Soạn chi tiết Ngữ văn 9 Cánh diều bài 2: Điển cố, điển tích

Hướng dẫn giải chi tiết bài 2: Điển cố, điển tích bộ sách mới Ngữ văn 9 tập 1 cánh diều. Lời giải chi tiết, chuẩn xác, dễ hiểu sẽ giúp các em hoàn thành tốt các bài tập trong chương trình học. Baivan.net giải chi tiết tất cả các bài tập trong sgk. Hi vọng sẽ trở thành người bạn đồng hành cùng các em trong suốt quá trình học tập.

Câu 1:  Ghép các điển cố, điển tích (in đậm) ở bên A với nguồn gốc và nghĩa nêu ở bên B:

A. Điển cố, điển tích

 

B. Nguồn gốc và nghĩa

 

a) Giường kia treo cũng hững hờ. (Nguyễn Khuyến)

 

1) Điển tích, lấy từ chuyện xưa bên Trung Quốc: “Vua Hán Vũ Đế kén phò mã, cho công chúa ngồi trên lầu ném quả cầu xuống, ai cướp được thì được làm phò mã". Câu thơ mượn chuyện này để ngụ ý: Cha mẹ Thuý Kiều mong muốn gả con vào nơi xứng đáng.

 

b) Đàn kia gảy cũng ngẩn ngơ tiếng đàn. 

(Nguyễn Khuyến)

 

2) Điển tích, dẫn theo chuyện xưa: "Trần Phồn thời hậu Hán (Trung Quốc) sắm chiếc giường dành riêng cho người bạn thân là Từ Trĩ. Khi bạn đến chơi thì mang ông xuống, khi bạn về thì lại treo cất đi.

 

c) Một hai nghiêng nước nghiêng thành//Sắc đành đòi một tài đành hoạ hại

(Nguyễn Du)

 

3) Điển tích, lấy từ chuyện xưa: "Tương truyền Bá Nha và Chung Tử Kỳ là hai người bạn tri âm, sống vào thời Xuân Thu, Chiến Quốc (Trung Quốc xưa). Bá Nha chơi đàn giỏi. Tử Kỳ nghe tiếng đàn của Bà Nha mà như hiểu thấu tâm can của bạn. Sau khi Tử Kỳ chết, Bá Nha đập bỏ đàn vì cho rằng trên đời không còn ai hiểu được tiếng đàn của mình nữa".

 

d) Nuôi con những ước về sau/ Trao tơ phải lứa, gieo cầu đáng nơi.

 (Nguyễn Du)

 

4) Điển cố, lấy từ bài ca của Lý Diên Niên (Trung Quốc): "Nhất cố khuynh nhân thành, tái cố khuynh nhân quốc (Ngoảnh lại một cái làm xiêu thành trì của người, ngoảnh lại cái nữa làm xiêu nước người). Câu thơ mượn từ ngữ của bài thơ xưa để diễn tả về đẹp của Thuý Kiều

 

 

Bài làm chi tiết:

1-D, 2-A, 3-B, 4-C

Câu 2: Dựa vào chú thích trong Truyện Kiều của Nguyễn Du, giải thích nguồn gốc và ý nghĩa của các điển cố, điển tích (in đậm) trong những câu dưới đây:

 

a) Trải qua một cuộc bể dâu,

Những điều trông thấy mà đau đớn lòng.

b) Bấy lâu nghe tiếng má đào,

Mắt xanh chẳng để ai vào có không?

Bài làm chi tiết:

a) Hình ảnh "bể dâu" trong câu thơ được lấy ý từ câu Hán văn "Thương hải biến vi tang điền" (Bể xanh hóa thành ruộng dâu). Đây là một hình ảnh biểu trưng cho sự thay đổi, biến chuyển nhanh chóng, rõ ràng ngay trước mắt. Nhà thơ sử dụng hình ảnh này để gợi tả sự vận động, biến đổi không ngừng của cuộc sống.

b) Nguyễn Tịch, một nhà văn đời Tấn (265-419), được biết đến là người rất nghiện rượu và đàn. Sau khi làm quan, ông về nhà và kết bạn với một nhóm người như Kê Khang, Lưu Linh, Nguyễn Hàm, Sơn Đào, Hướng Tú và Vương Nhương, thường được gọi là "Trúc lâm thất hiền" (Bảy người hiền trong rừng trúc). Một đặc điểm lạ lùng của Nguyễn Tịch là cách đãi khách. Nếu khách là người ông thích, ông sẽ nhìn thẳng vào mắt họ để lộ toàn bộ lòng trắng mắt. Còn nếu là người ông không ưa, ông sẽ nhìn ngang (lườm) để lộ phần lòng trắng mắt. Đây không phải là cách đãi khách lịch sự, nhưng về sau, người ta lại dùng từ "mắt xanh" để chỉ sự bằng lòng, vừa ý với ai đó. Ví dụ, trong câu hỏi của Từ Hải "mắt xanh chẳng để ai vào có không", câu này có nghĩa là người phụ nữ ấy chưa từng nhìn thẳng vào mắt ai (tức là chưa thấy ai là người vừa lòng).

Câu 3: Tìm trong sách, báo (hoặc trên Internet) câu chuyện Tái Ông thất mã (Tái Ông mất ngựa). Viết một đoạn văn (khoảng 10 – 12 dòng) kể lại chuyện đó và nêu ý nghĩa của điển tích “ngựa Tái Ông".

Bài làm chi tiết:

Tái Ông thất mã là một điển tích nổi tiếng trong văn học và triết lý Trung Quốc, mô tả một câu chuyện về một ông lão tên Tái Ông. Theo truyền thuyết, một ngày nọ, Tái Ông mất một con ngựa. Người láng giềng đến an ủi, nhưng ông lão lại bình thản nói: "Mất ngựa biết đâu lại là điềm may".

 nói rằng không biết liệu việc mất ngựa có tốt hay xấu. Sau đó, ngựa của Tái Ông lại về và kéo theo một đoàn ngựa hoang. Người láng giềng lại đến chúc mừng, nhưng Tái Ông vẫn nói rằng "Được ngựa biết đâu lại là điềm họa".

Lời nói của Tái Ông khiến mọi người ngạc nhiên.

Thật không ngờ, con trai Tái Ông vốn tính hiếu động, vì ham chơi mà bỏ bê việc học hành. Khi thấy con ngựa hoang dã hung dữ, cậu bé sợ hãi và bị ngựa đá gãy chân. Mọi người lại đến nhà Tái Ông than vãn, nhưng ông vẫn bình thản nói: "Gãy chân biết đâu lại là điềm may".

Vài tháng sau, triều đình mở cuộc chiến tranh xâm lược. Tất cả thanh niên trai tráng trong vùng đều phải ra trận, chỉ trừ con trai Tái Ông vì bị gãy chân. Nhờ vậy, cậu bé thoát khỏi cảnh tang thương của chiến tranh.

Câu chuyện này thể hiện triết lý về sự tương đối và tính chất không thể đoán trước của cuộc sống. Nó gợi ý rằng những gì nhìn như là điều xấu có thể trở thành điều tốt, và ngược lại. Điển tích "ngựa Tái Ông" được sử dụng để nhắc nhở rằng chúng ta không nên vội vã đưa ra phán xét về những sự kiện xảy ra, mà cần giữ được thái độ bình thản, khách quan và nhìn nhận sự việc trong tổng thể. Đây là một triết lý sâu sắc về sự tương đối của thiện - ác, may - rủi trong cuộc sống.

Tìm kiếm google:

soạn ngữ văn 9 cánh diều tập 1, soạn văn 9 cánh diều bài 2: Điển cố, điển tích, soạn bài [,,]

Xem thêm các môn học

Soạn ngữ văn 9 tập 1 Cánh diều mới


Đia chỉ: Tòa nhà TH Office, 90 Khuất Duy Tiến, Thanh Xuân, Hà Nội
Điện thoại hỗ trợ: Fidutech - click vào đây
Chúng tôi trên Yotube
Cùng hệ thống: baivan.net - Kenhgiaovien.com - tech12h.com