Câu 1: Lễ hội mùa xuân được khắc họa qua các hình ảnh nào?
Bài làm chi tiết:
Không khí ngày hội vui tươi náo nửc, được diễn tả trong nhịp thơ nhanh :
“Gần xa nô nức yến anh,
Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân.
Dập dìu tàị tử giai nhân,
Ngựa xe như nước áo quần như nêm.”
Con người, cảnh vật như cùng hoà nhịp trong không khí rộn ràng ngày xuân. Nó tương hợp với cảnh sắc tràn đầy sức sống ở bốn câu thơ đầu. Một loạt những từ ngữ đặc tả không khí nhộn nhịp được Nguyễn Du đưa vào trong mấy câu thơ ngắn : “gần xa”, “nô nức”, “dập dìu”, càng làm nổi bật màu sắc tươi vui của lễ hội. Trước mắt ta như hiện lên một bức tranh náo nhiệt: người người, tài tử giai nhân dập dìu, sánh vai nhau đi chơi xuân. Hai hình ảnh so sánh : “Ngựa xe như nước áo quần như nêm” đủ để khắc hoạ khung cảnh nhộn nhịp, đồng vui của ngày hội.
Những câu thơ làm hiện lên cả màu sắc, âm thanh, không khí, tâm trạng. “Gần xa” là khắc hoạ không gian ; “nô nức” là diễn tả tâm trạng của người dự hội; “như nước”, “như nêm” cho thấy không khí ngày hội. Đó là cái tài của một ngòi bút miêu tả bậc thầy. Nguyễn Du chỉ bằng vài nét khắc hoạ đã làm sống động cả một không khí rộn ràng ngày xuân. Cảnh đẹp đẽ, tươi vui hay chính là tâm trạng phơi phới của người trong cảnh. Được miêu tả từ điểm nhìn của chị em Thuý Kiều nên ta có thể nhận ra trong đó tâm hồn trẻ trung của những cô gái “xấp xỉ tới tuần cập kê”. Chính sức trẻ của những giai nhân ấy đã thổi hồn vào cảnh vật.
Sự nhộn nhịp của hội được tô điểm bởi phần lễ :
“Ngổn ngang gò đống kéo lên,
Thoi vàng vố rắc tro tiền giấy bay.”
Với hai câu thơ, đại thi hào dân tộc đã làm sống lại những nét văn hoá xưa qua tục lệ đốt vàng mã. Nhưng ở đây, lễ không phải là trọng tâm của cảnh. Vì vậy,nhữna “thoi vàng”, “tiền giấy” dường như chi là nghi thức góp phần làm cho không khí ngày xuân thêm phần trang trọng, tôn nghiêm. Chỉ với sáu câu thơ nhưng Nguyễn Du đã dựng nên trước mắt người đọc một bức tranh ngày hội đẹp đẽ, tươi sáng, tràn đầy sức sống. Những từ láy lồng trong những vế tiểu đối một cách nhịp nhàng tạo cho bức tranh một sự hài hoà nhưng vẫn không thiếu những điểm nhấn ấn tượng.
Khung cảnh thiên nhiên trong lễ hội cũng vô cùng tươi đẹp:
"Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa"
Bầu trời cao rộng, trong xanh, cỏ cây xanh non mơn mởn, điểm xuyết những bông hoa lê trắng tinh khôi. Tất cả tạo nên một bức tranh thiên nhiên thanh tao, tinh tế. Bức tranh lễ hội mùa xuân được Nguyễn Du miêu tả qua các hình ảnh sinh động, giàu sức gợi. Qua đó, tác giả thể hiện niềm hân hoan chào đón mùa xuân mới, đồng thời gửi gắm những ước mơ về cuộc sống tốt đẹp.
Lễ hội mùa xuân là một nét đẹp văn hóa truyền thống của dân tộc ta. Qua miêu tả của Nguyễn Du, chúng ta có thể cảm nhận được không khí náo nhiệt, vui tươi của lễ hội và vẻ đẹp của mùa xuân
Câu 1: Đoạn trích Cảnh ngày xuân kể lại việc gì? Nêu bố cục.
Bài làm chi tiết:
Trong tiết Thanh minh, hai chị em Thúy Kiều đi du xuân trong đoạn trích "Cảnh ngày xuân". Từ đó, tác giả thể hiện tâm trạng của hai chị em Kiều cũng như thiên nhiên và cảnh lễ hội mùa xuân tuyệt đẹp.Bố cục:
Mở đầu (4 câu đầu): Giới thiệu cảnh sắc thiên nhiên mùa xuân tươi đẹp.
Thân bài (8 câu tiếp): Miêu tả cảnh lễ hội Thanh minh náo nhiệt, đông vui.
Kết thúc (6 câu cuối): Tả cảnh chị em Kiều trở về sau khi du xuân
Câu 2: Qua bốn dòng thơ đầu, em hình dung quang cảnh mùa xuân được Nguyễn Du miêu tả như thế nào?
Bài làm chi tiết:
Mở đầu bài thơ "Cảnh ngày xuân", Nguyễn Du đã vẽ nên một bức tranh mùa xuân tươi đẹp, tràn đầy sức sống:
"Ngày xuân con én đưa thoi
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi
Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa"
Bằng những hình ảnh thơ mộng, giàu sức gợi cảm, tác giả đã đưa người đọc vào một thế giới mùa xuân rực rỡ, đầy sức sống.
Hình ảnh "con én đưa thoi" gợi ra nhịp sống hối hả, tấp nập của mùa xuân. "Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi" cho ta biết thời điểm đẹp nhất của mùa xuân đã đến. Bầu trời cao rộng, trong xanh được thể hiện qua hình ảnh "cỏ non xanh tận chân trời". Điểm xuyết trên nền cỏ xanh là những bông hoa lê trắng tinh khôi, tạo nên bức tranh thanh tao, tinh tế. Bức tranh mùa xuân không chỉ đẹp bởi cảnh sắc thiên nhiên mà còn bởi không khí ấm áp, tràn đầy sức sống. Tiếng chim én hót líu lo, tiếng cười nói của người đi chơi hội tạo nên một bầu không khí náo nhiệt, vui tươi. Bốn dòng thơ đầu của "Cảnh ngày xuân" là một bức tranh mùa xuân tuyệt đẹp, thể hiện tài năng miêu tả thiên nhiên của Nguyễn Du. Bằng những hình ảnh thơ mộng, giàu sức gợi cảm, tác giả đã đưa người đọc vào một thế giới mùa xuân rực rỡ, đầy sức sống.
Câu 3: Lễ hội trong tiết thanh minh được miêu tả qua những hình ảnh nào trong tám dòng thơ tiếp theo?
Bài làm chi tiết:
- Lễ hội mùa xuân hiện lên với Lễ tảo mộ và Hội đạp thanh
- Không khí lễ hội được gợi tả từ hệ thống từ ngữ giàu sức biểu cảm:
+ Các tính từ được sử dụng: “nô nức”, “gần xa”, “ngổn ngang” làm rõ hơn tâm trạng của người đi lễ hội
+ Các danh từ sự vật: “yến anh”, “tài tử”, “giai nhân”, “ngựa xe”, “áo quần”: gợi tả sự tấp nập đông vui của người đi hội
+ Các động từ gợi sự rộn ràng của ngày hội
- Thông qua cuộc du xuân của chị em Thúy Kiều, tác giả khắc họa hình ảnh một truyền thống văn hóa lễ hội của dân tộc
- Lễ và hội giao thoa hài hòa ⇒ nhà thơ yêu quý, trân trọng những vẻ đẹp của quá khứ dân tộc
⇒ Nghệ thuật: bút pháp chấm phá, các từ ngữ được sử dụng đa dạng, linh hoạt, nghệ thuật tả cảnh ngụ tình...⇒ Bức tranh lễ hội mùa xuân sống động
Câu 4: Hãy so sánh bức tranh thiên nhiên ở bốn dòng thơ đầu và sáu dòng thơ cuối, phân tích để thấy được mối quan hệ giữa cảnh vật và tâm trạng của chị em Thuý Kiều trong đoạn trích.
Bài làm chi tiết:
Ngay từ 2 câu thơ đầu tiên, Nguyễn Du đã gợi ra không gian và thời gian trôi qua của mùa xuân:
“Ngày xuân con én đưa thoi,
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi.”
Sử dụng hình ảnh ẩn dụ “con én đưa thoi” quen thuộc vào những ngày xuân, câu thơ vừa thể hiện vẻ đẹp của không gian, vừa gợi lên sự chảy trôi rất nhanh của thời gian. Đó là hình ảnh tả thực những chú chim én bay lượn trên bầu trời ngày xuân. Trên nền trời xanh thoáng đãng ấy, những cánh én từ phương Nam về chao liệng như thoi đưa, cùng nhau múa vũ điệu chào đón mùa xuân của thiên nhiên. Hình ảnh những cánh én gợi cho người đọc hình dung về một bức tranh thiên nhiên với bầu trời cao rộng và một không khí ấm áp của sự đoàn viên, sum vầy. Cánh én bay nhanh và nhiều như thoi đưa là hình ảnh ẩn dụ phản chiếu sự nhanh, gấp của thời gian. Cũng giống như cánh chim vụt bay, thời gian có những bước đi nhanh, vội, chả mấy chốc mà mùa xuân tươi đẹp này sẽ qua đi.
Sự nhanh chóng của thời gian tiếp tục được thể hiện qua những vần thơ: “Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi”. Sử dụng từ “thiều quang” có tác dụng tả thực thời tiết ấm áp của mùa xuân khi được những tia nắng lấp lánh chiếu rọi. Câu thơ gợi lên một không gian ngày xuân tươi đẹp, trong lành và tràn đầy sức sống tựa như đang dang tay đón những tia nắng xuân vàng dịu được mẹ thiên nhiên ban phát xuống vạn vật. Nhắc đến thời điểm mùa xuân vào tháng ba, khoảng thời gian mà vẻ đẹp sắc xuân đạt đến độ viên mãn nhất, rực rỡ nhất.
Thông qua hệ thống hình ảnh thơ trong 2 câu thơ đầu của đoạn trích không những gợi lên sự chuyển động nhanh, vội của thời gian mà còn thể hiện phần nào tâm trạng, cảm xúc của hai chị em Thúy Kiều, có chút tiếc nuối và lưu luyến. Qua đó, người đọc đã hình dung được một bức tranh thiên nhiên của một ngày xuân tươi đẹp, ấm áp, đồng thời cảm nhận được bao tâm trạng, nỗi niềm của nhân vật trữ tình.
Trong hai câu thơ tiếp theo, Nguyễn Du đã tái hiện một bức tranh mùa xuân sinh động, mở rộng ra cả không gian trời và đất với hai gam màu chủ đạo là xanh, trắng:
“Cỏ non xanh tận chân trời,
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.”
Sử dụng hình ảnh “cỏ non” quen thuộc và gần gũi, song hình ảnh đã đem lại nhiều nét đặc sắc cho bức tranh xuân, gợi ra trước mặt người đọc một không gian mênh mông. Trong đó, làm nền cho bức tranh chính là thảm cỏ non tươi xanh mơn mởn, trải dài đến tận chân trời, tạo ra hai mảng màu xanh: một là của trời, một của đất. Cỏ non và màu xanh của cỏ non có tác dụng trong việc gợi liên tưởng đến sức sống tràn trề của mùa xuân, mùa của vạn vật sinh sôi, bắt đầu một hành trình sống mới
Sử dụng hình ảnh thơ “cành lê trắng điểm”, tác giả đã thể hiện khả năng tài tình của mình trong việc vận dụng nghệ thuật bút pháp chấm phá: Trên nền màu xanh non của cỏ cây, xanh trong của trời đất là những bông hoa lê trắng, tạo ra sự tinh khôi, nổi bật vẻ đẹp của sức sống mãnh liệt của vạn vật trong mùa xuân. Đồng thời khiến cho không gian như thoáng đạt, nhẹ nhàng và thuần khiết hơn. Trong bức tranh xuân sinh động ấy, tác giả chỉ sử dụng 2 gam màu nhưng đã tạo ra sự hòa phối rất đỗi hài hòa giữa màu xanh của cỏ và sắc trắng của hoa lê.
Bằng bút pháp chấm phá tài tình, qua 4 câu thơ đầu của đoạn trích, ta thấy vẻ đẹp mùa xuân hiện lên không hề mang tính ước lệ mà mang vẻ đẹp rất thực, rất đẹp đẽ. Thành công của Nguyễn Du là đã phác họa được một bức tranh ngày xuân khoáng đạt, tinh khôi, trong trẻo. Từ đó, giúp người đọc có thể cảm nhận một bức họa thiên nhiên hoàn hảo, đầy sức sống đang ở ngay trước mắt. Đồng thời, cảm nhận được cảm giác tươi vui, phấn chấn xen lẫn chút bâng khuâng, tiếc nuối trong lòng nhân vật trữ tình.
Sáu dòng thơ cuối: Cảnh sắc thiên nhiên trên đường chị em Kiều trở về sau chuyến du xuân đầy nô nức và náo nhiệt là thể nhưng không ai có thể ngừng được bước đi của thời gian, cuộc vui nào rồi cũng đến hồi kết. Trên một nền không gian chiều xuân yên bình, thanh khiết, hai chị em Kiều dắt tay nhau trở về:
“Tà tà bóng ngả về tây,
Chị em thơ thẩn đan tay ra về.
Bước lần theo ngọn tiểu khê,
Lần xem phong cảnh cỏ bề thanh thanh.
Nao nao dòng nước uốn quanh,
Nhịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang.”
Đối lập với sự nhộn nhịp trong lễ hội mùa xuân, trên đường trở về của hai chị em, mọi chuyển động đều diễn ra nhẹ nhàng. Trái với bước đi vội vàng cùng sự trôi chảy nhanh của thời gian ở phần mở đầu đoạn trích, lúc này sự chuyển động của thời gian đã trở nên chậm rãi và nhẹ nhàng. Điều này được cảm nhận rõ nhất qua câu thơ “Tà tà bóng ngả về tây”. Sau khi ban phát “thiều quang” cho ngày xuân ấm áp, mặt trời đã từ từ khuất bóng sau những đám mây, nhường chỗ cho màn đêm buông xuống. Sử dụng từ láy “tà tà” đã thành công trong việc gợi tả rõ nét hình ảnh mặt trời đang từ từ lặn trong nền trời xế chiều. Cho thấy cảnh những ánh nắng cuối ngày đang tắt dần, không gian từ sáng chuyển dần sang tờ mờ tối. Gợi cho người đọc khung cảnh chiều tà tĩnh lặng và có chút buồn
Sự tĩnh lặng và thanh tĩnh của cảnh vật cũng là hình ảnh phản chiếu cho tâm trạng bâng khuâng tiếc nuối trong lòng nhân vật trữ tình, cụ thể là hai chị em Kiều. Dường như hai chị em đang tiếc nuối về những phút giây nhộn nhịp, nô nức của buổi du xuân vừa diễn ra.
Đến những câu thơ cuối bức tranh thiên nhiên, thay vì hiện lên với vẻ cao rộng và khoáng đạt tràn, cảnh sắc đã được miêu tả qua những hình ảnh bé nhỏ, thân thuộc hơn như hình ảnh “tiểu khê” và chiếc “cầu nho nhỏ” để bộc lộ dòng tâm trạng của con người. Tác dụng từ láy trong cảnh ngày xuân: Sử dụng hệ thống từ láy được trải đều trong các câu thơ cuối như “tà tà”, “thơ thẩn”, “nho nhỏ”, “thanh thanh”, “nao nao” đã giúp tác giả biểu đạt sắc nét cảm xúc trong từng câu thơ.
Sáu câu thơ cuối thể hiện mối quan hệ hai chiều qua lại giữa cảnh và tình. Khi hội tan, con người rơi vào trạng thái bâng khuâng, xao xuyến và nhìn cảnh vật bằng trong màu sắc u buồn và ảm đạm. Trong 6 câu thơ cuối của đoạn trích Cảnh ngày xuân, tác giả đã vận dụng khéo léo, xen kẽ bút pháp nghệ thuật độc đáo trong thơ ca trung đại. Nổi bật nhất là nghệ thuật tả cảnh ngụ tình, giúp tạo nên mối tương giao, thống nhất giữa cảnh và tình. Với phép nghệ thuật này, ta thấy cảnh vật vừa như có linh hồn của con người, vừa phảng phất nét u buồn và một vẻ đẹp rất đỗi tao nhã và thanh khiết..
Câu 5: Khái quát những thành công về nghệ thuật miêu tả thiên nhiên và lễ hội ngày xuân của Nguyễn Du trong đoạn trích Cảnh ngày xuân (việc sử dụng ngôn từ, xây dựng hình ảnh; những biện pháp nghệ thuật chủ yếu; thể thơ lục bát....).
Bài làm chi tiết:
Nguyễn Du đã sử dụng ngôn từ một cách tài tình để miêu tả thiên nhiên và lễ hội ngày xuân. Ngôn ngữ của ông giàu sức gợi hình, gợi cảm, giúp cho người đọc hình dung ra một cách sống động khung cảnh mùa xuân tươi đẹp, rực rỡ. Bên cạnh đó, Nguyễn Du cũng rất thành công trong việc xây dựng hình ảnh. Những hình ảnh trong thơ ông đều rất quen thuộc với đời sống con người, nhưng qua ngòi bút của Nguyễn Du, chúng trở nên sinh động, mang đậm dấu ấn cá nhân.
Tác giả sử dụng nhiều biện pháp tu từ như so sánh, nhân hóa, điệp ngữ... để tăng sức gợi tả, gợi cảm cho câu thơ. Bút pháp tả cảnh ngụ tình được sử dụng một cách thành công, giúp cho cảnh vật thiên nhiên như hòa quyện với tâm trạng con người. Thể thơ lục bát được sử dụng một cách linh hoạt, uyển chuyển, giúp cho câu thơ du dương, mượt mà, dễ đi vào lòng người.
Với những thành công về nghệ thuật như vậy, Nguyễn Du đã vẽ nên một bức tranh mùa xuân và lễ hội Thanh minh vô cùng sinh động, rực rỡ và đầy sức sống. Bức tranh ấy không chỉ đẹp bởi cảnh sắc thiên nhiên mà còn đẹp bởi tâm hồn con người. Qua đó, tác giả cũng thể hiện tài năng miêu tả thiên nhiên và nội tâm con người của mình.
Câu 6: Trong đoạn trích trên, em thích nhất hình ảnh nào? Vì sao?
Bài làm chi tiết:
Hình ảnh:
“Ngày xuân con én đưa thoi
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi.”
Từ trên đồi cao, mùa xuân mở ra trước mắt chúng ta là một không gian bất tận trong ánh nắng ban mai ấm áp của đất trời. Lúc này đã vào tháng ba bầu trời chưa hẳn trong xanh như trời thu nhưng cũng đủ in hình những cánh én rộn ràng bay lượn.
Hình ảnh “con én đưa thoi” gợi cho ta nhiều cách hiểu khác nhau. “Con én đưa thoi” có thể hiểu là những cánh én chao liệng trên bầu trời như thoi đưa, bởi chim én là tín hiệu của mùa xuân. Bên cạnh đó, "con én đưa thoi” còn có thể hiểu là thời gian trôi rất nhanh chẳng khác nào thoi đưa. Nếu hiểu theo cách hai thì câu thơ "Ngày xuân con én đưa thoi" không chỉ đơn thuần là câu thơ tả cảnh mà ngầm chứa trong đó bước đi vội vàng của thời gian. Cách hiểu này dường như rất lô gích với câu thơ tiếp theo: “Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi”. Nhà thơ Nguyễn Du đã đưa ra những con số rất cụ thể. Mùa xuân có chín mươi ngày thì đã trôi đi quá nửa (đã ngoài sáu mươi). Câu thơ ẩn chứa sự nuối tiếc khôn nguôi của con người trước sự chảy trôi của thời gian. Mùa xuân vốn đến và đi theo quy luật của tự nhiên bao giờ vẫn thế nhưng ở đây nhà thơ đã nhìn dưới cái nhìn tâm lí mang màu sắc chủ quan nên mùa xuân cũng trở nên sống động. Ta bắt gặp sự gần gũi trong cách cảm nhận thời gian của đại thi hào Nguyễn Du với ‘‘hoàng tử thơ ca" Xuân Diệu sau này. Nhà thơ Xuân Diệu của thời thơ mới trước mùa xuân tươi đẹp cùng đã có những dự cảm về sự tàn phai, nuối tiếc:
“Xuân đang tới nghĩa là xuân đương qua
Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già”
(Vội vàng - Xuân Diệu)
Sự tương đồng trong cách cảm nhận bước đi mùa xuân giữa hai nhà thơ cách nhau mấy thế kỉ thể hiện sự nhạy cảm, tinh tế của những hồn thơ kiệt xuất. Chỉ có những người biết yêu, biết quý trọng thời gian mới có thể cảm nhận được sự chảy trôi, vận động tế vi đến như vậy.
soạn ngữ văn 9 cánh diều tập 1, soạn văn 9 cánh diều bài 2: Cảnh ngày xuân (Trích Truyện Kiều, soạn bài [,,]