[toc:ul]
“Trăm năm trong cõi người ta
Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau”
Những vần thơ bất hủ ấy cũng chính là điều mà Nguyễn Du đã đúc rút được từ cuộc đời của những con người tài hoa nhưng bạc mệnh trong thời đại của ông. Với con mắt trông suốt sáu cõi, tấm lòng nhìn suốt nghìn đời, Nguyễn Du đau xót với nỗi đau của nhân vật, và cũng yêu thương, trân trọng họ hơn bất kì ai. Điều ấy được thể hiện rất rõ trong kiệt tác Truyện Kiều qua đoạn trích Chị em Thúy Kiều.
Nguyễn Du là đại thi hào dân tộc cũng là một danh nhân văn hóa vĩ đại của nhân loại. Sinh ra và lớn lên trong một gia đình đại quý tộc nhưng cuộc đời của ông có nhiều biến động thăng trầm khiến ông có thời gian sống gần gũi, gắn bó với nhân dân. Chứng kiến cảnh tượng cơ cực, bần hàn và chính ông cũng từng trải qua cuộc sống ấy, Nguyễn Du thấu hiểu sâu sắc với những người lao động nghèo bị áp bức, bóc lột và bị đạp xuống đến tận cùng của xã hội. Đặc biệt, là một người tài năng nhưng bản thân Nguyễn Du lại có một cuộc đời truân chuyên đầy sóng gió. Vì thế, bên cạnh đề tài viết về người phụ nữ và những người lao động nghèo, Nguyễn Du có không ít những tác phẩm viết về số phận của những người tài hoa bạc mệnh như ông. Đó là tiếng lòng và sự cảm thông của một trái tim chưa bao giờ thôi khao khát và đau đáu với nỗi đau chung của con người.
Truyện Kiều là kiệt tác không chỉ của dân tộc Việt Nam mà còn của cả thế giới. Tác phẩm không chỉ dựng nên bức tranh hiện thực của một xã hội phong kiến thối nát khi mà đồng tiền có sức mạnh ghê gớm có thể chi phối cả đạo đức và nhân cách của con người thì mọi hệ giá trị trong xã hội lúc bấy giờ đều đảo lộn hoàn toàn mà còn khắc họa đầy ám ảnh về số phận của những con người trong xã hội ấy, đặc biệt là những người phụ nữ tài hoa. Đoạn trích Chị em Thúy Kiều nằm trong phần mở đầu của tác phẩm, thuộc phần I - Gặp gỡ và đính ước, là phần khắc họa vẻ đep của Thúy Vân và Thúy Kiều đồng thời Nguyễn Du cũng góp phần dự báo số phận của cả hai người.
Lời giới thiệu của Nguyễn Du đầu đoạn trích cũng đủ để gợi dậy sự tò mò cho người đọc khi hai đứa con đầu lòng nhà viên ngoại họ Vương kia là hai “ả tố nga”, những người con gái đẹp, lại đang tới tuổi cập kê là Thúy Vân và Thúy Kiều. Hai cô đều đẹp:
“Mai cốt cách, tuyết tinh thần
Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười”
Bút pháp ước lệ tượng trưng là một bút pháp quen thuộc và đặc trưng của văn học trung đại. Vẻ đẹp của thiên nhiên sẽ được lấy làm chuẩn mực, thước đo cho vẻ đẹp của con người. Trong quan niệm của người xưa, mai và tuyết là những tinh túy của đất trời. Mai thì cứng cỏi, thẳng thắn còn tuyết thì trong trắng, tinh khôi. Điều ấy cũng có nghĩa, cả hai người đều mang một vẻ đẹp trong trắng, thanh tao, có cốt cách. Hai chị em đều có vẻ đẹp riêng nhưng vẻ đẹp ấy đều vẹn tròn và hoàn hảo “mười phân vẹn mười” khó có người nào có thể sánh kịp.
Vẻ đẹp của Vân được Nguyễn Du khắc họa qua những câu thơ:
“Vân xem trang trọng khác vời
Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang
Hoa cười ngọc thốt đoan trang
Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da”
Vẻ đẹp của Vân hiện lên với vẻ trong sáng, ngây thơ, đoan trang và dịu dàng. So với những người phụ nữ cùng lứa tuổi, Vân có vẻ “trang trọng” hơn. Đó là vẻ đẹp của một người con gái mang sự cao sang, quý phải của một cô con gái nhà quyền quý. Bởi vốn dĩ, Vân và Kiều là những cô tiểu thư cành vàng lá ngọc nên ngay trong cốt cách của họ là những cây mai cũng cho thấy được sự chăm chút và nuôi dạy tỉ mỉ của cha mẹ nàng. Sau đó, Nguyễn Du đã lia ống kính của mình kĩ hơn vào những đường nét trên khuôn mặt của Vân. Ông đã lựa chọn miêu tả Vân qua khuôn mặt đầy đặn, phúc hậu như vầng trăng tròn, sáng như đêm ba mươi, đôi lông mày rậm cong vút như râu của con ngài. Cùng với đó là nụ cười tươi như hoa, tiếng nói thánh thót, trong sáng như tiếng ngọc. Mái tóc nàng bồng bềnh, đen nhánh như mây, làn da thì trắng mịn màng như tuyết mùa đông. Nguyễn Du đã sử dụng hết những bái vật tinh khôi, trong trẻo của đất trời là hoa, là trăng, là ngọc, là mây để dựng nên nét đẹp yêu kiều, quý phái của Vân và ông cũng thật tinh tế khi sử dụng những từ “thua”, “nhường” như một cách để dự báo số phận cho người con gái ấy. Vẻ đẹp của Vân là hoàn hảo, “mười phân vẹn mười” với sự tròn đầy, hoàn hảo vừa đủ, hòa hợp với thiên nhiên. Vì thế mà thiên nhiên sẵn sàng thua kém, nhường nhịn nàng. Có lẽ vì thế mà so với Kiều, cuộc sống của Vân sau này cũng sẽ êm đềm, nhẹ nhàng và bình yên hơn Kiều rất nhiều.
Không phải ngẫu nhiên Nguyễn Du lại miêu tả Vân trước, miêu tả Kiều sau, trong khi xét về vai vế, Vân là em. Ông đã sử dụng bút pháp đòn bẩy, lấy vẻ đẹp của Vân để làm phông nền làm nổi bật tài sắc của cô chị, là Thúy Kiều:
“Kiều càng sắc sảo, mặn mà
So bề tài sắc lại là phần hơn
Làn thu thủy, nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh.
Một hai nghiêng nước nghiêng thành
Sắc đành đòi một tài đành họa hai”
Chỉ bằng một chữ “càng” cũng đủ để Nguyễn Du khẳng định vẻ đẹp của Kiều. Vân vốn dĩ đã rất xinh đẹp, trang trọng và quý phái thế nhưng sang đến Kiều, nàng có tất cả những vẻ đẹp ấy của Vân mà khi so sánh ở mọi mặt lại có phần nổi bật hơn. Bởi Kiều không chỉ sang trọng, quý phái mà còn “sắc sảo, mặn mà”. Cái sắc sảo mặn mà của Kiều là toát lên trong thần thái, hành động và cách ứng xử của nàng. Với Kiều, Nguyễn Du chỉ lựa chọn miêu tả đôi mắt và đôi lông mày trên khuôn mặt của nàng. Đôi mắt của Kiều đẹp, sâu và lặng như làn nước mùa thu. Còn đôi lông mày thì giống như dáng núi của mùa xuân. Người ta thường xem đôi mắt là cửa sổ của tâm hồn và tâm hồn của Kiều giống như làn nước mùa thu, vừa dịu dàng, vừa sắc sảo. Vẻ đẹp của Kiều đã vượt xa so với vẻ đẹp chuẩn mực của thiên nhiên, vì thế mà thiên nhiên phải “ghen”, phải “hờn” với nàng. Với những từ chỉ trạng thái cảm xúc tiêu cực ở mức độ mạnh như thế, Nguyễn Du đã dự báo trước cuộc đời và số phận truân chuyên, vất vả, chìm nổi của Kiều trong tương lai. Bởi lẽ, con người tài hoa thường bạc mệnh. Thiên nhiên sẽ có cách dể trừng phạt họ, khi vẻ đẹp và tài năng đã vượt xa chuẩn mực. Thành ngữ “nghiêng nước nghiêng thành” cùng với câu thơ “sắc đành đòi một tài đành họa hai” như một lời khẳng định vẻ đẹp của Kiều có thể sánh ngang với những bậc mĩ nhân thời xưa, có thể còn vượt xa hơn nữa. Nhà vua cũng có thể sẽ vì nhan sắc của Kiều mà đánh mất cả giang sơn.
Khác với Vân, Kiều không chỉ có vẻ đẹp nhan sắc mà nàng còn có tài năng vượt trội hơn người:
“Thông minh vốn sẵn tính trời
Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm
Cung thương làu bậc ngũ âm
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương.
Khúc nhà tay lựa nên chương
Một thiên bạc mệnh lại càng não nhân”
Những câu thơ trước, Nguyễn Du đã giúp người đọc hình dung về nhan sắc của một cô Kiều vừa đẹp, vừa sắc sảo. Nếu nhan sắc của Kiều đứng thứ hai thì không ai có thể đứng trước nàng được. Nhưng như thế dường như vẫn chưa đủ. Bởi Kiều không chỉ đẹp mà tài năng của nàng cũng xếp ở vị trí thứ nhất. Thông minh trở thành bản tính trời cho của Kiều nên nàng có thể chơi và giỏ trên mọi lĩnh vực nghệ thuật: cầm - kì - thi - họa. Kiều trở thành hình mẫu lí tưởng theo quan niệm thẩm mĩ của lễ giáo phong kiến với một người con gái. Phải nói thêm rằng, gia đình Kiều là một gia đình gia giáo, lại là gia đình trung lưu, nên việc để Kiều theo học những thứ ấy cũng không có gì là lạ. Nhưng lạ một điều là, Kiều học gì biết nấy, học gì cũng giỏi. Nhưng đặc biệt, tài năng của Kiều được nhấn mạnh và tô đậm bởi tài đánh đàn. Kiều thuộc lòng các cung bậc và chơi thành thạo đàn hồ cầm - thứ đàn cổ, rất khó chơi. Hơn thế, nàng còn giỏi sáng tác nhạc nữa: “Khúc nhà tay lựa nên chương/Một thiên bạc mệnh lại càng não nhân”. Mỗi nàng lần đánh đàn, nàng lại cất lên bài hát “Bạc mệnh” làm cho người nghe phải đau khổ, sầu não. Bài hát chính là tâm hồn, là bản đàn theo suốt cuộc đời Kiều, biểu hiện một trái tim đa sầu đa cảm và cuộc đời éo le, bất hạnh.
Nguyễn Du đã sử dụng những bút pháp rất đặc trưng của văn học trung đại để khắc họa vẻ đẹp của chị em Thúy Kiều. Đó là bút pháp ước lệ tượng trưng và bút pháp đòn bẩy. Nhà thơ chỉ dùng có bốn câu thơ để tả Vân nhưng lại dành tới mười hai câu để tả nhan sắc và tài năng của Kiều. Dù vậy nhưng cả hai chị em vẫn hiện lên sống động, cụ thể, chân thực trong một cuộc sống đủ đầy, sung túc mà mỗi người mang vẻ đẹp, tính cách và số phận riêng.
Đoạn trích đã khắc họa thành công vẻ đẹp của chị em Thúy Kiều đồng thời cũng cho ta thấy được tài năng, cảm hứng ngợi ca vẻ đẹp của con người và sự cảm về kiếp người tài hoa nhưng bạc mệnh đầy nhân văn của Nguyễn Du.
Xanhbơvo đã nói, đại ý như sau: nếu chọn nhà văn tiêu biểu cho từng nước, nước Anh sẽ không ngần ngại chọn Sechxpia, nước Pháp – Molie và nước Đức – Gớt. Còn tôi, nếu có quyền được chọn, tôi sẽ không đắn đo nêu tên Nguyễn Du cùng kiệt tác Truyện Kiều. Đây là một trong những đỉnh cao chói ngời của nền văn học Việt Nam và nền văn học thế giới. Làm nên giá trị bất hủ này có nhiều nguyên nhân, song một điều không ai có thể phủ nhận là tài nghệ miêu tả và khắc họa tính cách nhân vật sắc sảo đến mức các nhà viết tiểu thuyết hiện đại cũng khó lòng theo kịp. Nhân vật được nhà thơ miêu tả trước hết trong truyện là Thúy Vân, Thúy Kiều. Chúng ta thử so sánh tài sắc của hai chị em này qua đoạn trích Chị em Thúy Kiều.
Trước hết nhà thơ miêu tả nhân vật Thúy Vân và Thúy Kiều có những nét rất giống nhau.
“Đầu lòng hai ả tố nga,
Thúy Kiều là chị, em là Thúy Vân
Mai cốt cách, tuyết tinh thần,
Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười”
Nét giống nhau đầu tiên là hai chị em được so sánh với “hai ả tố nga”. Tố nga chỉ người con gái đẹp gợi cho người đọc liên tưởng đến vẻ đẹp của Hằng Nga trên cung trăng. Với bút pháp ẩn dụ ước lệ, nhà thơ còn nêu lên nét giống nhau ở vẻ bề ngoài và bên trong của hai chị em: “Mai cốt cát, thuyết tinh thần”. Nói đến mai là nói đến sự mảnh dẻ, thanh tao; nói đến tuyết là nói đến sự trong trắng, tinh khôi. Cả mai và tuyết đều rất đẹp. Tác giả đã ví vẻ đẹp thanh tao, trong trắng của hai chị em như là mai, là tuyết, đến mức độ “mười phân vẹn mười”. Như thế, nhan sắc của cả hai đều báo hiệu rằng: ẩn chứa trong đó là một tâm hồn đẹp đẽ, đằm thắm:
“Phong lưu rất mực hồng quần
Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê
Êm đềm trướng rủ màn che,
Tường đông ong bướm đi về mặc ai”
Tuổi tuy đã “tới tuần cập kê”, đến độ tuổi lấy chồng nhưng hai nàng sống rất kỉ cương, lễ giáo. Cuộc sống “Êm đềm tướng rủ mà che” đã nói lên tính tình thùy mị, nết na, tư thế đài các. Còn thái độ “Tường đông ông bướm đi về mặc ai” để thể hiện thái độ trang trọn, lễ giáo của người đẹp. Đây cũng là cách ngợi ca kín đáo của nhà thơ về tâm hồn và phẩm hạnh của hai chị em.
Tuy nhiên, Thúy Vân và Thúy Kiều có những nét rất khác nhau. Thúy Vân có một vẻ đẹp đoan trang, phúc hậu:
“Vân xem trang trọng khác vời
Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang
Hoa cười, ngọc thốt đoan trang,
Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da.”
Thúy Vân có một vẻ đẹp thanh tú với khuôn mặt đầy đặn như trăng rằm. Miệng nàng cười như hoa nở, lời nói của nàng thốt ra từng từ tiếng cao qúy như ngọc. Thêm vào đó, mái tóc nàng đen mượt đến nỗi mây cũng chịu chào thua, làn da trắng mịn đến tuyết cũng phải nhường bước. Điểm xuất sắc trong nghệ thuật miêu tả của Nguyễn Du không chỉ dừng lại ở nét đẹp toát ra từ diện mạo bề ngoài mà qua đó còn nói lên được cả tính cách, thân phận của nhân vật. Với nét đẹp của khuôn mặt, làn tóc, nước da của Thúy Vân, người đọc còn thấy được tính cách đoan trang, phúc hậu, đồng thời còn cảm nhận được cuộc đời êm ả sau này của nàng.
Còn Thúy Kiều khác với em giá của mình ra sao?
Kiều càng sắc sảo mặn mà,
So bề tài sắc lại là phần hơn:
Làn thu thủy nét xuân sơn,
Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh.
Một hai nghiêng nước nghiêng thành.
Sấc đành đòi một tài dành họa hai.
Đọc đến đây, chúng ta vô cùng thán phục nhà thơ vì chỉ cần mấy dòng mà như thể hiện lên một tuyệt thế giai nhân: một người con gái “sắc sảo, mặn mà”. Nét đẹp này được cụ thể hóa bằng hình ảnh “làm thu thủy”. Mắt nàng thăm thẳm như làn nước trong veo của mùa thu, nhưng cũng ẩn chứa nỗi buồn man mác. Lông mày của nàng uốn cong xinh đẹp như dáng núi mùa xuân; dung nhan đằm thắm đến nỗi hoa cũng phải ghen, dáng người tươi xinh đến mức liễu cũng phải hờn giận vì không sánh bằng. Một lần nữa, biên pháp tu từ ẩn dụ ước lệ lại trở nên sắc bén qua ngòi bút của Nguyễn Du. Nhà thơ chẳng những đã thành công khi miêu tả dung nhan của Thúy Kiều mà còn như báo trước được số phận đau khổ của nàng khi nêu lên chi tiết “hoa ghen, liễu hờn”, làm cho người đọc liên tưởng đến câu thơ ở phần mở đầu “Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen”.
Điểm khác biệt nhất giữa Thúy Vân và Thúy Kiều là tài năng. Thúy Vân không được nói về tài năng, nhưng Thúy Kiều thì lại được mô tả khá nhiều:
Thông minh vốn sẵn tính trời,
Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm.
Cung thường lầu bậc ngũ âm,
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương.
Khúc nhà tay lựa nên chương,
Một thiên Bạc mệnh lại càng não nhân.
Chẳng những có sắc đẹp tuyệt vời, Thúy Kiều còn là một cô gái thông minh và rất mực tài hoa. Tài năng của Kiều được giới thiệu lần lượt theo lối liệt kê; tài thơ, tài họa, tài đàn, tài hát ca … tài nào cũng siêu việt. Các cụm từ “vốn sẵn tính trời”, “pha nghề””, “đủ mùi”, “ăn đứt” … có tác dụng làm nổi bật tài năng của nàng đã đến độ đầy đủ và trọn vẹn. Ngoài ra Kiều còn sáng tác nhạc, một bài đàn ai oán “Thiên bạc mệnh” ai nghe cũng thấy buồn thảm đớn đau. “Bạc mệnh” là mạng số mong manh. Đây cũng là dự báo tấn bi kịch “hồng nhan bạc mệnh” không tránh khỏi suốt mười lăm năm lưu lạc chìm nổi của nàng vì “chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau” và “Chữ tài liền với chữ tai một vần”.
Cũng có thể nói, từ khi các nhân vật Truyện Kiều như Thúy Vân, Thúy Kiều … ra đời thì khó có thể tìm được nhưng hình ảnh xuất sắc như thế vì các nhân vật này đã trở thành điển hình của thời đại, của xã hội. Nét bút của Nguyễn Du, nghệ thuật miêu tả và khắc họa tính cách nhân vật của nhà thơ sẽ làm cho Truyện Kiều sống mãi trong lòng dân tộc Việt Nam và cả nhân loại.
Chị em Thúy Kiều là đoạn trích nằm ở phần mở đầu Truyện Kiều của Nguyễn Du – nhà thơ nhân đạo xuất sắc cuối thế kỉ XVIII, đầu thế kỉ XIX. Tác phẩm có giá trị hiện thực và nhân đạo to lớn, đồng thời cũng là đỉnh cao nghệ thuật của thơ ca tiếng Việt, đặc biệt là nghệ thuật miêu tả nhân vật mà đoạn trích này là một ví dụ tiêu biểu.
Sau mấy câu tóm tắt về gia cảnh của vương viên ngoại, nhà thơ giới thiệu vẻ đẹp của chị em Thúy Kiều, Thúy Vân:
Đầu lòng hai ả tố nga,
Thúy Kiều là chị, em là Thúy Vân…
Êm đềm trướng rủ màn che,
Tường đông ong bướm đi về mặc ai.
Bút pháp tả người trong đoạn trích này là bút pháp ước lệ thường thấy trong thơ văn cổ điển, lấy những nét đẹp của thiên nhiên để so sánh với vẻ đẹp của con người. Ở những nhà thơ khác, nếu theo cách tả này thì chân dung nhân vật thường chung chung, mờ nhạt. Song công thức ước lệ ấy dưới ngòi bút tài hoa, sáng tạo của Nguyễn Du lại biến hóa khôn lường, khiến cho nhân vật trở nên sinh động.
Nhà thơ giới thiệu chung về hai chị em Thúy Kiều bằng cách gọi trân trọng dành cho những người con gái đẹp: tố nga và khẳng định: Mai cốt cách, tuyết tinh thần, Mỗi người một vẻ, mười phân vẹn mười. Cả hai đều có nhan sắc chim sa cá lặn. Hình dáng thanh tú, yểu điệu (mai cốt cách), tâm hồn trong trắng như sương, như tuyết (tuyết tinh thần).
Nguyễn Du rất kĩ lưỡng trong việc lựa chọn hình ảnh và từ ngữ để miêu tả. Thúy Vân hiện lên trước mắt người đọc với vẻ đẹp đài các, kiêu sa:
Vân xem trang trọng khác vời,
Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang.
Hoa cười, ngọc thốt đoan trang,
Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da.
Gương mật Thúy Vân toát lên vẻ đẹp phúc hậu, tươi tắn, gợi sự đầy đủ, viên mãn. Nàng cười tươi như hoa nở, tiếng hói trong như tiếng ngọc rơi trên mâm vàng. Tóc nàng đen mướt đến mây cũng phải thua, da nàng trắng đến mức tuyết cũng phải nhường. Dường như Tạo hoá đã ban cho Thúy Vân rất nhiều đặc ân mà nàng vẫn không bị ai ganh ghét và đố kị. Vẻ đẹp tràn đầy sức sống ấy báo trước cuộc đời Thúy Vân sau này sẽ yên ổn, vinh hoa. Nàng sẽ được hưởng mọi điều sung sướng của một bậc mệnh phụ phu nhân.
Không phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Du lại miêu tả Thúy Vân trước, Thúy Kiều sau. Chủ ý của nhà thơ là lấy vẻ đẹp của cô em làm nền cho vẻ đẹp của cô chị – nhân vật chính, vẻ đẹp của Thúy Vân trang trọng khác vời, tức là đạt tới mức cao nhất của nhan sắc mà Tạo hóa ban cho người phụ nữ; nhưng vẻ đẹp của Thúy Kiều lại đặc biệt ở chỗ là nó phá vỡ khuôn khổ thông thường từ trước tới nay.
Ngay từ câu đầu giới thiệu về Thúy Kiều, Nguyễn Du đã khẳng định:
Kiều càng sắc sảo mặn mà,
So bề tài sắc lại là phần hơn.
Thúy Vân đã đẹp khác người thường, Thúy Kiều lại hơn hẳn Vân cả tài lẫn sắc. Vẻ đẹp sắc sảo mặn mà của Thúy Kiều gây ấn tượng rất mạnh, ai được chiêm ngưỡng một lần ắt chẳng thể nào quên. Miêu tả Thúy Kiều, Nguyễn Du không đi vào chi tiết như tả Thúy Vân mà nhấn mạnh vào vẻ đẹp của đôi mắt – cửa sổ tâm hồn:
Làn thu thủy, nét xuân sơn,
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh.
Mắt nàng long lanh như nước hồ mùa thu, lông mày thanh tú như dáng núi mùa xuân. Ẩn chứa trong đôi mắt ấy là một tâm hồn đa cảm khác thường. Nhan sắc của nàng nghiêng nước nghiêng thành, khiến hoa phải ghen vì thua thắm, liễu phải hờn vì kém xanh. Tác giả đã đem hết tài năng nghệ thuật và tình cảm mến yêu, khâm phục để tả Thúy Kiều nhưng ông cũng có ý hé lộ cho người đọc thấy dự cảm bất an về tương lai của nàng. Theo thuyết tài mệnh tương đối khá phổ biến trong dân gian thời ấy thì phàm cái gì tốt đẹp trên đời đều khó mà giữ được bền lâu. Thúy Kiều đẹp không ai sánh bằng, ắt nàng sẽ bị người đời ghen ghét và đày đọa.
Một điều đáng chú ý nữa là khi tả Thúy Vân, thi hào Nguyễn Du tuyệt nhiên không nhắc đến tài. Còn tả Thúy Kiều thì ông nhấn mạnh nàng là người tài sắc vẹn toàn:
Một hai nghiêng nước nghiêng thành,
Sắc đành đòi một, tài đành họa hai.
Thông minh vốn sẵn tính trời,
Pha nghề thi họa, đủ mùi ca ngâm.
Cung thương làu bậc ngũ âm,
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương.
Trong đời, hiếm có người con gái nào đa tài như Thúy Kiều, nhất là tài chơi hồ cầm của nàng thì không ai bì kịp. Có sắc, có tài, Thúy Kiều lại có thêm tâm hồn mẫn cảm lạ lùng. Dường như nàng linh cảm được về số phận bất hạnh của mình nên đã sáng tác cung đàn bạc mệnh mà ai nghe cũng phải não lòng:
Khúc nhà tay lựa nên chương,
Một thiên “Bạc mệnh” lại càng não nhân.
Bốn câu thơ cuối đoạn, tác giả nhận xét chung về hai chị em Thúy Kiều, Thúy Vân và hoàn cảnh sống của họ:
Phong lưu rất mực hồng quần,
Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê.
Êm đềm trướng rủ màn che,
Tường đông ong bướm đi về mặc ai.
Những chi tiết trên chứng tỏ họ là con nhà nền nếp, được hưởng thụ một nền giáo dục đầy đủ và tốt đẹp; đồng thời khẳng định phẩm hạnh trong trắng, cao quý của chị em Thúy Kiều.
Đoạn trích chỉ có hai mươi bốn câu thơ nhưng đã cho chúng ta thấy được tài năng nghệ thuật tuyệt vời của Nguyễn Du. Ông xứng đáng là bậc thầy về sử dụng thủ pháp ước lệ để miêu tả chân dung nhân vật. Mỗi nhân vật của ông có diện mạo riêng, tính cách riêng rõ nét.
Trong khi miêu tả vẻ đẹp chị em Thúy Kiều, tác giả bày tỏ tình thương yêu,trân trọng đối với con người; kín đáo khẳng định rằng một con người tài sắc vẹn toàn như Thúy Kiều xứng đáng được hưởng tình yêu và hạnh phúc. Sau này, cuộc đời nàng bị đoạ đày, bất hạnh, ấy là do tội ác của các thế lực đen tối gây ra. Đọc đoạn trích, chúng ta có thiện cảm với hai chị em Thúy Kiều và cùng với tác giả, chúng ta hãy dõi theo bước chân của họ trên đường đời vạn nẻo đầy chông gai, sóng gió.
Văn học Trung đại Việt Nam có rất nhiều tác phẩm ngợi ca vẻ đẹp của người phụ nữ với nhiều sắc vẻ khác nhau. Đó là vẻ đẹp rực rỡ của Hạnh Nguyên trong Nhị độ mai, vẻ đẹp siêu phàm của người phụ nữ trong Cung oán ngâm khúc (Đặng Trần Côn - Đoàn Thị Điểm), vẻ đẹp vĩnh hằng của người con gái trong “Đề tranh tố nữ” (Hồ Xuân Hương)... Nhưng có lẽ nổi bật hơn cả là vẻ đẹp của hai chị em Thúy Vân và Thúy Kiều trong Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du. Chỉ bằng vài nét khái quát, mang tính ước lệ tượng trưng, Nguyễn Du đã khắc hoạ rõ nét chân dung hai chị em Kiều. Chân dung ấy là khuôn mẫu của sắc đẹp. Điều đó thể hiện rõ qua đoạn trích Chị em Thúy Kiều: