Soạn văn 11 kết nối tri thức ngắn nhất bài 1: Chí Phèo (Nam Cao)

Soạn bài Chí Phèo (Nam Cao) sách ngữ văn 11 tập 1 kết nối tri thức ngắn gọn nhất. Nhằm giúp học sinh giảm bớt thời gian soạn bài nhưng vẫn đảm bảo nắm đủ ý, baivan giới thiệu các em tổ hợp bài soạn cực ngắn, siêu ngắn và ngắn nhất. Từ đó, học sinh có thêm lựa chọn bài soạn phù hợp với của mình. Soạn “Chí Phèo (Nam Cao)” cực ngắn - baivan.

[toc:ul]

I. Câu hỏi trong bài học

1. CÂU HỎI TRƯỚC KHI ĐỌC 

Câu 1: Thế nào là định kiến xã hội? Các định kiến xã hội có thể ảnh hưởng đến cá nhân và cộng đồng như thế nào?

Câu 2: Có thể bạn đã từng nghe thấy người ta gọi tính cách hay cách ứng xử của một ai đó là "Chí Phèo". Cách gọi ấy đã hàm ẩn sự đánh giá như thế nào đối với tính cách hay cách ứng xử này?

2. CÂU HỎI ĐỌC VĂN BẢN

Câu 1: Chú ý sự luân phiên của các điểm nhìn (điểm nhìn của người kể chuyện và nhân vật, điểm nhìn bên ngoài và bên trong).

Câu 2: Vì sao Chí Phèo lại khiến dân làng Vũ Đại e sợ khi hắn mới từ nhà tù trở về làng?

Câu 3: Người kể chuyện có hoàn toàn miêu tả cảnh Chí Phèo gây sự với người nhà Bá Kiến chỉ từ điểm nhìn của mình?

Câu 4: Chú ý những chi tiết miêu tả cách "ứng phó" của Bá kiến đối với Chí Phèo và người nhà của mình.

Câu 5: Những cảm giác, ấn tượng gì đánh dấu thời điểm bắt đầu diễn ra sự thay đổi bên trong con người Chí Phèo?

Câu 6: Điều gì ám ảnh Chí Phèo nhất khi nghĩ về cuộc đời của mình?

Câu 7: Lòng trắc ẩn của thị Nở dành cho Chí Phèo được thể hiện qua ý nghĩa và hành động nào?

Câu 8: Người kể chuyện đặt điểm nhìn ở đâu khi miêu tả những cảm xúc của Chí Phèo lúc đón nhận bất cháo hành của thị Nở?

Câu 9: Lời kể và điểm nhìn của người kể chuyện thể hiện thái độ như thế nào đối với Chí Phèo?

Câu 10: Lí do bà cô thị Nở dứt khoát không cho cháu mình đến với Chí Phèo có thỏa đáng không?

Câu 11: Tại sao tâm trí của Chí Phèo lúc này lại bị ám ảnh bởi hơi cháo hành?

Câu 12: Việc Chí Phèo tìm đến nhà bá Kiến có phải hoàn toàn do hắn đã say như nhận xét trước đó của người kể chuyện không?

Câu 13: Đây có phải là những lời của một kẻ say không?

Câu 14: Người kể chuyện có đưa ra lời bình luận hay đánh giá nào của mình về sự việc xảy ra ở làng Vũ Đại không?

Câu 15: Ý nghĩa của hình ảnh cái lò gạch cũ là gì?

3. CÂU HỎI SAU KHI ĐỌC 

Câu 1: Tóm tắt cốt truyện Chí Phèo theo trình tự thời gian cuộc đời nhân vật. Hãy đánh giá hiệu quả của việc phá vỡ trình tự này trong mạch trần thuật của tác phẩm.

Câu 2: Phân loại điểm nhìn trần thuật trong đoạn mở đầu theo các bình diện: điểm nhìn của người kể chuyện/ điểm nhìn của nhân vật (Chí Phèo, dân làng Vũ Đại); điểm nhìn bên ngoài và điểm nhìn bên trong. Nhận xét về tương quan và sự dịch chuyển giữa các điểm nhìn này, qua đó, chỉ ra những nét đặc sắc trong cách Nam Cao mở đầu câu chuyện.

Câu 3: Phân tích diễn biến tâm trạng của Chí Phèo vào buổi sáng sau cuộc gặp gỡ với thị Nở đêm trước. Theo bạn, nhân tố nào mang tính quyết định đối với quá trình hồi sinh nhân tính của nhân vật? Vì sao?

Câu 4: Phân tích phản ứng tâm lí và hành động của Chí Phèo sau khi bị thị Nở từ chối chung sống. Người kể chuyện có đưa ra những phán đoán đáng tin cậy để người đọc hiểu được tâm lí và hành động của nhân vật không?

Câu 5: Người kể chuyện bộc lộ thái độ như thể nào đối với Chí Phèo và thị Nở qua hệ thống điểm nhìn và lời kể?

Câu 6: Nhận xét về điểm nhìn và giọng điệu trần thuật ở đoạn kết của truyện ngắn khi Chí Phèo tìm đến nhà bá Kiến lần cuối và phán ứng của dân làng Vũ Đại về cái chết của hai nhân vật này. Theo bạn, cái chết của Chí Phèo có ý nghĩa như thế nào?

Câu 7: So sánh và nhận xét về đoạn kết của hai truyện ngắn Chí Phèo (Nam Cao) và Vợ nhặt (Kim Lân).

Câu 8: Hệ thống hoá những nét đáng chú ý trong nghệ thuật kể chuyện của Nam Cao ở truyện ngắn này trên các phương diện: người kế chuyện, điểm nhìn và lời trần thuật.

KẾT NỐI ĐỌC - VIẾT

Đề bài: Viết đoạn văn (khoảng 150 chữ) trình bày suy nghĩ của bạn về chi tiết bát cháo hành của thị Nở trong truyện ngắn Chí Phèo.

II. Soạn bài siêu ngắn: Chí Phèo (Nam Cao)

1. CÂU HỎI TRƯỚC KHI ĐỌC

Câu 1:

Định kiến ​​xã hội là những ý kiến, quan điểm đã được hình thành trước trong suy nghĩ con người. Từ đó dẫn đến các đánh giá không chính xác, không dựa trên căn cứ xác đáng.

Định kiến xã hội chính là cách nhìn nhận cứng nhắc, bảo thủ về bản chất của những con người, loại người, tầng lớp người cụ thể trong đời sống một cộng đồng. 

Các định kiến xã hội sẽ ảnh hưởng: mang đến cảm giác tiêu cực, trong xã hội, nếu chỉ đánh giá người khác thông qua định kiến thì sẽ không đúng.

Câu 2: Cách gọi ấy đã hàm ẩn sự đánh giá đối với tính cách hay cách ứng xử này: là chỉ những người thích ăn vạ. 

2. CÂU HỎI ĐỌC VĂN BẢN

Câu 1: Điểm nhìn trần thuật: ngôi kể thứ ba theo điểm nhìn bên trong. Nhân vật mang điểm nhìn bên trong thường là nhân vật chính trong truyện (Chí Phèo).

Điểm nhìn được thay đổi từ điểm nhìn bên ngoài đến điểm nhìn bên trong, từ điểm nhìn không gian đến điểm nhìn thời gian, từ điểm nhìn một người đến điểm nhìn của số đông, có khi điểm nhìn trao cho nhân vật này, lúc thì trao cho nhân vật khác, nghĩa là toàn truyện có một sự di chuyển điểm nhìn liên tục. 

Câu 2: Bởi do dáng vẻ bên ngoài của hắn, cái đầu thì trọc lốc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen mà rất cơng cơng, hai mắt gườm gườm trông gớm chết. Cái ngực phanh, đầy những nét chạm trổ rồng, phượng với một ông tướng cầm chùy, có hai cánh tay cũng thế. 

Câu 3: Khi hắn say khướt, xách một cái vỏ chai đến cổng nhà bá Kiến, gọi tận tên tục ra mà chửi. 

Câu 4: Bá Kiến đối với Chí Phèo: xưng "anh".

Bá Kiến với người nhà của mình: quát mắng và đuổi vào trong nhà. 

Câu 5: Chí Phèo cảm nhận được sự sống của thiên nhiên: mặt trời bên ngoài nắng rực rỡ, nghe thấy chim ríu rít bên ngoài, tiếng cười nói của những người đi chợ, .... cảm nhận được những niềm vui xung quanh. 

Câu 6: Hắn dường như đã trông thấy trước tuổi già của hắn, đói rét và ốm đau, cô độc là điều đáng sợ nhất.

Câu 7: Lòng trắc ẩn của thị Nở dành cho Chí Phèo được thể hiện qua: nấu cháo hành, chăm sóc khi hắn bị ốm. 

Câu 8: Người kể chuyện đã đặt điểm nhìn trần thuật và nhân vật để miêu tả những cảm xúc của Chí Phèo lúc đón nhận bất cháo hành của thị Nở.

Câu 9: Lời kể và điểm nhìn của người kể chuyện thể hiện thái độ nhân đạo nhằm thức tỉnh con người hắn. 

Câu 10: Bà ta đã không thể mở lòng, không thể suy nghĩ một cách tích cực rằng Chí Phèo sẽ thay đổi và Thị Nở ít ra cũng hơn bà có được hạnh phúc, bởi lý trí của bà ta bị che mờ bởi sự ích kỷ, bởi những định kiến cay nghiệt mà người đời gán cho Chí Phèo. 

Câu 11: Bởi đó là hương vị tình người đầu tiên của một người dành cho hắn.  Sau năm ngày ở với Chí Phèo, Thị Nở “bỗng nhớ ra mình còn một bà cô trên đời” và quyết định “dừng yêu” để xin ý kiến bà cô. Thị bị bà cô xỉa xói vào mặt và khi quay lại nhà Chí Phèo, Thị chửi Chí bằng tất cả những lời của bà cô và vùng vằng quay về. Chí “ngẩn người ra” và chạy vội ra níu tay Thị nhưng bị Thị dúi cho một cái rồi bỏ về. Chí rơi xuống hố sâu của tuyệt vọng. Thị Nở đã phụ bạc hắn, hắn không còn cơ hội để quay về với cuộc sống lương thiện. Tuyệt vọng, hắn uống rượu nhưng càng uống càng tỉnh và thoang thoảng cứ thấy “hơi cháo hành”. Đó là biến thể của “bát cháo hành”. Hắn không say, vị ngọt tình người cứ thoang thoảng để hắn đau khổ “khóc rưng rức”. 

Câu 12: Cũng có say nhưng không hoàn toàn. 

Câu 13: "Tao muốn làm người lương thiện". Đó là câu nói thành thực nhất, tiếng đầu tiên và cũng là lời cuối cùng trong cuộc đời đã bị tha hóa một cách khủng khiếp của Chí Phèo. Khi hắn say nhất cũng là lúc hắn tỉnh nhất, là lúc còn kịp nhận ra nghĩa lí của cuộc sống chính là ở hai chữ "lương thiện" kia, để rồi điều đó bỗng trở thành khát vọng của hắn sau bao ngày vật vã với rượu và những lời chửi bới "tao muốn", lần đầu tiên cái mong muốn của Chí Phèo không phải là dăm đồng bạc lẻ của cụ Bá, không phải dăm cút rượu hay một ít đồ nhắm, những nhu cầu vật chất mà là một mong muốn có tính trừu tượng, sự lương thiện.

Câu 14: Người kể chuyện không đưa ra lời bình luận hay đánh giá của mình về sự việc xảy ra ở làng Vũ Đại. 

Câu 15: Hình ảnh cái lò gạch cũ xuất hiện ở đầu tác phẩm: “Một anh đi thả ống lươn nhặt được một đứa trẻ trần truồng và xám ngắt trong một cái váy đụp để bên một lò gạch bỏ không…” và xuất hiện ở cuối tác phẩm: Thị Nở nhớ lại những lúc ăn nằm với Chí Phèo, Thị nhìn nhanh xuống bụng và “đột nhiên thị thấy thoáng hiện ra một cái lò gạch cũ bỏ không, xa nhà cửa và vắng người qua lại…”.

=> Kết cấu đầu cuối tương ứng: mở đầu là sự xuất hiện của cái lò gạch, kết thúc cũng bằng hình ảnh cái lò gạch.

=> Hình ảnh ẩn dụ cho vòng luẩn quẩn của những kiếp người như Chí Phèo. Qua đó tác giả muốn khẳng định: Chí Phèo không phải là một hiện tượng cá biệt mà là một hiện tượng phổ biến có tính quy luật trong xã hội bấy giờ.

3. CÂU HỎI SAU KHI ĐỌC

Câu 1: Ở làng Vũ Đại có thằng Chí Phèo nổi tiếng là hay ăn vạ, đi đâm thuê chém mướn cho nhà Bá Kiến, ngày nào cũng chửi làng phá xóm. Chả là trước kia hắn bị mẹ bỏ rơi ở cái lò gạch cũ, được dân làng thay nhau nuôi. Cho đến năm 18 tuổi đi làm thuê cho nhà bá Kiến nhưng vì vợ hắn cứ gọi Chí lên xoa đầu, bóp vai nên Bá Kiến ghen bắt Chí Phèo phải đi tù. Cuộc đời Chí rơi vào đau thương từ đây. Khi Chí trở về, hắn trở thành một con người hoàn toàn khác, cầm dao và vỏ chai đến nhà bá Kiến - kẻ đã tống hắn vào tù - ăn vạ. Ông Bá xoa dịu hắn bằng bữa rượu và mấy đồng bạc, Chí ngoan ngoãn đi về và từ đó trở thành một con quỷ dữ của làng Vũ Đại. Nhưng Chí vẫn là một con người, khi gặp Thị Nở vào một đêm trăng, hắn và Thị đã âu yếm nhau. Thị cho hắn tình thương khiến hắn muốn trở lại làm người. Nhưng Thị cũng dập tắt mọi hy vọng khi bà cô của Thị một mực không đồng ý cho tình cảm của hai người. Chẳng còn ai trên đời này quan tâm đến mình, yêu thương mình, cuộc đời thì đi vào lầm lỗi, sa ngã nên Chí đã đến nhà Bá Kiến kêu lên: "Ai cho tao lương thiện?" Chí giết chết Bá Kiến và kết liễu cuộc đời mình. Thị lúc này chỉ nhìn xuống bụng và nghĩ về cái lò gạch - nơi Chí Phèo được người ta tìm thấy mang về nuôi.

Câu 2: Trong những tác phẩm trần thuật theo quan điểm nhân vật, Nam Cao thường gọi nhân vật bằng tên hoặc đại từ ngôi thứ ba: hắn,y,thị,lão,... và sử dụng rộng rãi ngôn ngữ nửa trực tiếp. Thường thì người trần thuật bắt đầu từ điểm nhìn khách quan: " Hắn vừa đi vừa chửi bao giờ cũng thế, cứ rượu xong là hắn chửi" (Chí Phèo), nhưng từ những điểm nhìn khách quan như thế, người trần thuật, đến một lúc nào đó đã nhập vai vào nhân vật. Đoạn mở đầu Chí Phèo, đang nhìn từ cái nhìn khách quan bên ngoài, người trần thuật đã từng bước nhập vai vào nhân vật, chuyển điểm nhìn vào nhân vật Chí Phèo để tái hiện tiếng nói của hắn: " Tức thật! Tức thật! Ồ! Thế này thì tức thật! Tức chết đi được mất!". Đây là đoạn miêu tả tâm lý của Chí Phèo, sau khi được Bá Kiến khôn khéo mời vào nhà. 

Điểm nhìn từ bên ngoài (ở câu thứ nhất) đã nhanh chóng chuyển vào cái nhìn bên trong của Chí Phèo với những suy nghĩ đắn đo vào hay không vào, những ý nghĩ liều lĩnh bất cẩn. 

Câu 3: Tỉnh dậy sau đêm say sưa gặp Thị Nở, điều đầu tiên Nam Cao để cho Chí nhận ra ấy là thực tại của bản thân mình. Hắn sống trong một túp lều, túp lều mà hắn đã phải đánh đổi bằng máu, bằng lương tri, làm tay sai cho bá Kiến mà có được. Một túp lều ẩm thấp, tối tăm: “Ở đây người ta thấy chiều lúc xế trưa và gặp đêm khi bên ngoài vẫn sáng”. Đây không phải nơi ở của con người, nó là địa ngục trần gian mà Chí đang chết dần chết mòn trong đó. Vậy mà chưa bao giờ Chí Phèo nhận thấy thế bởi Chí Phèo chưa bao giờ hết say. Đây là lần đâu tiên Chí nhận ra cái hiện thực cay đắng phũ phàng ấy. Hắn bắt đầu cảm nhận được cuộc sống xung quanh mình và có những cảm xúc của một con người. Lần đầu tiên từ khi ra tù, Chí Phèo tỉnh rượu và có cái cảm giác “miệng đắng, lòng mơ hồ buồn”. Lần đầu tiên, Chí Phèo nghe được những âm thanh quen thuộc của cuộc sống hằng ngày xung quanh hắn : “tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá”, “tiếng anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá”, tiếng trò chuyện của những người đi chợ về…Những âm thanh ấy đã gợi nhớ trong hắn ước mơ giản dị từ thuở xa xưa : “có một gia đình nho nhỏ, chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải”. Quá khứ tuy nghèo khổ ấy nay với Chí cũng là một điều thật xa vời. Thực tại giờ đây của hắn là “già mà vẫn còn cô độc”. Điều ấy khiến hắn buồn và lo lắng cho tương lai : đói rét, ốm đau và cô độc sẽ đày đọa hắn khi về già. Và hắn sợ nhất là cô độc. Một kẻ chỉ biết sống bằng giật cướp và dọa nạt, một kẻ đã làm đổ máu và nước mắt của bao nhiêu người lương thiện, vậy mà giờ đây cũng biết sợ, mà lại sợ nhất là cô độc. Hình như, bản chất người trong hắn đang mơ hồ tỉnh dậy.

Và khi Chí đang nhìn về tương lai đen tối kia với tâm trạng cô độc, sợ hãi, cũng may là Thị Nở đến nếu không thì Chí khóc mất. Thị Nở bước vào cùng với bát cháo hành, một hình tượng đẹp nhất, một chi tiết nghệ thuật đem đến nhiều mĩ cảm. Chí Phèo ngạc nhiên, hết ngạc nhiên thì mắt Chí ươn ướt. Có lẽ vì đây là lần đầu tiên Chí được một người đàn bà cho ăn, bởi vì xưa nay Chí vẫn phải “dọa nạt hay giật cướp” của người khác thì mới có được. Bát cháo hành ấy là đại diện cho tình cảm mộc mạc của Thị Nở dành cho Chí, đánh thức trọn vẹn trong Chí lương tri và lương tâm của một con người. Bát cháo hành chan chứa tình người, thứ tình cảm rất thật, hồn nhiên, không vụ lợi. Nó chỉ đơn giản là bởi Thị thấy Chí bị “thổ một trận nhọc” mà không có người chăm sóc, bởi Thị nghỉ ốm như thế thì chỉ có ăn cháo hành. Và rất hồn nhiên Thị nấu cháo hành mang sang.

Chi tiết hồi sinh nhân tính: bát cháo hành ấy là vị thuốc giải độc cho cuộc đời Chí. Không chỉ giải cảm, bát cháo hành là tình người duy nhất đã gợi thức phần lương tri ngủ quên trong lốt “con quỷ dữ Chí Phèo”. Từ ăn năn, hối hận, Chí bỗng thấy thèm lương thiện, thèm trở về cuộc sống ngày trước. Bát cháo hành đã dẫn đường cho hi vọng hoàn lương: Thị Nở có thể làm hòa với hắn thì mọi người cũng có thể làm hòa với hắn. Khát khao lương thiện bùng dậy mãnh liệt đã khiến Chí dồn hết hi vọng vào Thị Nở – về cây cầu đưa hắn về với cuộc đời lương thiện. Bát cháo hành đã hoàn thành thiên chức gọi chất người, khơi hòn than đỏ vùi trong lớp tro tàn đang âm ỉ, nó đưa Chí qua một cuộc lột xác để về với sự lương thiện. Lúc này, Chí Phèo đã hoàn toàn thức tỉnh, hắn từ "con quỷ dữ" trở lại là người: "Trời ơi! Hắn thèm lương thiện, hắn muốn làm hòa với mọi người". Mà đã là người, ai chẳng mưu cầu hạnh phúc? Hắn làm nũng với Thị Nở như đứa trẻ con làm nũng mẹ. Hắn ao ước một mái ấm gia đình, hắn thực sự mong muốn xây dựng gia đình với Thị Nở: "Giá cứ thế này mãi thì thích nhỉ?" Chí Phèo và Thị Nở, hai mảnh đời bất hạnh gặp nhau rồi yêu nhau. Họ mở ra con đường giải thoát cho nhau, "làm ơn" và "chịu ơn" lẫn nhau. Họ sống với nhau như vợ chồng.

Câu 4: Thị Nở là một người ngớ ngẩn, chính cái ngớ ngẩn ấy đã đập tan mọi hi vọng cứu vãn cuộc đời Chí Phèo. Sau khi bị Thị Nở từ chối chung sống và cũng không còn cách nào níu giữ được Thị. Chí Phèo rơi vào tình thế bế tắc, tuyệt vọng, mọi hi vọng cho một tương lai “làm người” bỗng chốc hóa thành mây khói. Trong cơn tuyệt vọng ấy, Chí Phèo như tỉnh hẳn và chua xót nhận ra bi kịch tinh thần của cuộc đời mình - người vốn sinh ra là người nhưng lại không được làm “người”. Hắn vật vã, đau đớn. Càng tuyệt vọng, hắn càng uống rượu; nhưng càng uống rượu, hắn càng tỉnh ra. Trong tận sâu thẳm tâm hồn, hắn ý thức được nỗi đau thân phận của mình. Vì thế, hắn ôm mặt khóc rưng rức và luôn thấy thoang thoảng mùi cháo hành. Chi tiết này được nhắc đi nhắc lại nhằm tô đậm niềm khát khao tình yêu thương, khát khao cuộc đời lương thiện và cũng nhấn mạnh bi kịch tinh thần không có cách gì có thể cứu vãn. Trong tột cùng bế tắc, Chí Phèo càng thấm thía hơn tội ác của kẻ đã cướp đi dung mạo và linh hồn người của mình, biến mình thành một con “quỷ” của làng Vũ Đại. Chí Phèo xách dao ra đi, thay vì đến nhà bà cô Thị Nở như dự định, tâm trí lại điều khiển hắn đến nhà Bá Kiến - người đã gây ra bao bất hạnh cho cuộc đời hắn. Khác với các lần trước, lần này, hắn đòi Bá Kiến trả cho hắn cái thứ quý giá mà hắn đã mất từ lâu - đó là làm người lương thiện. Nhưng làm sao để trở về làm người lương thiện như trước đây, cuối cùng, hắn đã chọn cách giải quyết duy nhất có thể: đó là giết chết kẻ đã gây ra đau khổ cho đời mình, đồng thời tự kết liễu cuộc sống của mình. Chí Phèo đâm chết Bá Kiến không phải vì say rượu mà vì hắn hiểu rõ nguồn gốc bi kịch của đời mình.

Câu 5: Người kể chuyện bộc lộ thái độ đối với Chí Phèo và Thị Nở qua hệ thống điểm nhìn và lời kể: Đầu tiên là khinh miệt, sau đó là đồng cảm rồi chua xót cho cuộc đời của 2 nhân vật này.

Câu 6: 

- Nhận xét về điểm nhìn và giọng điệu trần thuật ở đoạn kết của truyện ngắn khi Chí Phèo tìm đến nhà bá Kiến lần cuối: Tác giả đúng ở góc nhìn của một kẻ đã đi đến bước đường cùng, cùng với giọng điệu hơi thô tục nhung cũng thể hiện được rõ nội tâm của nhân vật. 

- Phán ứng của dân làng Vũ Đại về cái chết của hai nhân vật này: Dân làng đều mừng. 

- Cái chết của Chí Phèo có ý nghĩa: Đó là kết thúc của những kẻ coi thường pháp luật. 

Câu 7:

- Tương đồng: Hai kết thúc truyện cùng phản ánh hiện thực tăm tối của con người trước Cách mạng tháng Tám; cùng góp phần thể hiện tư tưởng nhân đạo của mỗi nhà văn; cùng là những kết thúc có tính mở, giàu sức gợi.

- Khác biệt: Kết thúc truyện Chí Phèo phản ánh hiện thực luẩn quẩn, bế tắc của người nông dân lao động, được thể hiện qua kết cấu đầu cuối tương ứng hàm ý tương lai sẽ chỉ là sự lặp lại của hiện tại; kết thúc truyện Vợ nhặt phản ánh xu hướng vận động tất yếu của số phận con người, được thể hiện qua kết cấu đối lập hàm ý tương lai sẽ mở lối cho hiện tại.

Câu 8: Hệ thống hóa các nét đáng chú ý: 

- Người kể chuyện: là tác giả, và ngay từ đầu đã dùng từ "Hắn" để nói đến Chí Phèo, điều đó thể hiện đuọc phần nào cảm xúc và cũng giúp độc giả có cái nhìn đầu tiên vầ nhân vật này. 

- Điểm nhìn: Tác giả đứng ỏ nhiều điểm nhìn khác nhau để kể về câu chuyện để câu chuyện được khái quát và mang tính trung thực hơn. 

- Lời trần thuật: Sủ dụng nhiều từ ngữ địa phương, thô tục như: Tao, mày, ... Điều này làm cho câu chuyện trở nên gần gũi và mang tính chất đời thường hơn. 

KẾT NỐI ĐỌC - VIẾT

Nam Cao nhà văn hiện thực xuất sắc của văn học Việt Nam hiện đại. Nhắc đến Nam Cao là nhắc đến kiệt tác Chí Phèo với sự thành công xuất sắc về mặt nội dung. Nhưng bên cạnh đó, để tạo nên thành công cho tác phẩm, cũng không thể không nhắc đến những đóng góp về phương diện nghệ thuật. Trong đó các chi tiết nghê thuật có vai trò đặc biệt quan trọng, nhất là chi tiết bát cháo hành Thị Nở mang cho Chí Phèo. Đối với Thị Nở, bát cháo hành thể hiện ý thức trách nhiệm của Thị Nở với Chí Phèo. Đối với Chí Phèo, trước hết nó là bát cháo giúp hắn giải cảm, giúp hắn vượt qua trận ốm. Nhưng nếu bát cháo hành chỉ có ý nghĩa như vậy thôi thì nó đã không xứng danh là một chi tiết nghệ thuật đặc sắc. Bát cháo hành đã giúp Chí thức tỉnh, đi từ cõi quên trở về cõi nhớ, giúp Chí giải độc tâm hồn, dần lấy lại phần nhân tính trong mình. Bát cháo hành là chi tiết nghệ thuật đặc sắc, góp phần thúc đẩy mạch truyện tiếp tục phát triển. Qua đó còn khắc họa nét tính cách, tâm lí và bi kịch của cuộc đời Chí Phèo. Đồng thời chi tiết này cũng thể hiện giá trị nhân đạo sâu sắc của Nam Cao: ông luôn có niềm tin vào phần con người, phần nhân tính của mỗi con người, chỉ cần trong những điều kiện và hoàn cảnh thích hợp nhất định con người tha hóa cũng sẽ được cảm hóa.

III. Soạn bài ngắn nhất: Chí Phèo (Nam Cao)

1. CÂU HỎI TRƯỚC KHI ĐỌC

Câu 1:

Định kiến ​​xã hội là những ý kiến, quan điểm đã được hình thành trước trong suy nghĩ con người. Đó là nhũng cái nhìn không dựa trên căn cứ xác đáng.

Định kiến xã hội chính là cách nhìn nhận cứng nhắc, bảo thủ về bản chất của sự việc. 

Các định kiến xã hội mang đến cảm giác tiêu cực, trong xã hội, nếu chỉ đánh giá người khác thông qua định kiến thì sẽ không đúng.

Câu 2: Là chỉ những người thích ăn vạ. 

2. CÂU HỎI ĐỌC VĂN BẢN

Câu 1: Ngôi kể thứ ba theo điểm nhìn bên trong. Nhân vật mang điểm nhìn bên trong thường là nhân vật chính trong truyện (Chí Phèo).

Điểm nhìn được thay đổi từ điểm nhìn bên ngoài đến điểm nhìn bên trong, từ điểm nhìn không gian đến điểm nhìn thời gian, từ điểm nhìn một người đến điểm nhìn của số đông, có khi điểm nhìn trao cho nhân vật này, lúc thì trao cho nhân vật khác, nghĩa là toàn truyện có một sự di chuyển điểm nhìn liên tục. 

Câu 2: Bởi do dáng vẻ bên ngoài của hắn. 

Câu 3: Khi hắn say khướt, xách một cái vỏ chai đến cổng nhà bá Kiến, gọi tận tên tục ra mà chửi. 

Câu 4: Bá Kiến đối với Chí Phèo: xưng "anh".

Bá Kiến với người nhà của mình: quát mắng và đuổi vào trong nhà. 

Câu 5: Chí Phèo cảm nhận được sự sống của thiên nhiên, cảm nhận được những niềm vui xung quanh. 

Câu 6: Hắn dường như đã trông thấy trước tuổi già của hắn, đói rét và ốm đau, cô độc là điều đáng sợ nhất.

Câu 7: Nấu cháo hành, chăm sóc khi hắn bị ốm. 

Câu 8: Điểm nhìn trần thuật và nhân vật để miêu tả những cảm xúc của Chí Phèo lúc đón nhận bất cháo hành của thị Nở.

Câu 9: Thái độ nhân đạo nhằm thức tỉnh con người hắn. 

Câu 10: Lý trí của bà ta bị che mờ bởi sự ích kỷ, bởi những định kiến cay nghiệt mà người đời gán cho Chí Phèo. 

Câu 11: Bởi đó là hương vị tình người đầu tiên của một người dành cho hắn. Hắn không say, vị ngọt tình người cứ thoang thoảng để hắn đau khổ “khóc rưng rức”. 

Câu 12: Cũng có say nhưng không hoàn toàn. 

Câu 13: Đây là lời của một kẻ say. Nhưng khi hắn say nhất cũng là lúc hắn tỉnh nhất.

Câu 14: Không

Câu 15: Hình ảnh ẩn dụ cho vòng luẩn quẩn của những kiếp người như Chí Phèo. Qua đó tác giả muốn khẳng định: Chí Phèo không phải là một hiện tượng cá biệt mà là một hiện tượng phổ biến có tính quy luật trong xã hội bấy giờ.

3. CÂU HỎI SAU KHI ĐỌC

Câu 1: Ở làng Vũ Đại có thằng Chí Phèo nổi tiếng là hay ăn vạ, đi đâm thuê chém mướn cho nhà Bá Kiến, ngày nào cũng chửi làng phá xóm. Chả là trước kia hắn bị mẹ bỏ rơi ở cái lò gạch cũ, được dân làng thay nhau nuôi. Cho đến năm 18 tuổi đi làm thuê cho nhà Bá Kiến nhưng rồi bị Bá Kiến lập mưu cho vào tù. Khi ra tù, hắn đến nhà bá Kiến ăn vạ. Ông Bá xoa dịu hắn bằng bữa rượu và mấy đồng bạc, Chí ngoan ngoãn đi về và từ đó trở thành một con quỷ dữ của làng Vũ Đại. Nhưng Chí vẫn là một con người, khi gặp Thị Nở vào một đêm trăng, hắn và Thị đã âu yếm nhau. Nhưng rồi tình yêu của họ bị cản trở bởi bà cô của Thị Nở. Chẳng còn ai trên đời này quan tâm đến mình, yêu thương mình, cuối cùng Chí giết chết Bá Kiến và kết liễu cuộc đời mình. Thị lúc này chỉ nhìn xuống bụng và nghĩ về cái lò gạch - nơi Chí Phèo được người ta tìm thấy mang về nuôi.

Câu 2: Nam Cao thường gọi nhân vật bằng tên hoặc đại từ ngôi thứ ba: hắn,y,thị,lão,... và sử dụng rộng rãi ngôn ngữ nửa trực tiếp. Thường thì người trần thuật bắt đầu từ điểm nhìn khách quan: " Hắn vừa đi vừa chửi bao giờ cũng thế, cứ rượu xong là hắn chửi" (Chí Phèo), nhưng từ những điểm nhìn khách quan như thế, người trần thuật, đến một lúc nào đó đã nhập vai vào nhân vật. Đoạn mở đầu Chí Phèo, đang nhìn từ cái nhìn khách quan bên ngoài, người trần thuật đã từng bước nhập vai vào nhân vật, chuyển điểm nhìn vào nhân vật Chí Phèo để tái hiện tiếng nói của hắn: " Tức thật! Tức thật! Ồ! Thế này thì tức thật! Tức chết đi được mất!". Đây là đoạn miêu tả tâm lý của Chí Phèo, sau khi được Bá Kiến khôn khéo mời vào nhà. 

Điểm nhìn từ bên ngoài (ở câu thứ nhất) đã nhanh chóng chuyển vào cái nhìn bên trong của Chí Phèo với những suy nghĩ đắn đo vào hay không vào, những ý nghĩ liều lĩnh bất cẩn. 

Câu 3: 

- Tỉnh dậy sau đêm say sưa gặp Thị Nở, điều đầu tiên Nam Cao để cho Chí nhận ra ấy là thực tại của bản thân mình. Đây là lần đâu tiên Chí nhận ra cái hiện thực cay đắng phũ phàng ấy. Hắn bắt đầu cảm nhận được cuộc sống xung quanh mình và có những cảm xúc của một con người. Lần đầu tiên từ khi ra tù, Chí Phèo tỉnh rượu và có cái cảm giác “miệng đắng, lòng mơ hồ buồn”. Lần đầu tiên, Chí Phèo nghe được những âm thanh quen thuộc của cuộc sống hằng ngày xung quanh hắn. Những âm thanh ấy đã gợi nhớ trong hắn ước mơ giản dị từ thuở xa xưa : “có một gia đình nho nhỏ, chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải”. Quá khứ tuy nghèo khổ ấy nay với Chí cũng là một điều thật xa vời. Thực tại giờ đây của hắn là “già mà vẫn còn cô độc”. Điều ấy khiến hắn buồn và lo lắng cho tương lai : đói rét, ốm đau và cô độc sẽ đày đọa hắn khi về già. Và hắn sợ nhất là cô độc. Một kẻ chỉ biết sống bằng giật cướp và dọa nạt, một kẻ đã làm đổ máu và nước mắt của bao nhiêu người lương thiện, vậy mà giờ đây cũng biết sợ, mà lại sợ nhất là cô độc. Hình như, bản chất người trong hắn đang mơ hồ tỉnh dậy.

- Chi tiết hồi sinh nhân tính: bát cháo hành ấy là vị thuốc giải độc cho cuộc đời Chí.

Câu 4: Sau khi bị Thị Nở từ chối chung sống và cũng không còn cách nào níu giữ được Thị. Chí Phèo rơi vào tình thế bế tắc, tuyệt vọng, mọi hi vọng cho một tương lai “làm người” bỗng chốc hóa thành mây khói. Hắn vật vã, đau đớn. Càng tuyệt vọng, hắn càng uống rượu; nhưng càng uống rượu, hắn càng tỉnh ra. Trong tận sâu thẳm tâm hồn, hắn ý thức được nỗi đau thân phận của mình. Vì thế, hắn ôm mặt khóc rưng rức và luôn thấy thoang thoảng mùi cháo hành. 

Câu 5: Đầu tiên là khinh miệt, sau đó là đồng cảm rồi chua xót cho cuộc đời của 2 nhân vật này.

Câu 6: 

- Tác giả đúng ở góc nhìn của một kẻ đã đi đến bước đường cùng, cùng với giọng điệu hơi thô tục nhung cũng thể hiện được rõ nội tâm của nhân vật. 

- Dân làng đều mừng. 

- Đó là kết thúc của những kẻ coi thường pháp luật. 

Câu 7:

- Tương đồng: Hai kết thúc truyện cùng phản ánh hiện thực tăm tối của con người trước Cách mạng tháng Tám; cùng góp phần thể hiện tư tưởng nhân đạo của mỗi nhà văn; cùng là những kết thúc có tính mở, giàu sức gợi.

- Khác biệt: Kết thúc truyện Chí Phèo phản ánh hiện thực luẩn quẩn, bế tắc của người nông dân lao động, được thể hiện qua kết cấu đầu cuối tương ứng hàm ý tương lai sẽ chỉ là sự lặp lại của hiện tại; kết thúc truyện Vợ nhặt phản ánh xu hướng vận động tất yếu của số phận con người, được thể hiện qua kết cấu đối lập hàm ý tương lai sẽ mở lối cho hiện tại.

Câu 8: 

- Người kể chuyện: là tác giả, và ngay từ đầu đã dùng từ "Hắn" để nói đến Chí Phèo, điều đó thể hiện đuọc phần nào cảm xúc và cũng giúp độc giả có cái nhìn đầu tiên vầ nhân vật này. 

- Điểm nhìn: Tác giả đứng ỏ nhiều điểm nhìn khác nhau để kể về câu chuyện để câu chuyện được khái quát và mang tính trung thực hơn. 

- Lời trần thuật: Sử dụng nhiều từ ngữ địa phương, thô tục như: Tao, mày, ... Điều này làm cho câu chuyện trở nên gần gũi và mang tính chất đời thường hơn. 

KẾT NỐI ĐỌC - VIẾT

Nam Cao nhà văn hiện thực xuất sắc của văn học Việt Nam hiện đại. Nhắc đến Nam Cao là nhắc đến kiệt tác Chí Phèo với sự thành công xuất sắc về mặt nội dung. Trong đó các chi tiết nghê thuật có vai trò đặc biệt quan trọng, nhất là chi tiết bát cháo hành Thị Nở mang cho Chí Phèo. Đối với Thị Nở, bát cháo hành thể hiện ý thức trách nhiệm của Thị Nở với Chí Phèo. Đối với Chí Phèo, trước hết nó là bát cháo giúp hắn giải cảm, giúp hắn vượt qua trận ốm. Bát cháo hành đã giúp Chí thức tỉnh, đi từ cõi quên trở về cõi nhớ, giúp Chí giải độc tâm hồn, dần lấy lại phần nhân tính trong mình. Bát cháo hành là chi tiết nghệ thuật đặc sắc, góp phần thúc đẩy mạch truyện tiếp tục phát triển. Qua đó còn khắc họa nét tính cách, tâm lí và bi kịch của cuộc đời Chí Phèo. Đồng thời chi tiết này cũng thể hiện giá trị nhân đạo sâu sắc của Nam Cao: ông luôn có niềm tin vào phần con người, phần nhân tính của mỗi con người, chỉ cần trong những điều kiện và hoàn cảnh thích hợp nhất định con người tha hóa cũng sẽ được cảm hóa.

IV. Soạn bài cực ngắn: Chí Phèo (Nam Cao)

1. CÂU HỎI TRƯỚC KHI ĐỌC

Câu 1:

Định kiến ​​xã hội là những ý kiến, quan điểm đã được hình thành trước trong suy nghĩ con người. Đó là nhũng cái nhìn không dựa trên căn cứ xác đáng.

Định kiến xã hội chính là cách nhìn nhận cứng nhắc, bảo thủ về bản chất của sự việc. 

Các định kiến xã hội mang đến cảm giác tiêu cực, trong xã hội, nếu chỉ đánh giá người khác thông qua định kiến thì sẽ không đúng.

Câu 2: Những kẻ thích ăn vạ. 

2. CÂU HỎI ĐỌC VĂN BẢN

Câu 1: Ngôi kể thứ ba theo điểm nhìn bên trong. Nhân vật mang điểm nhìn bên trong thường là nhân vật chính trong truyện (Chí Phèo).

Điểm nhìn được thay đổi từ điểm nhìn bên ngoài đến điểm nhìn bên trong, từ điểm nhìn không gian đến điểm nhìn thời gian, từ điểm nhìn một người đến điểm nhìn của số đông, có khi điểm nhìn trao cho nhân vật này, lúc thì trao cho nhân vật khác, nghĩa là toàn truyện có một sự di chuyển điểm nhìn liên tục. 

Câu 2: Bởi do dáng vẻ bên ngoài của hắn. 

Câu 3: Khi hắn say khướt, xách một cái vỏ chai đến cổng nhà bá Kiến, gọi tận tên tục ra mà chửi. 

Câu 4: Bá Kiến đối với Chí Phèo: xưng "anh".

Bá Kiến với người nhà của mình: quát mắng và đuổi vào trong nhà. 

Câu 5: Chí Phèo cảm nhận được sự sống của thiên nhiên, cảm nhận được những niềm vui xung quanh. 

Câu 6: Hắn dường như đã trông thấy trước tuổi già của hắn, đói rét và ốm đau, cô độc là điều đáng sợ nhất.

Câu 7: Nấu cháo hành, chăm sóc khi hắn bị ốm. 

Câu 8: Điểm nhìn trần thuật và nhân vật để miêu tả những cảm xúc của Chí Phèo lúc đón nhận bất cháo hành của thị Nở.

Câu 9: Thái độ nhân đạo nhằm thức tỉnh con người hắn. 

Câu 10: Lý trí của bà ta bị che mờ bởi sự ích kỷ, bởi những định kiến cay nghiệt mà người đời gán cho Chí Phèo. 

Câu 11: Bởi đó là hương vị tình người đầu tiên của một người dành cho hắn. Hắn không say, vị ngọt tình người cứ thoang thoảng để hắn đau khổ “khóc rưng rức”. 

Câu 12: Cũng có say nhưng không hoàn toàn. 

Câu 13: Đây là lời của một kẻ say. Nhưng khi hắn say nhất cũng là lúc hắn tỉnh nhất.

Câu 14: Không

Câu 15: Qua đó tác giả muốn khẳng định: Chí Phèo không phải là một hiện tượng cá biệt mà là một hiện tượng phổ biến có tính quy luật trong xã hội bấy giờ.

3. CÂU HỎI SAU KHI ĐỌC

Câu 1: Ở làng Vũ Đại có thằng Chí Phèo nổi tiếng là hay ăn vạ, đi đâm thuê chém mướn cho nhà Bá Kiến, ngày nào cũng chửi làng phá xóm. Chả là trước kia hắn bị mẹ bỏ rơi ở cái lò gạch cũ, được dân làng thay nhau nuôi. Cho đến năm 18 tuổi đi làm thuê cho nhà Bá Kiến nhưng rồi bị Bá Kiến lập mưu cho vào tù. Khi ra tù, hắn đến nhà bá Kiến ăn vạ. Ông Bá xoa dịu hắn bằng bữa rượu và mấy đồng bạc, Chí ngoan ngoãn đi về và từ đó trở thành một con quỷ dữ của làng Vũ Đại. Nhưng Chí vẫn là một con người, khi gặp Thị Nở vào một đêm trăng, hắn và Thị đã âu yếm nhau. Nhưng rồi tình yêu của họ bị cản trở bởi bà cô của Thị Nở. Chẳng còn ai trên đời này quan tâm đến mình, yêu thương mình, cuối cùng Chí giết chết Bá Kiến và kết liễu cuộc đời mình. Thị lúc này chỉ nhìn xuống bụng và nghĩ về cái lò gạch - nơi Chí Phèo được người ta tìm thấy mang về nuôi.

Câu 2: Nam Cao thường gọi nhân vật bằng tên hoặc đại từ ngôi thứ ba và sử dụng rộng rãi ngôn ngữ nửa trực tiếp. Thường thì người trần thuật bắt đầu từ điểm nhìn khách quan nhưng từ những điểm nhìn khách quan như thế, người trần thuật, đến một lúc nào đó đã nhập vai vào nhân vật. Đoạn mở đầu Chí Phèo, đang nhìn từ cái nhìn khách quan bên ngoài, người trần thuật đã từng bước nhập vai vào nhân vật, chuyển điểm nhìn vào nhân vật Chí Phèo.

Điểm nhìn từ bên ngoài (ở câu thứ nhất) đã nhanh chóng chuyển vào cái nhìn bên trong của Chí Phèo với những suy nghĩ đắn đo vào hay không vào, những ý nghĩ liều lĩnh bất cẩn. 

Câu 3: 

- Tỉnh dậy sau đêm say sưa gặp Thị Nở, điều đầu tiên Nam Cao để cho Chí nhận ra ấy là thực tại của bản thân mình. 

- Đó là chi tiết bát cháo hành ấy là vị thuốc giải độc cho cuộc đời Chí.

Câu 4: Sau khi bị Thị Nở từ chối chung sống và cũng không còn cách nào níu giữ được Thị. Chí Phèo rơi vào tình thế bế tắc, tuyệt vọng, mọi hi vọng cho một tương lai “làm người” bỗng chốc hóa thành mây khói. 

Câu 5: Đầu tiên là khinh miệt, sau đó là đồng cảm rồi chua xót.

Câu 6: 

- Tác giả đứng ở góc nhìn của một kẻ đã đi đến bước đường cùng. 

- Dân làng đều mừng. 

- Là kết thúc của những kẻ coi thường pháp luật. 

Câu 7:

- Tương đồng: Hai kết thúc truyện cùng phản ánh hiện thực tăm tối của con người trước Cách mạng tháng Tám; cùng góp phần thể hiện tư tưởng nhân đạo của mỗi nhà văn; cùng là những kết thúc có tính mở, giàu sức gợi.

- Khác biệt: Kết thúc truyện Chí Phèo phản ánh hiện thực luẩn quẩn, bế tắc của người nông dân lao động; kết thúc truyện Vợ nhặt phản ánh xu hướng vận động tất yếu của số phận con người.

Câu 8: 

- Người kể chuyện: là tác giả. 

- Điểm nhìn: Tác giả đứng ỏ nhiều điểm nhìn khác nhau. 

- Lời trần thuật: Sủ dụng nhiều từ ngữ địa phương, thô tục -> làm cho câu chuyện trở nên gần gũi và mang tính chất đời thường hơn. 

KẾT NỐI ĐỌC - VIẾT

Nam Cao nhà văn hiện thực xuất sắc của văn học Việt Nam hiện đại. Nhắc đến Nam Cao là nhắc đến kiệt tác Chí Phèo với sự thành công xuất sắc về mặt nội dung. Trong đó các chi tiết nghê thuật có vai trò đặc biệt quan trọng, nhất là chi tiết bát cháo hành Thị Nở mang cho Chí Phèo. Bát cháo hành là chi tiết nghệ thuật đặc sắc, góp phần thúc đẩy mạch truyện tiếp tục phát triển. Qua đó còn khắc họa nét tính cách, tâm lí và bi kịch của cuộc đời Chí Phèo. Đồng thời chi tiết này cũng thể hiện giá trị nhân đạo sâu sắc của Nam Cao: ông luôn có niềm tin vào phần con người, phần nhân tính của mỗi con người, chỉ cần trong những điều kiện và hoàn cảnh thích hợp nhất định con người tha hóa cũng sẽ được cảm hóa.

Tìm kiếm google: hướng dẫn soạn bài chí phèo nam cao ngắn nhất, soạn bài chí phèo nam cao ngữ văn 11 kết nối ngắn nhất, soạn văn 11 kết nối bài chí phèo nam cao cực ngắn

Xem thêm các môn học

Bài soạn văn 11 kết nối tri thức ngắn nhất


Copyright @2024 - Designed by baivan.net