Câu 1: Tóm tắt nội dung của văn bản trên. Theo bạn, những đặc điểm nào của thể loại truyện thơ đã được thể hiện qua văn bản.
Hướng dẫn trả lời:
Tóm tắt: Thiện Sĩ, con của Sùng Ông. Sùng Bà, kết duyên cùng Thị Kính, con gái của Mãng Ông. Một đêm, Thị Kính ngồi khâu, chồng đọc sách rồi thiu thiu ngủ bên cạnh, Thị Kinh thấy chồng có sợi râu mọc ngược nên cầm dao toan xén đi. Thiện Sĩ giật mình, vội hô hoán lên, cha mẹ chồng chạy vào, đổ cho nàng có ý định giết chồng và đuổi Thị Kính về nhà bố đẻ. Thị Kính giả trai, vào tu ở chùa Vân Tự, được thầy đặt pháp danh là Kính Tâm. Thị Mầu có thai với nô – người ở nhà phú ông. Bị làng bắt vạ, Thị đổ cho Tiểu Kính. Kính Tâm bị đuổi ra tam quan. Thị Mầu đem con bỏ cho Kinh Tâm. Tiểu Kính hằng ngày đi xin sữa để nuôi con của Thị Mầu. Sau ba năm, Tiểu Kính để lại thư kể rõ sự tình rồi mất. Sư cụ cùng mọi người lập đàn giai oan cho Kính Tâm để nàng được siêu thoát. Đoạn trích dưới đây kế việc Thị Mầu lên chùa về vãn tiểu Kinh Tâm.
Văn bản có các đặc điểm của truyện thơ như:
Câu 2: Việc Thị Kính nuôi con cho Thị Mầu đã được thuật lại theo ngôi kể nào, qua điểm nhìn của ai? Nhờ vào đâu mà bạn biết?
Hướng dẫn trả lời:
Việc Thị Kính nuôi con cho Thị Mầu đã được thuật lại theo ngôi kể thứ ba qua điểm nhìn của tác giả. Nhờ vào các câu thơ như: " Như thế thì thầy cũng nghi, Phồng như khác máu ru thì......"
Câu 3: Nhân vật Thị Kính hiện lên như thế nào qua văn bản? Từ đó, bạn có nhận xét gì về cách tác giả dân giản xây dựng nhân vật trong truyện thơ?
Hướng dẫn trả lời:
Qua ngôn ngữ và hành động của nhân vật Tiểu Kính trong đoạn trích, em có nhận xét về nhân vật này là một người hiểu lễ nghi, trọng phép tắc và kính Phật. Bởi nàng biết bước vào cửa Phật phải vượt qua sự ràng buộc của tình cảm trần thế, mà nay lại bị hiểu lầm của Thị Mầu khiến Tiểu Kính thấy khó xử. Nàng luôn niệm Phật, gõ mõ như một cách nhằm tĩnh tâm, bình tĩnh tránh bị ảnh hưởng bởi những lời quấy nhiễu của Thị Mầu. Tác giả đã xây dựng hình hình tượng nhân vật theo hai tuyến và nhân vật Thị Kính được xây dựng theo đúng tuyến nhân vật thiện lương.
Câu 4: Văn bản trên đã thể hiện những đặc điểm nào của ngôn ngữ văn học, đặc biệt là ngôn ngữ của truyện thơ Nôm? Hãy phân tích để chứng minh điều đó.
Hướng dẫn trả lời:
- Ngôn ngữ gần với lời ăn, tiếng nói hàng ngày, là ngôn ngữ truyền khẩu, giàu chất trữ tình và mang âm hưởng của các làn điệu dân ca Việt Nam.
Ví dụ như: - Tiếng gọi “thầy tiểu ơi!" lặp lại nhiều lần tạo cảm giác đây như tiếng gọi của sự yêu thương, cảm mến sâu sắc của Thị Mầu dành cho Tiểu Kính. - Em ấn tượng với lời tỏ tình “Một cành tre, năm cành tre/ Phải duyên thời lấy, chớ nghe họ hàng”. Đó là một lời tỏ tình đầy táo bạo, thể hiện sự nhất quyết vượt qua lễ nghi phong kiến thông thường. Bởi thường thì gái lớn gả chồng là phải có sự đồng ý của cha mẹ và lời của bà mai mối. Nhưng ở đây, Thị Mầu nói “chớ nghe họ hàng” thể hiện một sự dứt khoát muốn vượt qua lễ nghi này, tự quyết định tương lai của chính mình.
Câu 5: Thông điệp bạn nhận được qua văn bản trên là gì? Dựa vào đâu bạn cho là như vậy?
Hướng dẫn trả lời:
- Thông điệp: Ngợi ca những phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ, đồng cảm, xót thương cho nỗi oan bi thảm, nghiệt ngã của người phụ nữ, phê phán sự đối lập giai cấp tròn xã hội phong kiến.
- Dựa vào các tình huống truyện và lời của nhân vật.
Câu 1. Em hãy nêu giá trị nội dung, nghệ thuật của bài Thị Kính nuôi con cho Thị Mầu
Hướng dẫn trả lời:
- Giá trị nội dung:
Thị Kính nuôi con cho Thị Mầu trích trong Quan âm Thị Kính. Văn bản ngợi ca những phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ, đồng cảm, xót thương cho nỗi oan bi thảm, nghiệt ngã của người phụ nữ, phê phán sự đối lập giai cấp tròn xã hội phong kiến.
- Giá trị nghệ thuật:
Nghệ thuật sáng tác của tác phẩm Thị Kính nuôi con cho Thị Mầu thành công khi khắc họa nhân vật, sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa yếu tố tự sự, trữ tình, cách kể dễ hiểu dễ đi sâu và tâm lí con người, giúp câu chuyện trở nên dễ nghe, dễ đọc và dễ hiểu hơn khi đến tay của các độc giả.
Câu 2. Em hãy nêu nội dung chính của văn bản Thị Kính nuôi con cho Thị Mầu
Hướng dẫn trả lời:
Câu 3. Nêu tác giả, tác phẩm, bố cục của văn bản Thị Kính nuôi con cho Thị Mầu
Hướng dẫn trả lời:
Thể loại, phương thức biểu đạt
- Thể loại: Truyện thơ Việt Nam
- Phương thức biểu đạt: Kết hợp yếu tố tự sự và trữ tình
- Ngôi kể: Kể theo ngôi thứ 3
- Hoàn cảnh xuất xứ của tác phẩm: Thị Kính nuôi con cho Thị Mầu là tác phẩm trích trong Quan âm Thị Kính
Câu 4. Phân tích tác phẩm Thị Kính nuôi con cho Thị Mầu.
Hướng dẫn trả lời:
Truyện thơ Nôm là kho tàng văn học của dân tộc Việt Nam có giá trị to lớn. Kho tàng này chứa đựng, cất giữ biết bao kinh nghiệm sống, phong tục tập quán và cả kiến thức lịch sử về cộng đồng. Với thể thơ lục bát giàu biểu cảm, ca từ giản dị và âm hưởng tha thiết, truyện thơ Nôm mang đậm đà bản sắc dân tộc. Trong đó có một câu chuyện kinh điển mà cho đến nay nó vẫn luôn đọng lại trong tâm trí của người đọc về chiều sâu tư tưởng mà tác phẩm gửi gắm. Đó là đoạn trích “Thị Kính nuôi con cho Thị Mầu” trích “Quan Âm Thị Kính”.
Đoạn trích trên nói về tấm lòng nhân từ của Thị Kính khi bị Thị Mầu vu oan và đùn đẩy đứa con cho mình nhưng vì sinh mạng nhỏ bé, Thị Kính vẫn giữ lại đứa bé để nuôi nấng.
Thị Kính xuất thân là con gái nhà nghèo, lấy chồng tên Thiện Sỹ, con của phú ông. Vào một đêm nọ, khi Thiện Sỹ ngồi đọc sách mà ngủ quên mất. Thị Kính thấy dưới cằm chồng mình có râu mọc ngược, nàng biết là điểm gở nên lấy kéo muốn cắt nó đi. Đúng lúc Thiện Sỹ bừng tỉnh thì hiểu lầm rằng Thị Kính muốn sát hại mình nên hô hoán làm to chuyện. Cha mẹ Thiện sỹ là Sùng ông, Sùng bà nổi giận đuổi Thị Kính về quê với cha mẹ đẻ. Thị Kín ôm nỗi oan trong lòng mà buồn tủi định quyên sinh, nhưng lại thương cha mẹ già không ai báo hiếu, phụ dưỡng, nàng cải trang thành nam nhi và đi tu ở chùa Vân Tự, đổi cả tên thành Kính Tâm.
Làng có nàng Thị Mầu vốn tính lẳng lơ, dám say mê cả phật tử là Kính Tâm. Nàng ta lỡ dỡ có chửa với đầy tớ. Khi bị hào lí trong làng tra hỏi, nàng ta đổi tội ngay cho Kính Tâm. Cứ thế người phụ nữ tội nghiệp lại phải chịu nỗi oan ức lần thứ hai. Sau khi sinh con, Thị Mầu đem “trả” cho Kính Tâm:
Tiểu đương tụng niệm khấn nguyền
Bỗng nghe tiếng trẻ tá lên giật mình
Ngoảnh đi thị dạ chẳng đành
Nhận ra thì hóa là tình chẳng ngay.
Gớm thay mặt dạn mày dày
Trân trân rằng giá con đây mà về.
Vốn là chú tiểu đi tu ngày đêm nghe tiếng “tụng niệm khấn nguyền” mà nay lại giật mình nghe tiếng khóc “tá” lên của trẻ em. Đường đường là nhà sư chân chính nay vướng phải nghiệt duyên, Kính Tâm rối bời khó sử, bỏ rơi đứa bé thì cũng “chẳng đành”, mà nếu nhận đứa trẻ về chăm sóc thì lại hóa “tình chẳng ngay”. Thật gớm thay nàng Thị Mầu trơ trẽn, “trân trận” không biết hổ thẹn mà chối bỏ con mình. Biết rằng khi nhận đứa bé về nuôi sẽ bị lời đàm tiếu dị nghị nhưng thương cho trái tim nhỏ bé, Kính Tâm vẫn nhất quyết nhận nuôi:
Cơ thiển kể đã khắt khe
Khéo xui, ra đứa làm rê riếu mình
Nhưng mà trong dạ hiếu sinh
Phúc làm thì phúc, dơ thì đành dơ
Cá trong chậu nước sởn sơ
Thì nay chẳng cứu, còn chờ khi nao
Chẳng sinh cũng chịu cù lao
Xót tình măng sữa nâng vào trong tay
Bữa sau sư phụ mới hay
Dạy rằng: “Như thế thì thầy cũng nghi
Phỏng như khác máu ru thì
Con ai mặc nấy can gì đa mang
Quả thật trong mắt nhìn của ta thì có hiểu và xót thương cho thân phận Kính Tâm, nhưng là người không rõ sự tình, là đứa con “khác máu” không phải do mình sinh ra thì hà cớ gì Kính Tâm lại nhận nuôi con của người đã làm nên nỗi oan ức tủi hổ cho mình suốt đời. Ấy thế mà sư phụ cũng bị cảm hóa bới nghĩa tử cao đẹp, tấm lòng từ bi của Kính Tâm:
Bạch rằng: Muôn đội thầy thương
Xưa nay thầy dạy mọi đường nhỏ to
Dẫu xây chín đợt phù đồ
Sao bằng làm phúc cứu cho một người
...
Sư nghe thưa lại mấy điều,
Khen rằng: “Cũng có ít nhiều từ tâm”
Rõ là nước lã mà nhầm
Cũng đem giọt máu tình thâm hòa vào
Kính Tâm thưa rằng dù cho có xây chín tháp “phù đồ” cũng không thể bằng cứu một sinh mệnh. Tấm lòng thiêng liêng cap đẹp đó đã nhận được lời khen từ sư Cụ, quả thật là người có lòng từ bi. Từ tình người nhân hậu như “nước lã”, Kính Tâm đã dâng trọn tấm lòng để hòa vào “giọt máu tình thâm”, Kính Tâm coi đứa bé như là con đẻ của mình, hết mực yêu thương, nuôi nấng:
Mẹ vò thì sữa khát khao
Lo nuôi con nhện làm sao cho tuyền
Nâng niu xiết nỗi truân chuyên
Nhai cơm mướm sữa để nên con người
Đến dân ai cũng chê cười
Tiểu kia tu có trót đời được đâu
Biết chăng một đứa thương đâu
Mình là hai với Thị Mầu là ba
Ca dao xưa có câu nói ám chỉ việc tò vò nuôi con của người khác nhưng khi con lớn lên sẽ bỏ đi:
“Tò vò mà nuôi con nhện
Đến khi nó lớn nó quện nhau đi
Tò vò ngồi khóc tỉ ti
Nhện ơi nhện hỡi nhện đi đằng nào?”
“Mẹ vò” ở đây cũng vậy, dẫu biết “nuôi con nhện” không phải là con của mình, dù không có “sữa khát khao” nhưng Kính Tâm vẫn lo cho đứa nhỏ không thiếu bữa nào. Kính Tâm ngày đêm chăm ẵm, nâng niu, xin sữa để nuôi con, mong con khôn lớn thành người. Đúng là miệng đời thật tàn ác, họ vẫn không ngừng đồn thổi rằng Kính Tâm có tu thành chính quả được đâu. Nhưng đến lúc này thì sự thật vẫn bị chôn vùi, thực giả ra sao thì chỉ có đứa ở, mình và “Thị Mầu là ba” biết rõ. Nuôi dưỡng một đứa trẻ thật không dễ dàng, nhưng dường như ngày ngày nghe tiếng trẻ thơ tíu tít, bao nỗi lo âu, trăn trở hóa hư vô:
Ra công nuôi bộ thực là
Nhưng buồn có trẻ hóa ra đỡ buồn
Khi trống tàn, lúc chuông dồn
Tiếng chuông lẫn tiếng ru con tối ngày
...
Không gian tĩnh mịch, thanh tịnh nơi chùa linh thiêng nay xen lẫn cả “tiếng ru” con của Kính Tâm. Ta có thể cảm nhận được, tình mẫu tử không chỉ tồn tại ở chính cha mẹ sinh ra mình, nó còn hòa ta vào nhau khi gặp tấm lòng từ bi giáng thế. Tuy không phải con mình nhưng Kính Tâm vẫn tròn đạo là cha mẹ, đứa trẻ được nuôi nấng có đầy đủ điều kiện, có cả “lọ phương hoạt ấu”, “lọ thầy bảo anh”, hai thứ đó tượng trưng cho vị thầy thuốc bảo vệ sức khỏe của trẻ thơ. Thấm thoát đã ba năm trôi đi, đứa bé nay đã lớn, giống với “cha nuôi” của mình. “Cha nuôi” đó chính là Kính Tâm, người đã ỉa trai để đi tu trốn chùa thanh tịnh. Bậc cha mẹ ai mà không muốn con cái trưởng thành với công danh rạng rỡ. Kính Tâm cũng vậy, người mong ước con của mình mai này trưởng thành “cơ cầu” giỏi giang để nối nghiệp ông cha, người còn mong cho “tiến tình” tương lai dẫn bước con càng thành công rạng rỡ hơn lớp ông cha con bây giờ.
Đoạn trích “Thị Kính nuôi con Thị Mầu” với ca từ bình dị không kém phần sắc sảo của thể thơ lục bát cùng với lời thơ điêu luyện đã làm nổi bật nhân vật Thị Kính là một điển hình cho số phận của người phụ nữ trong xã hội xưa phải gánh chịu bất công, oan nghiệt. Thông qua số phận cuộc đời Thị Kính, tác giả cho người đọc thấy được bức tranh xã hội phong kiến đầy dẫy mâu thuẫn. Đó như một lời cảnh tỉnh cho những con người đang có suy nghĩ lui về cửa Phật. Để có thể chọn con đường đắc đạo, ta phải chịu được khổ hạnh, oan ức cũng giống như Thị Kính, dù có oan uổng đến mấy nhưng cái tâm từ bi, thiện lành đã quật ngã được cảnh ngộ.