đầu câu khiến cho vẻ đẹp mà Tạo hóa ưu ái ban cho riêng phái nữ giống như một sự vật vô tri vô giác nào đó. Vẻ đẹp là tinh hoa của trời đất, rất đáng nâng niu, trân trọng. Ấy vậy mà nó bẽ bàng Trơ ra trước con mắt lạnh lùng vô cảm của người đời, chứ không phải chỉ là trơ trọi trước cảnh thiên nhiên, non nước luôn dào dạt sức sống, sức yêu. Hồ Xuân Hương đã đặc tả một cách thần tình nỗi đau âm ỉ, nung nấu và thiêu đốt tâm can mình bấy lâu bằng câu thơ giản dị mà có sức lay động, ám ảnh lạ lùng. Đó là tình cảnh và tâm trạng bi đát của nữ sĩ trong thời điểm đặc biệt này. Tưởng chừng như nỗi cô đơn, sầu tủi đến mức đắng cay, chua chát đã biến con người thành gỗ đá.Nhưng không phải vậy. Trái tim còn đập nên ý thức vẫn còn, nữ sĩ đành mượn rượu giải sầu, muốn say cho quên hết. Khổ nỗi:

Chén rượu hương đưa say lại tỉnh

Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn.

Hết say lại tỉnh, có nghĩa là đã nhiều lần say và những cơn say nối tiếp nhau. Cố say, cố quên, vậy mà lúc tỉnh rượu thì thấy bao nhiêu dối trá, hững hờ của người đời vẫn còn sờ sờ ra đó và nỗi đau khổ, bẽ bàng của mình cũng cứ còn nguyên. Nỗi cô đơn lại càng tăng lên gấp bội. Ước mong một mảy may bù đắp, một chút tròn đầy mà không sao có được. Giống như hình ảnh vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn, cuộc đời mình cũng đã ngả chiều và chờ đợi cũng đã mỏi mòn mà không biết bao giờ ước nguyện mới thành hiện thực?! Sự lựa chọn từ ngữ của Hồ Xuân Hương quả là đã đạt tới mức tài tình, chuẩn xác nhưng vẫn tự nhiên, dung dị mà chứa chất tầng tầng lớp lớp ý nghĩa, khai thác mãi không vơi cạn..

Mạch suy tư của nữ sĩ bất chợt rẽ sang một hướng khác. Với tính cách vốn mạnh mẽ, bà không thể đắm chìm mãi trong cảm xúc thương thân tủi phận. Cố say để quên nhưng không sao quên được. Tỉnh thì đau khổ nhưng mình vẫn còn được là mình. Trăng khuyết chưa tròn thì không đến nỗi tuyệt vọng. Ngọn lửa niềm tin trong lòng vẫn cháy, nữ sĩ tin vào tình yêu chân thành, tha thiết của mình đối với con người và cuộc đời, tin vào nghị lực của bản thân. Nhìn rộng ra xung quanh, thấy lời dạy của đất trời sâu kín mà rành rành trước mắt, ngụ ở trong từng ngọn rêu, tảng đá. Hình ảnh trong bài thơ không có gì là cao xa, khó hiểu mà vô cùng gần gũi nhưng vẫn chứa đựng ý nghĩa hàm súc và thâm thúy. Rêu nhỏ bé, yếu ớt là thế mà vẫn cố hết sức Xiên ngang mặt đất, vươn lên đầy sức sống. Đá lầm lì là vậy mà Đâm toạc chân mây để khẳng định sự hiện diện của mình. Hồ Xuân Hương tỏ ra rất táo bạo và sáng tạo trong việc đảo ngược cấu trúc thông thường của câu thơ, nhằm thể hiện tới mức cao nhất ý mình muốn nói. Tính ẩn dụ của hình ảnh vì thế mà có khả năng gợi liên tưởng rất mạnh và có ý nghĩa giáo dục sâu sắc. Nó như nhắc nhở, thúc giục nữ sĩ nói riêng và phụ nữ nói chung hãy xiên ngang, đâm toạc tất cả những gì phi lí ràng buộc, vây bủa con người để hướng tới một cuộc sống thật sự tự do, thật sự hạnh phúc.

Tự tình là mình nói với mình, mình tâm sự, bày tỏ nỗi lòng với chính mình, nhưng không phải vì thế mà tính khái quát của bài thơ bị hạn chế. Hồ Xuân Hương đã giãi bày rất chân thực tâm trạng cô đơn, tiếc nuối, xót xa, cay đắng, chán chường nhưng không tuyệt vọng, vẫn âm ỉ, le lói ước mong được chia sẻ, yêu thương:

Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại,

Mảnh tình san sẻ tí con con!

Điệp khúc xuân đi xuân lại lại khẳng định quy luật cua Tạo hóa là không thể đổi thay. Biết thế nhưng với tâm trạng trên thì nữ sĩ lại thấy nó như trêu ngươi khiến mình càng thêm buồn, thêm tủi. Sự trái ngược giữa mùa xuân của thiên nhiên và mùa xuân của đời người làm tăng nỗi ngao ngán sẵn có trong lòng bấy lâu nay. Tuổi xuân qua đi không bao giờ trở lại. Ngẫm nghĩ về mình thì tấm tình xưa dành cho người, dành cho đời rộng rãi, mênh mông là thế, nay sau bao năm không nhận được mảy may bù đắp nên chỉ cònmột mảnh. Mảnh tình ấy tiếp tục đem san sẻ thì cũng chỉ được một tí con con. Cách nói dân gian tự nhiên cộng thêm phần sáng tạo của nữ sĩ tài hoa đã cụ thể hóa tình yêu vốn dĩ là một khái niệm trừu tượng, biến nó thành dễ hiểu, dễ đi vào lòng người.

Hai bài thơ trên in đậm dấu ấn tính cách và phong cách sáng tác của Hồ Xuân Hương - một kì nữ trong nền thơ ca tiếng Việt. Với sự nghiệp sáng tác độc đáo để lại cho đời, Hồ Xuân Hương đã góp phần khẳng định tiếng Việt của dân tộc ta giàu và đẹp.

Bài mẫu số 4: Bài mẫu phong cách nghệ thuật của Hồ Xuân Hương qua bài thơ Bánh trôi nước, Tự tình (bài II)

Có thể nói ngày nay, vị trí của người phụ nữ đã được đề cao, tôn avinh hình ảnh, người phụ nữ Việt Nam hiện diện ở nhiều vị trí trong cuộc sống và đã để lại nhiều hình ảnh bóng sắc trong văn học hiện đại. Nhưng thật đáng tiếc thây, trong xã hội thời trước người phụ nữ phải chịu một số phận đầy bi kịch và đáng thương

Bài làm

Trong xã hội phong kiến trọng nam khinh nữ, người phụ nữ là đối tượng của áp bức bất công của nhiều rằng buộc khắt khe đến phi lí. Thấu hiểu, đồng cảm, thương xót cho họ, không ít nhà văn, nhà thơ thời Trung đại đã lên tiếng ca ngợi và bênh vực.

Có thể nói ngày nay, vị trí của người phụ nữ đã được đề cao, tôn avinh hình ảnh, người phụ nữ Việt Nam hiện diện ở nhiều vị trí trong cuộc sống và đã để lại nhiều hình ảnh bóng sắc trong văn học hiện đại. Nhưng thật đáng tiếc thây, trong xã hội thời trước người phụ nữ phải chịu một số phận đầy bi kịch và đáng thương.

Đau đớn thay phận đàn bà

Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung

Câu thơ trên đã hơn một lần xuất hiện trong sáng tác của đại thi hào Nguyễn Du nó giống như một điệp khúc, một lời ca lời thán, nói ra cũng chẳng ai hay, chẳng ai hiểu. “Thân em như con bọ ngựa chao chược mà thôi”, “thân em như con ong con kiến”, thân phận phụ nữ thật nhỏ bé, cứ lam lũ qua ngày này đoạn tháng. Đây là những câu ca thán khá phổ biến trong văn học Việt Nam. Trong “Bánh trôi nước” của Hồ Xuân Hương. Ta có thể thấy rõ được số phận của người phụ nữ xưa. Số phận phải phó mặc, không thể nắm giữ trong tay mình. Tất cả là do những hũ tục, những quan niệm xưa cũ thời phong kiến trọng nam khinh nữ đã tạo ra những xiềng xích, những bất công oan trái mà người phụ nữ cứ bị ảnh hưởng, không biết làm gì để thoát khỏi, trở nên chỉ biết cam chịu. Ta dễ dàng bắt gặp những hình ảnh đó trong các tác phẩm văn học dân gian. Người phụ nữ ngày xưa thường có một vẻ đẹp đoan chính, mang đủ phẩm chất công dung ngôn hạnh. Họ đẹp nhất là từ sâu trong tâm hồn. Mỗi người thường mang một vẻ đẹp khác nhau, và trong các tác phẩm mỗi tác giả sẽ khắc họa vẻ đẹp đó theo những cảm nhận riêng biệt. Như trong tác phẩm của Hồ Xuân Hương, hình ảnh người con gái trong “Bánh trôi nước”.Cả bài thơ là một hình ảnh nhân hóa, Hồ Xuân Hương đã nhìn và phát hiện ra nhiều nét tương đồng giữa chiếc bánh trôi với cuộc đời người phũ nữ trong xã hội phong kiến. Cả hai đều với thân hình vừa trắng lại vừa tròn, mang một vẻ đẹp đầy đặn, dân dã. Đây là một vẻ đẹp mộc mạc tự nhiên nhất của người con gái nhưng không kém phần duyên dáng khỏe mạnh, đây chính là hình tượng hay lam hay làm, người con gái lao động ở chốn thôn quê. Hay ở trong tác phẩm Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du, đây là những tiểu thư mang trong mình vẻ đẹp hoa gen nguyệt thẹn, mai cốt cách tuyết tinh thần. Mang nét đẹp nhẹ nhàng, thoát tục, yếu đuối như cành mai. Mỗi người đều có một lựa chọn cho hình tượng người con gái, người phụ nữ. Nhưng tất cả đều có một số phận bảy nổi ba chìm với nước non. Họ đều là nhưng người phụ nữ, những cô gái có tâm hồn cao quý, trong trắng như băng tuyết thanh cao….Nhưng…cuộc đời họ lại chìm, nổi, lênh đênh giữ dòng nước cũng chính là dòng đời, họ không thể tự mình làm chủ được số phận của mình. Hồng nhan bạc mệnh là thế, càng xinh đẹp họ lại phải chịu số phận thăng trầm, đau khổ tột cùng, chịu quá nhiều sự bất công trên đời. Đớn đau thay thân phận người phụ nữ.

Thân em như hạt mưa xa

Hạt vào đài cát, hát ra ruộng cày

Thân em như tâm lụa đào

Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai

Số phận của họ vào thế bị động, phải phụ thuộc vào người khác, những gã đàn ông chỉ lấy phụ nữ làm trò mua vui. Nắm giữ số phận của chính mình là một niềm khát khao, nhưng quá mù mịt vì xã hội phong kiến đã trói buộc họ quá chặt. Trong tác phẩm Tự tình của Hồ Xuân Hương, ta dễ dàng thấy được sự cô đơn, buồn tủi đang bủa vây. Số phận người phụ nữ trở nên quá hẩm hiu, rẻ mạc như một món hàng nhưng người phụ nữ cũng đầy bản lĩnh khi dám đem ra để thách thức với xã hội. Đây cũng chính là mong muốn lay tĩnh tất cả người phụ nữ bấy giờ, Hồ Xuân Hương mong muốn, người phụ nữ phải có ý thức rõ về cuộc sống, về phẩm chất của mình. Phải cố gắng kiên trì để gìn giữ tấm lòng son, dù “rắn nát mặc dù tay kẻ nặn- mà em vẫn giữ tấm lòng son”. Đây cũng chính là lời khẳng định giá trị đáng quý của người phụ nữ. dù tình duyên hay số phận của họ đều không được thuận lợi.

Số phận người phụ nữ thời xưa đều phải chịu bao nhiêu oan khuất, bất hạnh. Ngày nay, chúng ta được sống trong một xã hội văn minh, tiến bộ hơn. Người phụ nữ cũng được đề cao coi trọng. Bên cạnh đó cũng còn biết bao người phụ nữ vẫn phải chịu bất hạnh. Vì vậy, chúng ta không chỉ cần phải biết để sẽ chia thông cảm, mà còn cần phải chiêm nghiệm và suy nghĩ. Từ đó, ta càng thấy trân trọng và đồng cảm hơn cho những người phụ nữ kém may mắn.

Bài mẫu số 5: Văn mẫu phân tích phong cách nghệ thuật của Hồ Xuân Hương qua bài thơ Bánh trôi nước, Tự tình (bài II)

Đời của Hồ Xuân Hương là một cuộc đời thử thách , đấu tranh tư tưởng khi tuổi mới lớn, rồi lấy chồng rồi ở giá, những vật lộn ngoại giới, gây bấn loạntâm thần đó là yếu tố tâm lý nhưng Hồ Xuân Hương là một phụ nữ nhạy cảm , dể rung động về bản năng sinh lý, nữ sĩ rơi vào một trạng thái bị động về sinh lý nén đọng

Bài làm

Trong lịch sử ngôn ngữ và lịch sử văn học Việt Nam. Hồ Xuân Hương là người đầu tiên xử dụng thơ mang tính dục (sexual) của ngôn ngữ văn học hiện đại nước ta. Có thể nói rằng ngôn ngữ văn học Việt Nam đã trải qua một cuộc thay đổi về bản chất và khả năng biểu hiện đầy đủ, sâu sắc qua dòng thơ của Hồ Xuân Hương. Đây là một dấu hiệu tiến bộ trong lĩnh vực ngôn ngữ và văn học.

Hồ Xuân Hương xử dụng tài tình một lối ngôn ngữ đặc thù cho văn thơ; nói lên những yếu tố tâm lý nhân gian rút ra từ những tập quán thông thường, mô tả trắng trợn sự hiếu dục, hiếu sắc giữa hai bề mặt của tri giác.

Những trắc ẩn đó không một ai nói ra hoặc có chăng nữa cũng nữa úp nữa mở bởi những ước lệ khắc khe của Nho giáo của đạo đức xã hội; vì vậy mà không dám”vi phạm” dù dưới hình thức nào của chữ nghiã. Hồ Xuân Hương huỵch toẹt những tệ đoan xã hội, những tiềm ẩn chôn vùitrong lòng sâu của tâm hồn bằng những vần thơ tả chân, lột tả tột độ quan niệm nhân sinh. Nữ sĩ không e lệ, không ngượng ngùng, không sợ thị phi phê phán ở tuổi xuân thì của một thiếu nữ đương thời. Nữ sĩ Hồ Xuân Hương đã dân tộc hoá những đặc tính văn hoá chữ Hán mà trước đây xử dụng dè dặt trong văn học chữ Nôm; nhờ điều hòa hai luồng tư tưởng cố hữu nói trên bà đưa vào những vần thơ phản ảnh đích thực hiện trường của một xã hội Việt Nam thời bấy giờ.

Tác giả Hồ Xuân Hương là sản phẩm đúc kết của thế giới ngoại quan và tác động tâm trí nội quan qua từng thời kỳ hay qua từng chặng đường lịch sử mà mỗi thời là động lực lôi cuốn sự biến thái của ý tưởng và ngôn ngữ nhất là ngôn ngữ của văn học những uẩn khúc của thân phận, thân phận bị chà đạp, cưỡng ép, bức tức mà người phụ nữ phải gánh chịu. Hồ Xuân Hương lấy thơ để riễu đời, để miệt thị những kẻ lộng quyền, nói lên những thói hư tật xấu mà xã hội phong kiến đã dung tục đã bao che. Tư tưởng bung xung của nữ sĩ phản ảnh đích thực của cuộc đời mà bà đã sống và thấy. Tuy nhiên; Hồ Xuân Hương không phải là người quá khắc khe với ngôn ngữ hay chủ quan của mình, lời thơ của Hồ Xuân Hương bay bổng và phát tiết ra muôn màu muôn sắc về thế thái nhân tình.

Hồ Xuân Hương một danh sĩ lừng lẫy; hơn phân nữa(100 bài thơ) thơ văn của bà để lại gồm có 17 bài tứ tuyệt, 38 bài Đường luật, 1 bài lục bát biến thể*. Nữ sĩ để lại cho đời những bài thơ bất hủ được truyền tụng cho tới ngày nay. Nhưng có điều; lịch sử văn học chưa xác quyết ngày sinh, tử của Hồ Xuân Hươngmặc dù đã kinh qua một thời gian dài lâu nghiên cứu, tìm hiểu của các nhà biên khảo. Nữ sĩ Hồ Xuân Hương người xứ Nghệ, gia đình bà thiên di ra Thăng Long và bà chào đời ở Khán Xuân, huyện Vĩnh Thuận gần Hồ Tây. Nơi đây; về sau bà thành lập Cổ Nguyệt Đường làm chỗ thù tạc văn nhân thi phú.

Cuối cùng; chẳng tìm ra Hồ Xuân Hương ra đời vào năm nào và mai táng nơi đâu. Đời chỉ dựa vào văn thơ, tình yêu hoặc những giai thoại truyền khẩu trong dân gian mà giả định(assume) tiểu sử của bà; ngoài ra không để lại một chứng tích tài liệu nào khác hơn.

Nhìn vào hình ảnh cuộc đời của Hồ Xuân Hương, chúng ta không đòi hỏi một yêu cầu nào khác hơn. Nhưng may thay những bài thơ của bà nói lên hình ảnh trung thực của chân lý, hình ảnh trung thành với cuộc đời. Trước cuộc đời và vũ trụ, tiếng thơ của Hồ Xuân Hương được hòa vào thời gian, được gieo vào cung bậc của thơ, được ngâm lên bằng âm thanh chắt lọc cô đọng và thấm sâu vào lòng đất trong một tâm giới của tình yêu, của quả cảm, của xao xuyến, của bức rức, của “kinh kỳ” của chuyển động cơ thể tạo nên những bộc phá nội tại. Nữ sĩ họ Hồ là một nữ nhi “thông minh vốn sẵn tại trời” (ND) ở tuổi tám, mười phát ra từ khẩu khí một lời thơ không phải bình thường và dể dầu như vậy. Từ cuộc đời, từ vũ trụ ngoại giới đã ý thức một vũ trụ tâm hồn; cha chết ở mười tuổi, rồi tới mẫu thân rồi lại nhiễu nhương. Những dằn vặt nội tại chính là những bi thương cuộc đời …

“Giơ tay với thử trời cao thấp

Xoạc cẳng đo xem đất ngắn dài”

(Thơ nôm truyền tụng)

Tiềm ẩn cả một tâm hồn phản kháng, thách thức giữa vũ trụ quan và vũ trụ nội giới cái nhìn của Hồ Xuân Hương khác với cái nhìn của tâm lý học, của triết học. Bởi Hồ Xuân Hương đang đứng giữa của chủ thể, của tâm sinh lý của thời kỳ chuyển kinh trước khi ý thức sự vật ngoại giới. Trên lý thuyết mang tính chất có thực(reality) nhưng trong vai trò chủ thể Hồ Xuân Hương chỉ biết về mình khi có sự vật ngoại giới hiện diện làm cho mình trở nên hiện hữu, vì rằng; ở tuổi mười, mười lăm của Hồ Xuân Hương là một phản kháng nội tại, một yếu tố tâm sinh lý thường xảy ra cho những tuổi dậy thì, một phản kháng siêu hình”giơ tay với thử.. ”là cả một đòi hỏi vượt mức, Hồ Xuân Hương muốn dấn thân, không sợ, không thị phi; “xoạc” với một ý thức trẻ thơ mà đã trưởng thành ở nội giới, nội giới ấy là hình ảnh, biểu lộ tự nhiên đưa tới sự cố là hình ảnh của gợi cảm của ngôn từ. Cũng nhờ đó soi rõ nội tâm Xuân Hương khi đụng chạm với vũ trụ ngoại giới “Trong sâu thẳm của mỗi từ ngữ, tôi chứng kiến sự sinh tôi”

(A fond de chaque mot. J’assiste à ma naissane) Alain Bosquet. Sở dĩ có được những ngôn từ, dù ẩn thể, nó cũng mang lại một cái nhìn thoáng vụt nhưng kinh hoàng giữa hai hình thái sáng tạo và ngôn từ trong tâm lý thơ của Hồ Xuân Hương.

Hồ Xuân Hương lớn dần với thời gian nẩy sinh trong lòng một tư tưởng yếm thế, đôi khi hoài nghi cho chính mình, và; cũng chưa hẳn định nghiã trọn vẹn hai chữ tục lụy. Thái độ ngập ngừng ở tuổi tròn trăng của Mai (Hồ Xuân Hương tự là Mai) khi đến thăm đài Khán Xuân:

Êm ái chiều xuân tới Khán đài

Lâng lâng chẳng bợn chút lòng ai

Ba hồi chiêu mộ chuông gầm sáng

Một vũng tang thương nước lộn trời

Bể ái nghìn trùng khôn tát cạn

Nguồn ân muôn trượng dể khơi vơi

Nào nào cực lạc là đâu tá ?

Cực lạc là đây chín rõ mười.

(Thăm Đài Khán Xuân)

Hồ Xuân Hương tả cảnh quang như một sự ngạc nhiên , nhưng hình ảnh ngạc nhiên là hình ảnh không xa lià đối tượng, gắn bó với đối tượng hiện hữu và trong hình ảnh thiên nhiên đó gắn bó với đối tượng suy tưởng, gắn bó một ý nghĩ của lòng mình là đã khám phá được nội giới mình qua đối tượng. Quan hệ của sự khám phá ấy chính là ngôn từ mà trong thơ của họ Hồ đã xử dụng để cho ta ý thứcsự tương ứng của ba hoàn cảnh qua một ngôn từ: biểu tượng ngôn từ, biểu tượng hình ảnh và biểu tượng tâm lý. Không có một đối tượng vũ trụ lúc ấy mà chỉ có cái nhìn từ vô ảnh mà ra, đó là tâm thức của con người. Không có một đối tượng vũ trụ mà chỉ dàn trải một tâm trạng bơ vơ giữa cảnh quan. Nội tâm chao động phát ra những ngôn từ:” êm ái, lâng lâng, nước lộn trời, dể khơi vơi …” Nữ sĩ Hồ Xuân Hương hiện tại thấy mình nhiều hơn thấy vũ trụ “Nào nào cực lạc là đâu tá?” thấy được sự hoài nghi tức là thấy được tâm trạng chơi vơi bằng một sự thức tĩnh trực tiếp của tâm trạng nhiều hơn qua đối tượng.

Tâm trạng vụt biến thành hình ảnh và thể hiện ra ngôn từ. Trong thế giới thơ, cõi phi ấy chiếm phần quan trọng trong sự khám phá của tâm hồn, có thể nói rằng ý thức của nghệ sĩ bình dân khi sáng tạo ra một câu thơ là do ý kiến về ngoại giới. Hồ Xuân Hương nhận sự vật trong không gian mà không sao thấy được đối tượng tình yêu mình mong muốn; cho nên mơ về (rêver à / a dreamy ) sự vật của vũ trụ là mơ về trạng thái thương nhớ của tình yêu. Đó là những trạng thái đẩy Hồ Xuân Hương vào sự chọn lựa hôn nhân. Nữ sĩ biết phận mình, gái ngoài hai mươi là gái lỡ thì đó là cái nhìn sâu xa của con người muốn tương giao với vũ trụ hiện hữu, mối tương giao đó tìm ra cõi lòng mình đang ẩn kín từ nội giới, trong bài Già Kén Kẹn Hom bà viết:

Bụng làm dạ chịu trách chi ai ?

“Già Kén Kẹn Hom” ví chẳng sai !

Tiếc điã hồng ngâm cho chuột vọc

Thừa mâm bánh lọc để ngưu vầy

Miệng khôn trôn dại đừng than phận

Bụng ỏng lưng eo chớ trách trời

Đừng đứng núi này trách núi nọ

Thì đâu đến nỗi đói ăn khoai !

Đó là những chặng đường của tình yêu bằng sự vật, bằng hiện tượng vũ trụ ngoại giới; sự kiện ta thán, lấy hiện tượng vũ trụ ngoại giới để nói lên vũ trụ tình yêu cho nên lời thơ nghe bình dị, chân thật nhưng đồng thời cũng lập được một ý nghĩ cho ngôn từ. Lời than vắn thở dài chính là nỗi trầm thống của nữ sĩ họ Hồ đang đứng giữa hai lĩnh vực tuổi đời và tình yêu, cả hai thứ đó vật lộn trong tư tưởng vũ trụ quan. Cảm tác bài thơ trên sau khi Hồ Xuân Hương bức ra khỏi cuộc tình đầu bất- đắc- dĩ với Tổng Cóc. Sau cái chết của Tổng Cóc; Hồ Xuân Hương có một cái nhìn đối tượng khách quan, nhìn tiếp thu, nhìn tham dự. Đó là những gì Hồ Xuân Hương muốn gạt ra khỏi vũ trụ nội giới để thiết lập một cái nhìn bình dị, vô tư với hình ảnh đẹp hơn, khát vọng hơn. Đó là khát vọng của sự vật và khát vọng của con người. Hồ Xuân Hương mơ về một người tình tương lai, tương đắc, tương phùng hơn cuộc tình “cưỡng bức” với Tổng Cóc. Qua bài thơ Khóc Tổng Cóc; Hồ Xuân Hương nghiễm nhiên đứng trên dư luận, phi đạo đức, phi lễ nghiã một phản kháng công khai đối với ngoại giới mà bà đương sống:

Hởi chàng ôi! ới hởi chàng ôi !

Thiếp bén duyên chàng có thế thôi

Nòng nọc đứt đuôi từ đây nhá

Ngàn vàng khôn chuộc dấu bôi vôi.

Chính cái nhìn đối tượng khách quan cũng đã đổi thay vũ trụ nội quan của Hồ Xuân Hương đưa tới một cái nhìn sáng sủa hơn.

Đời của Hồ Xuân Hương là một cuộc đời thử thách , đấu tranh tư tưởng khi tuổi mới lớn, rồi lấy chồng rồi ở giá, những vật lộn ngoại giới, gây bấn loạntâm thần đó là yếu tố tâm lý nhưng Hồ Xuân Hương là một phụ nữ nhạy cảm , dể rung động về bản năng sinh lý, nữ sĩ rơi vào một trạng thái bị động về sinh lý nén đọng. Hồ Xuân Hương đang tìm kiếm cho chính mình đối tượng tình yêu mà xung quanh bà trống không là phù phiếm, đến với Hồ Xuân Hương những thứ tạp nham, bà cảm thấy khổ, chính khổ sở đó đưa tới cái trống không vây phủ và nhận ra trong hiện hữu không có được một hạnh phúc nào khác, thì đó là một hiện hữu trống không “L’être et le néant “ J. P. Sartre; cho nên Hồ Xuân Hương phải xác nhận cụ thể vai trò của mình và chính là cái mà bà đang sống với “vivre avec” hiện hữu; qua bài thơ nguyền rủa như sau:

Khéo khéo đi đâu lũ ngẩn ngơ

Lại đây cho chị dạy làm thơ

Ong non ngứa nọc châm hoa rữa

Dê con buồn sừng húc dậu thưa.

(Mắng Học Trò Dốt)

Để từ đó; đi tìm chân lý cho chính mình, đó là cái mơ tuyệt đối của nữ sĩ.

Ý muốn hoài vọng, nghiã là nhà thơ họ Hồ, kẻ biết hưởng và sáng tạo lối mơ về của mình trong việc chiếm cứ cũng như chia xa mà mỗi trong chúng ta gặp phải cái tương quancủa Hồ Xuân Hương, Bà lý giải cuộc đời qua nhiều trạng thái khác nhau, xung đột với nội tâm, nhưng trong sự xung đột đó bà vẫn mơ về; bỗng nhiên chân lý tuyệt đối xuất hiện như phép mầu Hồ Xuân Hương gặp Phạm Đình Hổ như định mệnh hay giấc mơ của bản thể mơ về vì Hồ Xuân Hương cảm nhận được sự thúc đẩyđó và chính trong lần gặp gỡ ở hội thơ giữa hai người đã tương giao, xem như ngẫu nhiên nhưng thực chất là cố tình, như lối mơ về không còn là ngẫu nhiên mà tiềm ẩn hay bộc phát giữa hữu thức và vô thức.

Phạm tiên sinh nhìn Hồ Xuân Hương dưới một hiện tượng khác, dưới một hiện tượng của một tài hoa và ngược lại Phạm Đình Hổ là một danh sĩ. Từ chỗ thông giao thơ văn họ chuyển qua cái nhìn của tha nhân khác phái. Hồ Xuân Hương làm bài thơ Đưa Đò gởi cho Phạm tiên sinh:

Chú lái kia ơi, biết chú rồi

Qua sông rồi lại đấm ngay bu

Chèo ghe vừa khỏi lòng dòng ngược

Đấm c…ngay vào ngấn nước suối

Mới biết lên bờ đà vỗ đít

Nào khi giữa khúc phải co vòi

Chuyến đò nên nghiã sao không nhớ ?

Sang nữa hay là một chuyến thôi.

Đến khi Hồ Xuân Hương đã đi vào cái tuổi “về chiều”. Bà nhận ra sự phủ phàng của cuộc đời mà bà đã trải qua, bà cảm thấy cô độc trở lại, tình yêu đến rồi đi ở chặng cuối đời là một thức tĩnh nội tại vì bà nhìn cuộc đờiđã ẩn tàng sự biến đổi khi vừa chấp cánh hạnh phúc chưa kịp nhận thì đã khước từ sự biến di ? Có lẽ muốn thể hiện thể tính tình yêu cho nên lối mơ về bất chấp sự biến di đó. Đấy là những câu hỏi có thể có và cũng có thể không có trong lòng một người chứng kiến tổn thương của ái tình để đánh thoátsự hiện hữu đó. Xuân Hương tỏ bày cái vũ trụ nội giới của mình, vừa chua xót vừa rủa đời:

Kẻ đắp chăn bông, kẻ lạnh lùng

Chém cha cái kiếp lấy chồng chung

Năm thì mười họa nên chăng chớ

Một tháng đôi lần có cũng không

Cố đấm ăn xôi, xôi lại hỏng

Cầm bằng làm mướn, mướn không công

Thân nầy ví biết dường này nhỉ

Thà trước thôi đành ở vậy xong !

Tâm thức phản kháng của Hồ Xuân Hương lại một lần nữa bộc phát, không buông tha bà chấp nhận về cái gọi là ý thức tục lụy, ý thứcsiêu hình phản kháng. Nói như André Maurois:”Một người đàn bà dù có tầm thường đến mức nào cũng đủ làm cho chúng ta đau khổ; vì họ là đàn bà” Thì Phủ Vĩnh Tường cũng phải lụy cái tài hoa của Xuân Hương; bà biết thân phận mình, biết phận làm lẻ của một người tai to mặt lớn, văn hay chữ tốt đó không phải là chuyện thua thiệt của kẻ sĩ. Bản thể sâu xa của Hồ Xuân Hương là dự ước của hiện sinh cho nên hòa mình với Phủ Vĩnh Tường là cõi mơ về của Hồ Xuân Hương; thời gian siêu hình và thời gian hiện sinh trong cuộc sống của bà dù một phút quyết định của một ý thức ái tình, có kế tiếp chăng, có lẽ; chỉ bên kia cuộc đời cho nên hồi cố với Phạm Đình Hổ chỉ trên biên giới của đời và vô biên chứ không thể trong chuyển vận của hiện sinh giữa đời và tình ái.

Sau cái chết của Phủ Vĩnh Tường Trần Thúc Hiển, rồi tình yêu lỡ vận với Phạm Đình Hổ. Như vậy đời của Hồ Xuân Hương đã ăn nằm với ba nhân vật tai tiếng mà rút lại hóa không. Cái không ở đây là biểu tượng tuyệt vọng; l’être et le néant một hiện hữu trống không, một thôi thúc mà Hồ Xuân Hương gánh chịu của thời gian, thời gian tâm lý chính là thời gian sống của con người; đó là thời gian ý thức mà con người của nữ sĩ đã đắm mình vào và hòa mình trong nhịp sống để tạo nên một biến trình nội tại. Nếu con người đặt mình trong biến trình chuyển vận ngoại tại thì có thể xử dụng được thái độ đối xử của mình.

Thái độ hiện tại thuộc về tư tưởng cũng như tác động là hình ảnh sống động về nhân sinh; phơi bày một chế độ tàn dư phong kiến hẹp hòi, bất công của bọn giáo phường, đạo đức giả hiệu. Qua bài Vịnh Cái Quạt:

Mười bảy hay là mười tám đây

Cho ta yêu dấu chẳng rời tay

Mỏng dày chừng ấy chành ba góc

Rộng hẹp dường nào cắm một cây

Càng nóng bao nhiêu thời càng mát

Yêu đêm không phỉ lại yêu ngày

Hồng hồng má phấn duyên vì vậy

Chúa dấu vua yêu một cái này.

Bài thơ nói lên cái thật của hiện hữu nhưng cái thật của Hồ Xuân Hương là cái bao hàm vũ trụ nội quan có một âm hưởng khác, một âm hưởng nội tại đó là hiện hữu tính dục vật thể. Một lối dụng công chữ nghiã của họ Hồ mà ít ai xây dựng cái cảm quan như vậy. Đó làdòng tâm lý đi từ qúa khứ, hiện tại và tương lai khi con người thấy mình đang sống qua bao nhịp đời đã sống cũng như viễn tượng tương lai của nhịp đời sẽ sống. Đó là thời gian tâm lý mà Hồ Xuân Hương đã vượt qua và chính những giây phút ấylà hành động và cảm giác. Hồ Xuân Hương đã dùng ngôn từ như một thể tính triết học hiện sinh vừa cụ thể hóa vừa tượng trưng những thâm sâu cùng tận của vũ trụ ngoại giới cũng như vũ trụ siêu hình.

Động Hương Tích; Hồ Xuân Hương phơi bày cảm quan của mình qua con người hiện sinh, nhận định bằng cảm giác là nhận định trực tiếp ngay số phận của mình đang sống qua sự bắt gặp của ý thức:

Bày đặt kìa ai khéo khéo phòm

Nứt ra một lỗ hỏm hòn hom

Người quen cõi Phật chen chân xọc

Kẻ lạ bầu tiên mỏi mắt dòm

Giọt nước hữu tình rơi thánh thót

Con thuyền vô trạo cúi lom khom

Lâm tuyền quyến cả phồn hoa lại

Rõ khéo trời già đến dở dom.

(Thơ Nôm truyền tụng)

Cho nên có một hiện hữu hành vi và cảm giác; hiện hữu đang có những tác động gì đang được hoàn tất cả một mùi vị chua chát hay ngọt ngào, hiện hữu có một màu sắc thanh bình hay thê thảm trong khi hoài niệm phai dần với thời gian, không thấy được, không cảm được bằng tri giác không gian mà chỉ có thể bằng ký ức.

Vậy tâm thức phản kháng của Hồ Xuân Hương là tinh thần phản kháng giữa cõi thế vô thường, vô lượng của một thân phận mỏng manh, yếm thế, bức tức rơi vào một xã hội bất công và ngược đãi. Phản kháng là không đành lòng thuận sự ngổn ngang, tình huống nghiêng ngả và gắng gượng tái lập cõi mộng“Cổ Nguyệt Đường” trong cái mộng thái hòa để được xoa dịu, bởi; hiện hữu của nữ sĩ là nỗi trầm thống và tinh thần phản kháng hiện sinh được phát tiết qua những vần thơ nguyền rủa, phẩn nộ với ngậm ngùi của nội tại. Từ chỗ hữu hình và vô hình Hồ Xuân Hương vấp phải những gò đống, hang cùng ngõ cụt những ray rứt nội tại xô mình vào vũ trụ siêu hình, vũ trụ nhân sinh quan.

Ý thức của Hồ Xuân Hương là ý thức đậm mùi tục lụy. Có thể nói rằng khi chấp nhận hiện thể để chứng minh tình cảm của mình Hồ nữ sĩ xác định cuộc đời của con người hoàn toàn đau xót và không bao giờ ngừng nghỉ những mối sầu thương và vẫn yêu cuộc đời đau khổ vì khổ đau cũng giống như niềm vui và đôi khi đồng hóa với niềm vui…

Những lý lẽ đó hoặc bởi những lý do nào khác mà ta mất đi lịch sử đích thực của họ Hồ. Nữ sĩ Hồ Xuân Hương nhận thức được thời đại của mình đang sống. Đời đã nói một câu như thế nầy thay cho Hồ nữ sĩ “Je ne serait pas ici demain” không cần có tôi ở đây cho ngày mai.

Tìm kiếm google:

Xem thêm các môn học

Bài văn mẫu 11


Copyright @2024 - Designed by baivan.net