Soạn văn 11 kết nối tri thức ngắn nhất bài Ôn tập học kì I

Soạn bài Ôn tập học kì I ngữ văn 11 tập 1 kết nối tri thức ngắn gọn nhất. Nhằm giúp học sinh giảm bớt thời gian soạn bài nhưng vẫn đảm bảo nắm đủ ý, baivan giới thiệu các em tổ hợp bài soạn cực ngắn, siêu ngắn và ngắn nhất. Từ đó, học sinh có thêm lựa chọn bài soạn phù hợp với của mình. Soạn “Ôn tập học kì I” cực ngắn - baivan.

[toc:ul]

I. Câu hỏi trong bài học

A. HỆ THỐNG HÓA KIẾN THỨC ĐÃ HỌC 

Câu 1: Nêu tên các loại, thể loại văn bản được học trong sách giáo khoa Ngữ văn 11, tập một và nhan đề văn bản thuộc từng loại, thể loại ấy.

Câu 2: Lập bảng thống kê các khái niệm then chốt cần dùng để đọc hiểu những văn bản trong Ngữ văn 11, tập một và giải thích ngắn gọn về từng khái niệm.

Câu 3: Tổng hợp những nội dung thực hành tiếng Việt trong sách giáo khoa Ngữ văn 11, tập một theo các gợi ý sau:

- Nội dung thực hành;

- Khái niệm hay quy tắc cần nắm vững;

- Ý nghĩa của hoạt động thực hành.

Câu 4: Liệt kê những kiểu bài viết đã thực hiện trong sách giáo khoa Ngữ văn 11, tập một theo bảng gợi ý sau:

STTKiểu bài viếtĐề tài được gợi ýĐề tài đã viết
    
    

Câu 5: Nhớ lại các nội dung của hoạt động nói và nghe đã thực hiện trong sách giáo khoa Ngữ văn 11, tập một trên các phương diện sau: 

- Tên của nội dung hoạt động nói và nghe; 

- Yêu cầu của hoạt động; 

- Thách thức và ý nghĩa của hoạt động.

B. LUYỆN TẬP VÀ VẬN DỤNG

1. Đọc 

Đọc văn bản sau và thực hiện các yêu cầu: 

Huyền diệu 

Xuân Diệu 

Câu 1: Bạn hiểu như thể nào về nhan đề của bài thơ? Nhan đề ấy có ý nghĩa định hướng việc đọc tác phẩm như thế nào?

Câu 2: Việc chọn câu thơ của Bô-đơ-le làm đề từ có ý nghĩa gì?

Câu 3: Nêu ấn tượng bao trùm về bài thơ và lí giải nguyên nhân đưa đến ấn tượng ấy.

Câu 4: Những tri thức ngữ văn nào đã học cần được vận dụng để việc đọc và thưởng thức bài thơ đạt hiệu quá?

Câu 5: Chỉ ra những kết hợp từ ngữ mà bạn cho là có tính chất khác thường trong bài thơ.

Câu 6: Viết đoạn văn (Khoảng 200 chữ) nói về vẻ đẹp của bài thơ theo cảm nhận của bạn.

2. Viết 

Chọn một trong các đề sau:

Đề 1. Để tạo nên thành công của một tác phẩm truyện, việc tác giả chọn được điểm nhìn độc đáo về đối tượng miêu tả, thể hiện giữ vai trò rất quan trọng. Hãy chọn phân tích một truyện mà bạn cho là có điểm nhìn độc đáo.

Đề 2. Giới thiệu và phân tích một bài thơ mà bạn cho là có cấu tứ độc đáo.

Đề 3. Trình bày ý kiến của bạn về một vấn đề xã hội đang được nhiều người quan tâm và khiến bạn thực sự thấy trăn trở.

Đề 4. Lập đề cương cho báo cáo nghiên cứu về một vấn đề bạn muốn tìm hiểu và có điều kiện thu thập tài liệu.

3. NÓI VÀ NGHE 

Chọn thực hiện theo nhóm học tập một trong các nội dung sau:

Nội dung 1. Giới thiệu một tác phẩm truyện nổi tiếng đang được giới trẻ quan tâm tìm đọc.

Nội dung 2. Có những tác phẩm nghệ thuật nào từng để lại ấn tượng sâu sắc với bạn? Hãy nói về tác phẩm ấy.

Nội dung 3. Thảo luận về cách thực hành "lối sống xanh”.

II. Soạn bài siêu ngắn: Ôn tập học kì I

A. HỆ THỐNG HÓA KIẾN THỨC ĐÃ HỌC 

Câu 1: 

- Tác phẩm văn học bao gồm: tự sự, trữ tình, kịch.

+ Các thể loại trữ tình:  ca dao, thơ cách luật, thơ tự do, thơ trào phúng…

+ Các thể loại tự sự: truyện, ngắn, tiểu thuyết, truyện vừa, bút kí, phóng sự…

+ Các thể loại kịch:  kịch dân gian, kịch cổ điển, kịch hiện đại, bi kịch, hài kịch.

Câu 2:

STTTHUẬT NGỮGIẢI THÍCH
1Biểu tượngHình ảnh tượng trưng, mang tính ngụ ý, gợi ý, vượt lên chức năng miêu tả, tạo hình đơn giản; chứa đựng nhiều tầng nghĩa phong phú; gợi cảm nhận, suy tư về những điều mang tính phổ quát.
2Điểm nhìn bên trongLoại điểm nhìn trần thuật được sử dụng để kể và tả xuyên qua cảm nhận, ý thức của nhân vật.
3Điểm nhìn bên ngoàiLoại điểm nhìn trần thuật được sử dụng miêu tả sự vật, con người ở những bình diện ngoại hiện, kể về những điều mà nhân vật không biết.
4Truyện thơ dân gianThuộc loại hình tự sự dân gian, do tầng lớp bình dân hoặc các trí thức sống gần gũi với tầng lớp bình dân sáng tác, có hình thức thơ, kể những cầu chuyện có nguồn gốc từ truyện cổ, sự tích tôn giáo hay cuộc sống đời thường, thể hiện đời sống hiện thực và những tình cảm, tức mơ, khát vọng của nhiều lớp người trong xã hội, nhất là những người lao động nghèo bằng ngôn ngữ giản dị, chất phác, giàu hình ảnh

Câu 3: 

Bài 1: Thực hành tiếng Viêt: Đặc điểm cơ bản của ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết 

Bài 2: Thực hành tiếng Việt: Một số hiện tượng phá vỡ những quy tắc ngôn ngữ thông thường: đặc điểm và tác dụng 

Bài 3: Thực hành tiếng Viêt: Đặc điểm cơ bản của ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết (tiếp theo) 

Bài 4: Thực hành tiếng Viêt: Lỗi về thành phần câu và cách sửa 

Ngôn ngữ nói: còn gọi là khẩu ngữ, chủ yếu thể hiện bằng hình thức nói, được tạo ra ngay trong quá trình giao tiếp, có thể dùng lớp từ mang tính khẩu ngữ và chấp nhận các yếu tố thừa, lặp, ngẫu nhiên,... 

Ngôn ngữ viết: định hình bằng chữ viết, được tiếp nhận chủ yếu qua hoạt động đọc của người tiếp nhận, phân biệt với ngôn ngữ nói ở một số mặt như: đòi hỏi cao về sự chặt chẽ, mạch lạc; loại bỏ các yếu tố thừa, lặp, ngẫu nhiên;....

Câu 4: 

STTKiểu bài viếtĐề tài được gợi ýĐề tài đã viết
 1 Văn bản nghị luận về một tác phẩm truyện Một vài nét về nghệ thuật tự sự của Nam Cao trong truyện ngắn Đời thừa 
 Văn bản nghị luận về một tác phẩm thơ Bài thơ “Tĩnh dạ tứ” Lý Bạch 
3Bài văn nghị luận về một vấn đề xã hội (Con người với cuộc sống xung quanh)Lắng nghe những tiếng thì thầm của cuộc sống 
4Bài văn nghị luận về một vấn đề xã hội (Hình thành lối sống tích cực trong xã hội hiện đại)Cư dân của hành tinh 
5Viết báo cáo nghiên cứu về một vấn đề tự nhiên, xã hộiGiao thoa và tiếp biến văn hóa – nhìn từ kiến trúc rồng thành bậc điện Kính Thiên 

Câu 5: 

Bài 1: Thuyết trình về nghệ thuật kể chuyện trong tác phẩm truyện 

- Nội dung: Thuyết trình về nghệ thuật kể chuyện trong tác phẩm truyện

- Yêu cầu: 

+ Giới thiệu những thông tin cơ bản về tác phẩm truyện được chọn để thuyết trình 

+ Nêu được các khía cạnh trong nghệ thuật kể chuyện của tác phẩm truyện 

+ Trình bày được những phát hiện cá nhân về giá trị của tác phẩm, thu hút sự quan tâm của người nghe về tác phẩm được chọn để thuyết trình 

+ Thể hiện được sự tôn trọng những cách cảm nhận, đánh giá đa dạng về một tác phẩm truyện 

- Thách thức và ý nghĩa của hoạt động: 

+ Thách thức: đánh giá được các phương diện làm nên tính nghệ thuật của tác phẩm  

+ Ý nghĩa: truyền tải nội dung nghệ thuật của tác phẩm mà mình được tìm hiểu. 

Bài 2: Giới thiệu một tác phẩm nghệ thuật 

- Nội dung: Giới thiệu một tác phẩm nghệ thuật 

- Yêu cầu: 

+ Cung cấp được thông tin chung về tác phẩm nghệ thuật một cách sáng rõ, chính xác (tên tác phẩm, tác giả, thể loại, thời điểm sáng tác, đánh giá của công chúng và các nhà chuyên môn,...) 

+ Nêu được lý do chọn giới thiệu tác phẩm 

+ Trình bày được cảm nhận, quan điểm cá nhân của người nói về giá trị tác phẩm với các lí lẽ và bằng chứng thuyết phục; chủ động đặt câu hỏi để người nghe cùng tương tác và đối thoại 

- Thách thức và ý nghĩa hoạt động: 

+ Thách thức: lựa chọn được tác phẩm nghệ thuật phù hợp và đưa ra đánh giá xác đáng, có căn cứ 

+ Ý nghĩa: nêu được quan điểm đánh giá khác về tác phẩm trên những luồng ý kiến khác nhau 

Bài 3: Trình bày ý kiến đánh giá, bình luận một vấn đề xã hội 

- Nội dung: Trình bày ý kiến đánh giá, bình luận một vấn đề xã hội

- Yêu cầu: 

+ Nêu được vấn đề xã hội cần đánh giá, bình luận 

+ làm rõ được bản chất và vai trò của vấn đề trong đời sống xã hội 

+ Trình bày được ý kiến đánh giá, bình luận của cá nhân về vấn đề; biết phân tích, đánh giá ý kiến của người khác 

+ Rút ra được ý nghĩa của việc đánh giá, bình luận về vấn đề 

+ Thể hiện sự tôn trọng ý kiến, quan điểm của người khác đối với vấn đề bàn luận 

- Thách thức và ý nghĩa hoạt động: 

+ Thách thức: lựa chọn vấn đề sao cho phù hợp 

+ Ý nghĩa: vấn đêf thu hút được sự quan tâm của xã hội 

Bài 4: Thảo luận về một vấn đề trong đời sống (Hình thành lối sống tích cực trong xã hội hiện đại) 

- Nội dung: Thảo luận về một vấn đề trong đời sống (Hình thành lối sống tích cực trong xã hội hiện đại) 

- Yêu cầu: 

+ Chọn được vấn đề thảo luận có ý nghĩa, gần gũi với trải nghiệm của tuổi trẻ học đường 

+ Nêu được các khía cạnh cụ thể của vấn đề và những cách tiếp cận khác nhau đối với vấn đề 

+ Thể hiện được quan điểm rõ ràng về vấn đề với lí lẽ thuyết phục và bằng chứng phù hợp, sinh động trong từng ý kiến phát biểu 

+ Thể hiện được thái độ tôn trọng lẫn nhau trong thảo luận 

- Thách thức và ý nghĩa hoạt động: 

+ Thách thức: có những ý kiến tranh luận trái chiều đôi khi không tìm được hướng giải quyết 

+ Ý nghĩa: bày tỏ được thái độ hưởng ứng tích cực đối với đề tài, vấn đề thảo luận. 

B. LUYỆN TẬP VÀ VẬN DỤNG

1. Đọc 

Câu 1: “Huyền diệu”- một nhan đề thật độc đáo và mới mẻ, gợi nên sự bí ẩn và kì diệu, khiến cho độc giả cảm thấy thật thú vị đồng thời nhan đề còn có vai trò rất quan trọng trong việc định hướng cho bạn đọc về việc thưởng thức tác phẩm.

Câu 2: Nguyên văn câu thơ này khi được dịch ra Tiếng Việt có nghĩa là “Hương thơm, màu sắc, âm thanh tương ứng với nhau” => Tác giả muốn nói đến sự hòa hợp giữa hương thơm, màu sắc và âm thanh, đó chính là sự tương giao và là sự tương ứng giữa các giác quan với nhau, từ đó gợi ra một vẻ đẹp mới, một hình ảnh lạ cho thơ.

Câu 3: Viết về sự đầm thấm, âm điệu và là sự cảm nhận của tác giả trong nhiều cung bậc cảm xúc bắt đầu từ “khúc nhạc thơm” đến người say rượu đêm tân hôn và rồi du dương một khúc nhạc hường, “nghe lẫn lộn ghé bên tai”, “lời chim”, “giọng suối”, “tiếng khóc người”..…

Câu 4: Thơ, điểm nhìn nghệ thuật, ngôn ngữ. 

Câu 5: Ngay từ câu mở đầu, Xuân Diệu đã làm cho người đọc thấy thật khó hiểu khi ông lại lựa chọn câu thơ bằng tiếng Pháp của Bô- đơ- le trong bài thơ Tương Giao để làm câu đề từ. Nguyên văn câu thơ này khi được dịch ra Tiếng Việt có nghĩa là “Hương thơm, màu sắc, âm thanh tương ứng với nhau”. Và Xuân Diệu làm như vậy là có lý do của mình, tác giả muốn nói đến sự hòa hợp giữa hương thơm, màu sắc và âm thanh, đó chính là sự tương giao và là sự tương ứng giữa các giác quan với nhau, từ đó gợi ra một vẻ đẹp mới, một hình ảnh lạ cho thơ. Và bởi Xuân Diệu là một trong số các nhà thơ đã chịu ảnh hưởng cảm quan tương ứng của Bô- đơ- le, vậy nên ông đã viết nên rất nhiều ý lạ cho những câu thơ của mình.

Câu 6: Bài thơ được tác giả cảm nhận rất rõ nét những sắc cảnh xung quanh mình, từ “khúc nhạc thơm” làm say đắm lòng người “thấm tận qua xương tủy”, cái âm điệu thần tiên ấy làm cho tác giả “thấm tận hồn”. Hay như “khúc nhạc hường” đã dẫn lối chúng ta bước vào “thế giới của Du Dương”, khi đắm chìm trong đó “hoa” và “hương” sẽ phảng phất ngay bên. Từ “giọng suối” tới “lời chim” và “tiếng khóc người” hãy cứ để bản thân “uống thơ” và “tan trong khúc nhạc” sẽ thấy “ngọt ngào kêu gọi thuở xa khơi”. Và kể cả là khi khúc nhạc kia đã “ngừng im” thì hãy cứ cầm hơi mà lắng nghe trái tim, nó vẫn cứ “run hoài” như những “chiêc lá” cho dù “trận gió”, bão táp đã qua đi từ hồi nào. Hồn thơ Xuân Diệu, một cái hồn luôn khát khao giao cảm với đời, một hồn thơ luôn luôn rộng mở, chẳng để lòng mình khép lại bao giờ, một hồn thơ ngày ngày vẫn tha thiết, bồi hồi, rạo rực, băn khoăn, và tôi chính tôi đã trót yêu cái hồn ấy tự bao giờ. Và thi nhân Hoài Thanh, ông đã từng nhận xét về Xuân Diệu thế này: “Xuân Diệu tha thiết, rạo rực bởi niềm say mê yêu đời, yêu cuộc sống, thèm sống đến mãnh liệt và thèm yêu đến điên cuồng với niềm khát khao được giao cảm với đời”. Quả thật không thể phủ nhận khi cho rằng Xuân Diệu là “nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới”, ông mang một hồn thơ tràn ngập tính nhân văn, giọng thơ linh hoạt, ngôn ngữ sáng tạo, độc đáo kết hợp với cách diễn đạt hấp dẫn, lôi cuốn được nhiều độc giả. Bài thơ chứa đựng cả bầu trời tâm tư cũng như cảm xúc của nhà thơ, qua đó đã thể hiện được nỗi niềm khát khao, mong ước hòa nhập với cuộc đời của tác giả Xuân Diệu. Tác phẩm là một thành công lớn đã góp phần không nhỏ trong việc đưa tên tuổi của nhà thơ vụt sáng trên bầu trời thi ca Việt Nam.

2. Viết 

Đề 3: 

Bài làm 

“Vô cảm” là không có cảm giác, không có tình cảm, không xúc động trước một sự vật, hiện tượng, một vấn đề gì đó trong đời sống. Bệnh vô cảm là căn bệnh của những người không có tình yêu thương, sống dửng dưng trước nỗi đau của con người, xã hội, nhân loại...

Trải qua các cuộc chiến tranh chống quân xâm lược, những cuộc đọ sức với thiên tai khắc nghiệt, nhân dân ta đã có truyền thống đoàn kết, thương yêu đùm bọc lẫn nhau. Dường như càng qua gian khổ, đau thương, mất mát con người lại sống gần nhau, quan tâm, giúp đỡ nhau nhiều hơn. Tình làng nghĩa xóm, thương người như thể thương thân đã trở thành một đạo lí của dân tộc: “Bán anh em xa mua láng giềng gần”.

Hiện nay, trong cuộc sống vật chất ngày càng được cải thiện hơn, đầy đủ hơn, người ta dễ có xu hướng lo vun vén cho bản thân và gia đình mình, ít quan tâm đến những vấn đề xã hội. Trước kia, ông cha ta đã phê phán lối sống chỉ biết vun vén cho riêng mình. Cuộc sống quanh ta hiện nay không thiếu những người như thế. Họ sống thờ ơ với mọi việc đang diễn ra, nhà nào nào đóng cửa biết nhà nấy. Nhà hàng xóm có hoạn nạn, có con cái bị rơi vào cạm bẫy của các tệ nạn xã hội họ cũng bàng quan như không biết. Đi đường gặp người bị tai nạn, họ cũng bỏ qua như không nhìn thấy. Thấy lũ trẻ cái nhau thậm chí đánh nhau họ cũng làm ngơ. Trước cảnh khổ đau của những người tàn tật, bất hạnh, họ cũng không mảy may xúc động...Bệnh vô cảm đã làm cho con người như vô tri, vô giác, không thể hòa nhập với cộng đồng. 

Trong công việc, bệnh vô cảm làm cho con người chẳng khác nào một cái máy. Họ làm việc một cách đơn điệu, tẻ nhạt. Con người mắc bệnh vô cảm trong công việc, chắn chắc hiệu quả công việc sẽ không thể nào cao, thậm chí còn làm trì trệ, ảnh hưởng nghiêm trọng.

Là cán bộ, công chức của Nhà nước, mắc bệnh vô cảm sẽ dẫn đến xa rời nhân dân, tắc trách trong công việc. Một bác sĩ vô cảm không thể có tình thương người bệnh, nhất là những người bệnh nghèo. Không thiếu những trường hợp vì vô cảm mà người bệnh không được chăm sóc chu đáo, dẫn đến những cái chết đáng tiếc. Một kĩ sư vô cảm có thể dửng dưng trước những sinh mạng con người do công trình không đạt chất lượng của mình gây ra. Một tài xế vô cảm sẵn sàng xem thường tính mạng của người khác khi phóng nhanh vượt ẩu. Một thầy giáo vô cảm chỉ nghĩ bài giảng cho xong chuyện, còn nói gì đến tình nghĩa thầy trò, tận tâm dạy bảo, nhất là những học trò còn học kém, gia đình khó khăn. Cán bộ vô cảm sẽ không thể nhìn thấy hoàn cảnh của mỗi người dân, không thấy những nỗi bức xúc của nhân dân, giúp đỡ nhân dân tận tâm, tận tình.

Gần đây thôi, nếu bạn có tình cờ xem qua các trang báo sẽ ngỡ ngàng vô cùng với “sự nhẫn tâm” đến đáng sợ của con người: Một thanh niên gào khóc thảm thiết trên chuyến xe buýt khi kẻ gian lấy mất chiếc bóp của anh ấy nhưng đáp lại là sự im lặng đến xót xa. Và đau lòng hơn nữa khi xem cảnh bao người đi “hôi bia” khi chuyến xe định mệnh của người tài xế đáng thương lật trên đường. Đáp lại cho tiếng khóc của anh là tiếng cười hả hê của những người đi nhặt của “trên trời rơi xuống”. Viết đến đây tôi lạnh cả người và tự hỏi lòng trắc ẩn, tình thương của con người hiện đại có còn hay không? Phải chăng khi xã hội phát triển con người lại đánh mất tình yêu thương?

Là bản thân học sinh chúng ta hãy ra sức chống bệnh vô cảm trong việc làm, học tập hằng ngày của mình. Hãy quan tâm giúp đỡ bạn bè. Hãy chia sẻ những gì mình có thể cho những cuộc đời bất hạnh quanh ta. Đừng để một ngày nào đó khi nhìn thấy bà lão ăn xin, một đứa bé côi cút bơ vơ, một người khách lỡ đường mà trái tim bạn không lên tiếng. Hãy thắp sáng, hãy gieo mầm cho những yêu thương trong trái tim bạn, trái tim tôi, trái tim tất cả chúng ta.

Tình thương là cái quí giá của con người; bệnh vô cảm đã làm mất phẩm chất ấy, không khác gì biến dòng máu hồng hào trở thành màu xanh. Trái tim mỗi người cần thắp sáng ước mơ, khát vọng, ý chí và sự sáng tạo gắn bó với cộng đồng. Điều đó sẽ chống được bệnh vô cảm và làm cho cuộc đời của con người. 

3. NÓI VÀ NGHE 

Nội dung 1: 

Cuốn sách nào xuất hiện ở nhà cũng cần một lý do, hợp lý cũng được, ngốc nghếch cũng được. Tôi sẽ không phủ nhận sự thực rằng chọn Chinatown đầu tiên vì nơi chị/cô Thuận từng học là giấc mơ, là điều luôn quyến rũ mình: Paris, La Sorbonne, và nước Pháp. Thứ đến, đó là sự mê đắm nằm trong tiếng gọi Hà Nội cùng những xung đột, mâu thuẫn, trớ trêu đan xen nơi nhân vật được đặt vào

Đọc Chinatown của Thuận, tôi nghĩ đến Sơn Táp. Không phải phong cách văn chương của hai nữ tác giả ấy giống nhau mà bởi khi nghĩ đến một thứ văn gì đó thật lạ, thật khác với những gì thường hay đọc, nhất định tôi sẽ nhớ đến hai người phụ nữ này đầu tiên.

Chinatown là dòng chảy mênh mông của kí ức cuộc đời hết người này đến người nọ nối tiếp nhau, chồng chéo lên nhau.

Chinatown là quá khứ, là thực tại được dồn trong hai tiếng đồng hồ khi métro phải dừng lại dở chừng vì sợ khủng bố. Hai tiếng không dài. Đời người cũng không dài. Nhưng Chinatown thì dài, dài thực sự.

Chinatown là suy tư, tưởng niệm, đau đáu từ Việt Nam đến Yên Khê, qua Leningrad rồi dừng bước tại Paris trong thoáng chốc để rồi lại cuồn cuộn theo lộ trình của riêng nó, tuần hoàn, tuần tự.

Chinatown không có tách đoạn, không có chương hồi và cũng chẳng biết nên xếp vào thể loại nào, chủ đề là gì.

Chinatown là điệp trùng những câu văn ngắn nhiều khi không chủ ngữ, chẳng vị ngữ. Điềm điệp thế nhưng lại khiến người ta háo hức, người ta tò mò, người ta không hụt hơi hay băn khoăn đâu là chương cuối, đâu là điểm kết.

Con người thường có thói tọc mạch dù cho đối tượng đối diện mình chẳng phải ngôi sao hay vĩ nhân tầm cỡ thế giới. Khuất khúc một chút, gập gềnh một chút, éo le một chút, ngang trái một chút trong sự hờ hững kể nhưng không vạch hết áo cho người xem lưng… Ngần ấy điều trong Chinatown làm người ta nóng lòng muốn bới móc đào sâu, muốn hóng cho tường tận để mà chẹp miệng, để mà bình luận. Số phận của “tôi” trong Chinatown vừa nghiêm túc nhưng cũng vừa như một trò đùa, vừa điển hình nhưng cũng rất đỗi phổ thông. Người ta không biết Thuận kể ra bao nhiêu điều là thật với chính nguyên liệu là cuộc sống riêng tư của cô. Người ta không biết liệu đây có phải hồi kí hay chỉ là một tác phẩm hư cấu thật khéo để ngỡ như mọi trải nghiệm đều là chân thực. Đó cũng đã là một cái tài khi sống trọn vẹn qua mắt nhìn của một kẻ khác-mình.

Nhân vật xuyên suốt trong truyện ngắn là “tôi” – một người mẹ đơn thân với tấm hộ chiếu CHXHCN Việt Nam, nuôi một đứa con trai trên đất Pháp, ở Belleville trung tâm quận 18 không ai muốn dính dáng. “Tôi” là một nghiên cứu sinh mãi không làm xong luận án tiến sĩ. Hay “tôi” là một người phụ nữ ba mươi chín tuổi với những biến cố của thời cuộc, của cuộc sống riêng tư nghĩ thôi cũng muốn bạc đầu? Hay “tôi” là nhà văn với cuốn truyện I’m yellow lồng ngay trong Chinatown? “Tôi” có lẽ là toàn bộ những vai diễn ấy, mặt nạ ấy những đồng thời cũng không là gì trừ việc tồn tại như một chứng tích về chính cuộc đời biến ảo của mình.

Điệp đi điệp lại trong tác phẩm là những câu văn mang những nội dung, hình thức giống hệt nhau như một sự tự ám thị của bản thân “tôi” để khỏi quên những mạch suy nghĩ khi liên tục, khi rải rác miên man hết việc này sang việc khác, hết người này sang người khác. Hiện ra xung quanh “tôi” là vô vàn những khuôn mặt người mà số phận , hoàn cảnh của họ giống nhau đến mức làm người ta nhệch môi cười khổ sở. Sự tương đồng ấy giữa người với người tạo ra một nhịp điệu chung cộng hưởng với nhau, làm cuộc đời từ đa dạng, đa sắc, đa hình trở nên khuôn hẹp trong sự đơn điệu, trớ trêu và không lời giải đáp.

Yên Khê – quê hương của Âu Phương Thụy, anh kĩ sư người Việt gốc Hoa, chồng của “tôi”, cha của thằng Vĩnh – là bí ẩn đầu tiên. Chinatown hay Chợ Lớn là bí ẩn cuối cùng. Bí ẩn không bật mí. Bí ẩn không lời đáp. Tôi vẫn tin cuộc đời có những điều không cần, không nên cố ép để truy tầm ra đáp án cuối cùng. Chinatown cũng thế, I’m yellow cũng vậy, tất cả chỉ là sự trải lòng của cảm xúc lúc lặp đi lặp lại nhàm chán, tự kỉ; lúc lại trào vọt lên bởi xúc động, kích động; lúc lại rơi xuống đáy sâu của sự mỉa mai hay tự mỉa mai, đau thương hay tự đau thương không nước mắt mà cô lại thành đau đáu, thắc thỏm. Có thể đúng như “tôi” đã nói: Đến chết “tôi” mới hiểu được Thụy, mới tìm ra đáp án của những ám ảnh suốt cuộc đời mình.

Chinatown có đau khổ nhưng không bi lụy. Có chia tay, có gặp gỡ để rồi lại hứa hẹn chia ly hay mãi mãi chỉ là kẻ quan biết đơn sơ. Có trào phúng, châm chích nhưng không phải để trào phúng hay châm chích, hay vạch trần, tố cáo điều gì. Trong mạch văn căng đầy những suy tư, xúc động ẩn sau vẻ dửng dưng, xa vắng của một người đàn bà từng trải, chỉ cần một chút gợi nhắc, tình cảm sẽ vỡ òa ra không cách nào cản lại cho đến khi nó tự lắng mình trong một mạch suy tư khác, để rồi lại đợi chờ cơ hội cuộn lên.

Chinatown là câu chuyện của một người đàn bà.

I’m yellow lại là câu chuyện của một người đàn ông với những nguyên liệu lấy ra từ chính cuộc đời của người đàn bà kia. Hình như, đó cũng chính là sự tự lý giải của “tôi” cho sự biến mất của Thụy trong cuộc đời mình. Bằn bặt không tin tức như thể chưa từng bắt đầu để mà kết thúc, như thể xưa nay chỉ mình tôi “yêu” Thụy, điên cuồng vì Thụy trong vô vọng.

Chinatown bắt đầu từ chuyện tình yêu thuở học trò của “tôi” và cậu học sinh Âu Dương Thụy bị mọi cấp lãnh đạo canh chừng vì sợ là gián điệp của Bắc Kinh. Mở ra từ đó là muôn nghìn những dao động khác nhau từ một cuộc gặp gỡ tình cờ với anh chàng người Pháp lắm mồm nhưng tử tế, những người Tàu mở miệng là Mao Trạch Đông rồi Đặng Tiểu Bình, là bộ mặt của Hà Nội, của Paris trong những thời điểm đặc biệt. Chinatown có những lúc cuồng dại, bướng bỉnh, cố chấp và ích kỷ của “tôi” trong tình yêu với Thụy. Tình yêu ấy làm “tôi” chống lại bố mẹ, chống lại chính những thành kiến, những giả dối, hời hợt bao trọn lấy mình gần 30 năm. Tình yêu ấy làm “tôi” bốc đồng nói rằng mình cũng không phải người Việt; hả hê trong tâm tưởng khi biết đâu một ngày nào đấy, bố mẹ bài Hoa từ A đến Z của mình sẽ nhận một cú vả khi biết tổ tiên 6, 7 đời trước cũng là người Hoa. Tình yêu ấy làm “tôi” dường như hạnh phúc khi được ai đó gọi là Madame Âu. Và cũng chính tình yêu ấy làm “tôi” chán ngán những câu hỏi của những người Hà Nội về Thụy nhưng lại bồn chồn khi chẳng ai hỏi về anh ở Paris. Nhưng đa phần, Chinatown là những suy tư thẳm sâu nhưng không mở hết, chỉ gợi cho người ta tự ngẫm về đời, về người.

Tôi hiểu Chinatown nhưng chắc chắn không hiểu đủ sâu, đủ kĩ vì tôi còn quá trẻ, trải đời chưa nhiều. Đó là cuộc hành trình để nhìn qua thế giới cảm xúc của một người phụ nữ lang bạt hết từ bầu trời này đến bầu trời khác nhưng ở đâu cũng chờ đợi, ở đâu cũng cô đơn, ở đâu cũng lạc lõng. Nhưng tôi nghĩ mình thích nó vì nó gieo vào lòng tôi những cảm xúc thật tự nhiên theo lời tự thuật của nhân vật chính.

Tôi thích nó bởi Chinatown của Thuận làm được điều mà lâu nay tôi chờ đợi: Liệu có ai đó kể cho tôi nghe về Hà Nội, về một thời đại đã qua nhưng không quá xa, vẫn còn rơi rớt đủ nhiều trên những năm 90 của thế kỉ trước rồi trở thành kí ức tuổi thơ của những đứa trẻ chúng tôi? Hà Nội bao cấp, Hà Nội với Liên Xô, Hà Nội với những năm chống giặc Tàu trên biến giới. Hà Nội mở cửa, Hà Nội 1986, Hà Nội Đổi Mới. Hà Nội trong thế giới của Thuận không đẹp mà cũng chẳng thơ. Đó là mảnh đất với con sông Hồng không đủ rộng, nước không đủ sâu. Đó là mảnh đất với óc lợn hấp nồi cơm, chè đậu đen nấu bằng kẹo mậu dịch… để đổi lấy điểm mười rồi tấm bằng đỏ chót. Đó là nơi nặng nề thành kiến, sĩ diện, tráo trở và ngờ vực. Đó là nơi với những bản hợp đồng trách nhiệm hư danh. Chính là như thế nên tôi thích Chinatown bởi phải sống thật, nghĩ thật và dốc lòng thật mới có thể có những dòng chữ cay đắng đến thế.

Nội dung 2: 

Có những tác phẩm đọc xong rồi đi vào quên lãng, nhưng có những tác phẩm để lại ấn tượng sâu sắc tựa như một dòng nước chảy qua bồi lên lớp phù sa màu mỡ. Truyện ngắn Làng của nhà văn Kim Lân là một tác phẩm như vậy. Đặc biệt, tác phẩm là một minh chứng rõ ràng nhất cho nhận định: “Một tác phẩm để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng bạn đọc chính là nhờ xây dựng thành công tình huống truyện và miêu tả nội tâm nhân vật”.

Vậy tình huống truyện là gì? Một tác phẩm tự sự hay, không thể thiếu tình huống truyện. Tình huống là các sự việc, hoàn cảnh diễn ra sự việc được tác giả đặt nhân vật vào đó để bộc lộ đặc điểm, tính cách, phẩm chất của mình. Và dĩ nhiên, việc miêu tả nội tâm nhân vật chính là khắc hoạ những tâm tư, tình cảm, suy nghĩ của nhân vật để qua đó người đọc có một cái nhìn rõ hơn vể nhân vật cũng như tác phẩm. Làng của Kim Lân là một truyện ngắn hay, thành công trong xây dựng tình huống truyện và miêu tả nội tâm nhân vật. Tác phẩm xoay quanh một sự việc là tin đồn làng Chợ Dầu theo giặc cùng những phản ứng của ông Hai trước, trong và sau sự việc đó. Chính vì thế, tình huống trong tác phẩm cũng chia làm ba giai đoạn: trước khi ông Hai nghe tin; khi ông Hai nghe tin làng mình theo giặc và sau khi nghe tin làng được cải chính. Trong mỗi tình huống, nhân vật ông Hai bộc lộ những suy nghĩ, tâm tư, tình cảm của mình thông qua việc xử lí các tình huống.

Trước khi nghe tin, ông Hai là một người nông dân với những suy nghĩ khá hồn nhiên và tính cách khá đặc biệt. Ông yêu làng nên đi đâu cũng khoe về cái làng của mình, ông tự hào và yêu tất cả mọi thứ của làng Chợ Dầu nên khi phải rời làng đi tản cư, ông Hai vẫn còn rất quyến luyến cái nơi “chôn nhau cắt rốn” của mình. Khi rời xa làng, ông vẫn luôn theo dõi tin tức kháng chiến và hỏi thăm tình hình những người ở nơi khác đến. Đặc biệt, với tình huống thứ hai sau khi nghe tin làng Chợ Dầu theo giặc, nhân vật ông Hai bộc lộ sâu sắc tình cảm của mình. Từng hành động, cử chỉ, lời nói của ông trong mỗi hoàn cảnh, thời gian, địa điểm là một sự tủi hổ, nhục nhã, xót xa, đau đớn, dằn vặt và cuối cùng đi đến quyết định vô cùng khó khăn “Làng thì yêu thật, nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù”. Một người đã từng yêu làng hơn bất cứ thứ gì, đã từng tự hào về làng mà bây giờ lại phải thất vọng, đau khổ để quyết định “thù” làng. Tình huống này đã khiến người đọc cảm nhận sâu sắc tính cách, thái độ của nhân vật ông Hai. Nhưng Kim Lân không chỉ dừng lại đó mà còn muốn nói một điều gì mới mẻ hơn khi tạo ra tình huống thứ ba là ông Hai nghe được tin cải chính. Một niềm vui bất ngờ, ông Hai như một con người đang chết mòn chết mỏi bây giờ được hồi sinh lại. Ông mua quà cho con và lại theo thói quen sang nhà bác Thứ để khoe tin mừng. Con người ấy vẫn mộc mạc, chân thực, đáng yêu và đáng quý biết bao. Tình huống đã khẳng định một điều trong con người ông Hai, tình yêu làng của ông Hai đã hoà quyện, thống nhất với tình yêu nước, tình yêu kháng chiến, yêu Cụ Hồ. Có thể nói, ở mỗi tình huống, nhân vật ông Hai đều bộc lộ những phẩm chất cao đẹp, “rất người” của mình. Điều đó cũng khẳng định thành công trong việc xây dựng tình huống truyện của nhà văn Kim Lân.

Phải chăng, người đọc không chỉ thấy hấp dẫn với tác phẩm bởi tình huống truyện trong Làng mà còn thực sự thấy ấn tượng, yêu quý và hiểu rõ nhân vật hơn qua việc miêu tả nội tâm nhân vật của Kim Lân.

Thật vậy, Kim Lân đã miêu tả rất sâu sắc và cụ thể tâm trạng của nhân vật ông Hai qua mỗi tình huống. Trước khi nghe tin làng mình theo Tây, ông Hai yêu làng Chợ Dầu của ông hơn bất cứ thứ gì. Ông tự hào về tất cả những gì của làng. Những điều đó khiến cho nhân vật ông Hai hiện lên với những suy nghĩ khá hồn nhiên và tính cách cũng đặc biệt. Ông hay khoe làng: “Ông có thể ngồi nói cả buổi về cái làng Chợ Dầu mà không biết người nghe thế nào, chỉ nói cho sướng cái miệng”. Cho nên khi nhận lệnh phải đi tản cư, ông Hai nửa muốn đi vì kháng chiến, nửa muốn ở lại vì tình cảm quyến luyến, yêu làng, không muốn rời xa làng, nhưng cuối cùng ông cũng phải đi. Ở nơi tản cư, ông vẫn luôn theo dõi tin tức kháng chiến, tình yêu làng của ông thể hiện ở mọi lúc, mọi nơi dù ở làng hay đã rời xa làng. Song, tình yêu làng, yêu nước của ông Hai mới thực sự được bộc lộ rõ khi nghe tin làng mình theo Tây. Một sự thất vọng tột độ, cái làng ông vốn rất tự hào, yêu hơn chính bản thân mình thì giờ đây lại theo Tây. Ông thấy mình như người có tội, bỗng chốc những cảm xúc tủi hổ, nhục nhã, dằn vặt, đau đớn ùa về trong ông. Những ngày sau ông không dám ra đường bởi ông sỢ, lo lắng và cảm thấy chẳng còn mặt mủi để nhìn ai. Một quyết định đau đớn mà ông Hai phải dằn lòng đưa ra: “Làng thì yêu thật, nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù”, ông đã đặt tình yêu nước lên trên tình yêu làng, hi sinh cá nhân vì dân tộc. Nhưng ông vẫn muốn một lần nữa khẳng định sự trung thành với Đảng, với cách mạng của mình qua cuộc trò chuyện với đứa con thơ. Ông Hai đã thực sự có những suy nghĩ đúng đắn. Sau khi nghe tin làng cải chính, ông Hai lại được yêu làng, tự hào về làng đúng với tình yêu trong trái tim ông. Vì thế; ông tìm lại được bản tính hồn nhiên, mộc mạc của mình. Tình yêu làng của ông giờ đã hoà quyện, thống nhất với tình yêu nước, tình yêu kháng chiến.

Với thành công trong việc xây dựng tình huống truyện và miêu tả nội tâm nhân vật của ngòi bút Kim Lân, nhân vật ông Hai hiện lên với những phẩm chất cao đẹp, với tình yêu làng mộc mạc, giản dị mà sâu nặng. Hoà quyện với tình yêu đất nước, vẻ đẹp tâm hồn của ông Hai tiêu biểu cho những người nông dân Việt Nam có ý thức giác ngộ cao, tha thiết yêu quê hương, Tổ quốc. Nói cách khác, quê hương – Tổ quốc đối với mỗi người Việt Nam chúng ta luôn gắn bó trong niềm tự hào nồng thắm. Mở rộng và thống nhất tình yêu quê hương trong tình yêu đất nước là nét mới trong nhận thức và tình cảm của quần chúng cách mạng mà văn học thời kháng chiến chống Pháp đã chú trọng làm nổi bật. Truyện ngắn Làng của Kim Lân là một trong những thành công đáng quý ấy.

Tác phẩm Làng của nhà văn Kim Lân với những nét riêng, đặc sắc, đã để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng bạn đọc. Đặc biệt, với những thành công trong xây dựng tình huống truyện và miêu tả nội tâm nhân vật, Kim Lân đã đưa nhân vật ông Hai trở thành người nông dân điển hình sống mãi trong lòng người đọc.

Nội dung 3: 

Việt Nam được đánh giá là một trong những quốc gia bị ảnh hưởng nặng nề của biến đổi khí hậu do có bờ biển dài. Tác động của biến đổi khí hậu đến Việt Nam là nguy cơ hiện hữu đối với mục tiêu xóa đói giảm nghèo, mục tiêu thiên niên kỷ và sự phát triển bền vững. Dưới tác động của biến đổi khí hậu, chỉ trong 10 năm gần đây, các loại thiên tai như: bão, lũ, sạt lở đất, úng ngập, hạn hán, xâm nhập mặn… đã gây thiệt hại đáng kể, làm chết và mất tích hàng ngàn người, thiệt hại về tài sản ước tính 1,5% GDP/năm. Với sự gia tăng đáng kể của các phương tiện giao thông và quá trình sản xuất gây ra hiện tượng ô nhiễm không khí, từ năm 2019 đến nay, tình trạng ô nhiễm khí xảy ra khá thường xuyên tại các thành phố lớn của nước ta.

Chất thải nhựa cũng trở thành một thách thức lớn với cộng đồng và xã hội. Việc tăng trưởng kinh tế và thay đổi hình thức tiêu thụ dẫn đến sự gia tăng nhanh chóng chất thải nhựa khiến ô nhiễm nhựa trở thành một vấn đề môi trường mang tính chất toàn cầu. Với đặc tính khó phân hủy trong tự nhiên, rác thải nhựa cùng với các chất gây ô nhiễm môi trường khác đã và đang tác động tiêu cực đến môi trường, kinh tế, xã hội và sức khỏe con người.

Hiện nay, cuộc sống đang phát triển ngày càng hiện đại, đời sống vật chất và tinh thần của người dân ngày càng được cải thiện. Tuy nhiên, đối lập với nó là tình trạng ô nhiễm môi trường lại có xu hướng gia tăng, diễn biến phức tạp. Bảo vệ môi trường hơn bao giờ hết đã trở thành nhiệm vụ cấp bách của toàn xã hội. Muốn giải quyết thành công bài toán ô nhiễm môi trường, phát triển kinh tế - xã hội một cách bền vững, trước hết cần bắt đầu bằng việc giáo dục, nâng cao ý thức, nhận thức về môi trường, bảo vệ môi trường cho mỗi người dân, cộng đồng ngay từ những lứa tuổi, cấp học nhỏ nhất

III. Soạn bài ngắn nhất: Ôn tập học kì I

A. HỆ THỐNG HÓA KIẾN THỨC ĐÃ HỌC 

Câu 1: 

- Tác phẩm văn học bao gồm: tự sự, trữ tình, kịch.

+ Các thể loại trữ tình:  ca dao, thơ cách luật, thơ tự do, thơ trào phúng…

+ Các thể loại tự sự: truyện, ngắn, tiểu thuyết, truyện vừa, bút kí, phóng sự…

+ Các thể loại kịch:  kịch dân gian, kịch cổ điển, kịch hiện đại, bi kịch, hài kịch.

Câu 2:

STTTHUẬT NGỮGIẢI THÍCH
1Biểu tượngHình ảnh tượng trưng, mang tính ngụ ý, gợi ý, vượt lên chức năng miêu tả, tạo hình đơn giản; chứa đựng nhiều tầng nghĩa phong phú; gợi cảm nhận, suy tư về những điều mang tính phổ quát.
2Điểm nhìn bên trongLoại điểm nhìn trần thuật được sử dụng để kể và tả xuyên qua cảm nhận, ý thức của nhân vật.
3Điểm nhìn bên ngoàiLoại điểm nhìn trần thuật được sử dụng miêu tả sự vật, con người ở những bình diện ngoại hiện, kể về những điều mà nhân vật không biết.
4Truyện thơ dân gianThuộc loại hình tự sự dân gian, do tầng lớp bình dân hoặc các trí thức sống gần gũi với tầng lớp bình dân sáng tác, có hình thức thơ, kể những cầu chuyện có nguồn gốc từ truyện cổ, sự tích tôn giáo hay cuộc sống đời thường, thể hiện đời sống hiện thực và những tình cảm, tức mơ, khát vọng của nhiều lớp người trong xã hội, nhất là những người lao động nghèo bằng ngôn ngữ giản dị, chất phác, giàu hình ảnh

Câu 3: 

Bài 1: Thực hành tiếng Viêt: Đặc điểm cơ bản của ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết 

Bài 2: Thực hành tiếng Việt: Một số hiện tượng phá vỡ những quy tắc ngôn ngữ thông thường: đặc điểm và tác dụng 

Bài 3: Thực hành tiếng Viêt: Đặc điểm cơ bản của ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết (tiếp theo) 

Bài 4: Thực hành tiếng Viêt: Lỗi về thành phần câu và cách sửa 

Câu 4: 

STTKiểu bài viếtĐề tài được gợi ýĐề tài đã viết
 1 Văn bản nghị luận về một tác phẩm truyệnMột vài nét về nghệ thuật tự sự của Nam Cao trong truyện ngắn Đời thừa 
 Văn bản nghị luận về một tác phẩm thơBài thơ “Tĩnh dạ tứ” Lý Bạch 
3Bài văn nghị luận về một vấn đề xã hội (Con người với cuộc sống xung quanh)Lắng nghe những tiếng thì thầm của cuộc sống 
4Bài văn nghị luận về một vấn đề xã hội (Hình thành lối sống tích cực trong xã hội hiện đại)Cư dân của hành tinh 
5Viết báo cáo nghiên cứu về một vấn đề tự nhiên, xã hộiGiao thoa và tiếp biến văn hóa – nhìn từ kiến trúc rồng thành bậc điện Kính Thiên 

Câu 5: 

Bài 1: Thuyết trình về nghệ thuật kể chuyện trong tác phẩm truyện 

- Nội dung: Thuyết trình về nghệ thuật kể chuyện trong tác phẩm truyện

- Yêu cầu: 

+ Giới thiệu những thông tin cơ bản về tác phẩm truyện được chọn để thuyết trình 

+ Nêu được các khía cạnh trong nghệ thuật kể chuyện của tác phẩm truyện 

+ Trình bày được những phát hiện cá nhân về giá trị của tác phẩm, thu hút sự quan tâm của người nghe về tác phẩm được chọn để thuyết trình 

+ Thể hiện được sự tôn trọng những cách cảm nhận, đánh giá đa dạng về một tác phẩm truyện 

- Thách thức và ý nghĩa của hoạt động: 

+ Thách thức: đánh giá được các phương diện làm nên tính nghệ thuật của tác phẩm  

+ Ý nghĩa: truyền tải nội dung nghệ thuật của tác phẩm mà mình được tìm hiểu. 

Bài 2: Giới thiệu một tác phẩm nghệ thuật 

- Nội dung: Giới thiệu một tác phẩm nghệ thuật 

- Yêu cầu: 

+ Cung cấp được thông tin chung về tác phẩm nghệ thuật một cách sáng rõ, chính xác (tên tác phẩm, tác giả, thể loại, thời điểm sáng tác, đánh giá của công chúng và các nhà chuyên môn,...) 

+ Nêu được lý do chọn giới thiệu tác phẩm 

+ Trình bày được cảm nhận, quan điểm cá nhân của người nói về giá trị tác phẩm với các lí lẽ và bằng chứng thuyết phục; chủ động đặt câu hỏi để người nghe cùng tương tác và đối thoại 

- Thách thức và ý nghĩa hoạt động: 

+ Thách thức: lựa chọn được tác phẩm nghệ thuật phù hợp và đưa ra đánh giá xác đáng, có căn cứ 

+ Ý nghĩa: nêu được quan điểm đánh giá khác về tác phẩm trên những luồng ý kiến khác nhau 

Bài 3: Trình bày ý kiến đánh giá, bình luận một vấn đề xã hội 

- Nội dung: Trình bày ý kiến đánh giá, bình luận một vấn đề xã hội

- Yêu cầu: 

+ Nêu được vấn đề xã hội cần đánh giá, bình luận 

+ làm rõ được bản chất và vai trò của vấn đề trong đời sống xã hội 

+ Trình bày được ý kiến đánh giá, bình luận của cá nhân về vấn đề; biết phân tích, đánh giá ý kiến của người khác 

+ Rút ra được ý nghĩa của việc đánh giá, bình luận về vấn đề 

+ Thể hiện sự tôn trọng ý kiến, quan điểm của người khác đối với vấn đề bàn luận 

- Thách thức và ý nghĩa hoạt động: 

+ Thách thức: lựa chọn vấn đề sao cho phù hợp 

+ Ý nghĩa: vấn đêf thu hút được sự quan tâm của xã hội 

Bài 4: Thảo luận về một vấn đề trong đời sống (Hình thành lối sống tích cực trong xã hội hiện đại) 

- Nội dung: Thảo luận về một vấn đề trong đời sống (Hình thành lối sống tích cực trong xã hội hiện đại) 

- Yêu cầu: 

+ Chọn được vấn đề thảo luận có ý nghĩa, gần gũi với trải nghiệm của tuổi trẻ học đường 

+ Nêu được các khía cạnh cụ thể của vấn đề và những cách tiếp cận khác nhau đối với vấn đề 

+ Thể hiện được quan điểm rõ ràng về vấn đề với lí lẽ thuyết phục và bằng chứng phù hợp, sinh động trong từng ý kiến phát biểu 

+ Thể hiện được thái độ tôn trọng lẫn nhau trong thảo luận 

- Thách thức và ý nghĩa hoạt động: 

+ Thách thức: có những ý kiến tranh luận trái chiều đôi khi không tìm được hướng giải quyết 

+ Ý nghĩa: bày tỏ được thái độ hưởng ứng tích cực đối với đề tài, vấn đề thảo luận. 

B. LUYỆN TẬP VÀ VẬN DỤNG

1. Đọc 

Câu 1: “Huyền diệu”- một nhan đề thật độc đáo và mới mẻ, gợi nên sự bí ẩn và kì diệu đồng thời nhan đề còn có vai trò rất quan trọng trong việc định hướng cho bạn đọc về việc thưởng thức tác phẩm.

Câu 2: Tác giả muốn nói đến sự hòa hợp giữa hương thơm, màu sắc và âm thanh, đó chính là sự tương giao và là sự tương ứng giữa các giác quan với nhau, từ đó gợi ra một vẻ đẹp mới, một hình ảnh lạ cho thơ.

Câu 3: Là sự cảm nhận của tác giả trong nhiều cung bậc cảm xúc bắt đầu từ “khúc nhạc thơm” đến người say rượu đêm tân hôn và rồi du dương một khúc nhạc hường, “nghe lẫn lộn ghé bên tai”, “lời chim”, “giọng suối”, “tiếng khóc người”..…

Câu 4: Thơ, điểm nhìn nghệ thuật, ngôn ngữ. 

Câu 5: Ngay từ câu mở đầu, Xuân Diệu lựa chọn câu thơ bằng tiếng Pháp của Bô- đơ- le trong bài thơ Tương Giao để làm câu đề từ. Và Xuân Diệu làm như vậy là có lý do của mình, tác giả muốn nói đến sự hòa hợp giữa hương thơm, màu sắc và âm thanh, đó chính là sự tương giao và là sự tương ứng giữa các giác quan với nhau, từ đó gợi ra một vẻ đẹp mới, một hình ảnh lạ cho thơ. 

Câu 6: Bài thơ được tác giả cảm nhận rất rõ nét những sắc cảnh xung quanh mình, từ “khúc nhạc thơm” làm say đắm lòng người “thấm tận qua xương tủy”, cái âm điệu thần tiên ấy làm cho tác giả “thấm tận hồn”. Hay như “khúc nhạc hường” đã dẫn lối chúng ta bước vào “thế giới của Du Dương”, khi đắm chìm trong đó “hoa” và “hương” sẽ phảng phất ngay bên. Từ “giọng suối” tới “lời chim” và “tiếng khóc người” hãy cứ để bản thân “uống thơ” và “tan trong khúc nhạc” sẽ thấy “ngọt ngào kêu gọi thuở xa khơi”. Và kể cả là khi khúc nhạc kia đã “ngừng im” thì hãy cứ cầm hơi mà lắng nghe trái tim, nó vẫn cứ “run hoài” như những “chiêc lá” cho dù “trận gió”, bão táp đã qua đi từ hồi nào. Thi nhân Hoài Thanh, ông đã từng nhận xét về Xuân Diệu thế này: “Xuân Diệu tha thiết, rạo rực bởi niềm say mê yêu đời, yêu cuộc sống, thèm sống đến mãnh liệt và thèm yêu đến điên cuồng với niềm khát khao được giao cảm với đời”. Quả thật không thể phủ nhận khi cho rằng Xuân Diệu là “nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới”, ông mang một hồn thơ tràn ngập tính nhân văn, giọng thơ linh hoạt, ngôn ngữ sáng tạo, độc đáo kết hợp với cách diễn đạt hấp dẫn, lôi cuốn được nhiều độc giả. Bài thơ chứa đựng cả bầu trời tâm tư cũng như cảm xúc của nhà thơ, qua đó đã thể hiện được nỗi niềm khát khao, mong ước hòa nhập với cuộc đời của tác giả Xuân Diệu. Tác phẩm là một thành công lớn đã góp phần không nhỏ trong việc đưa tên tuổi của nhà thơ vụt sáng trên bầu trời thi ca Việt Nam.

2. Viết 

Đề 3: 

Bài làm 

“Vô cảm” là không có cảm giác, không có tình cảm, không xúc động trước một sự vật, hiện tượng, một vấn đề gì đó trong đời sống.

Hiện nay, trong cuộc sống vật chất ngày càng được cải thiện hơn, đầy đủ hơn, người ta dễ có xu hướng lo vun vén cho bản thân và gia đình mình, ít quan tâm đến những vấn đề xã hội. Trước kia, ông cha ta đã phê phán lối sống chỉ biết vun vén cho riêng mình. Cuộc sống quanh ta hiện nay không thiếu những người như thế. Họ sống thờ ơ với mọi việc đang diễn ra, nhà nào nào đóng cửa biết nhà nấy. Nhà hàng xóm có hoạn nạn, có con cái bị rơi vào cạm bẫy của các tệ nạn xã hội họ cũng bàng quan như không biết. Đi đường gặp người bị tai nạn, họ cũng bỏ qua như không nhìn thấy. Thấy lũ trẻ cái nhau thậm chí đánh nhau họ cũng làm ngơ. Trước cảnh khổ đau của những người tàn tật, bất hạnh, họ cũng không mảy may xúc động...Bệnh vô cảm đã làm cho con người như vô tri, vô giác, không thể hòa nhập với cộng đồng. 

Trong công việc, bệnh vô cảm làm cho con người chẳng khác nào một cái máy. Họ làm việc một cách đơn điệu, tẻ nhạt. Con người mắc bệnh vô cảm trong công việc, chắn chắc hiệu quả công việc sẽ không thể nào cao, thậm chí còn làm trì trệ, ảnh hưởng nghiêm trọng.

Là cán bộ, công chức của Nhà nước, mắc bệnh vô cảm sẽ dẫn đến xa rời nhân dân, tắc trách trong công việc. 

Gần đây thôi, nếu bạn có tình cờ xem qua các trang báo sẽ ngỡ ngàng vô cùng với “sự nhẫn tâm” đến đáng sợ của con người: Một thanh niên gào khóc thảm thiết trên chuyến xe buýt khi kẻ gian lấy mất chiếc bóp của anh ấy nhưng đáp lại là sự im lặng đến xót xa. Và đau lòng hơn nữa khi xem cảnh bao người đi “hôi bia” khi chuyến xe định mệnh của người tài xế đáng thương lật trên đường. Đáp lại cho tiếng khóc của anh là tiếng cười hả hê của những người đi nhặt của “trên trời rơi xuống”. Viết đến đây tôi lạnh cả người và tự hỏi lòng trắc ẩn, tình thương của con người hiện đại có còn hay không? Phải chăng khi xã hội phát triển con người lại đánh mất tình yêu thương?

Tình thương là cái quí giá của con người; bệnh vô cảm đã làm mất phẩm chất ấy, không khác gì biến dòng máu hồng hào trở thành màu xanh. Trái tim mỗi người cần thắp sáng ước mơ, khát vọng, ý chí và sự sáng tạo gắn bó với cộng đồng. Điều đó sẽ chống được bệnh vô cảm và làm cho cuộc đời của con người. 

3. NÓI VÀ NGHE 

Nội dung 1: 

Cuốn sách nào xuất hiện ở nhà cũng cần một lý do, hợp lý cũng được, ngốc nghếch cũng được. Tôi sẽ không phủ nhận sự thực rằng chọn Chinatown đầu tiên vì nơi chị/cô Thuận từng học là giấc mơ, là điều luôn quyến rũ mình: Paris, La Sorbonne, và nước Pháp. Thứ đến, đó là sự mê đắm nằm trong tiếng gọi Hà Nội cùng những xung đột, mâu thuẫn, trớ trêu đan xen nơi nhân vật được đặt vào

Đọc Chinatown của Thuận, tôi nghĩ đến Sơn Táp. Không phải phong cách văn chương của hai nữ tác giả ấy giống nhau mà bởi khi nghĩ đến một thứ văn gì đó thật lạ, thật khác với những gì thường hay đọc, nhất định tôi sẽ nhớ đến hai người phụ nữ này đầu tiên.

Chinatown là dòng chảy mênh mông của kí ức cuộc đời hết người này đến người nọ nối tiếp nhau, chồng chéo lên nhau.

Chinatown là quá khứ, là thực tại được dồn trong hai tiếng đồng hồ khi métro phải dừng lại dở chừng vì sợ khủng bố. Hai tiếng không dài. Đời người cũng không dài. Nhưng Chinatown thì dài, dài thực sự.

Chinatown là suy tư, tưởng niệm, đau đáu từ Việt Nam đến Yên Khê, qua Leningrad rồi dừng bước tại Paris trong thoáng chốc để rồi lại cuồn cuộn theo lộ trình của riêng nó, tuần hoàn, tuần tự.

Chinatown không có tách đoạn, không có chương hồi và cũng chẳng biết nên xếp vào thể loại nào, chủ đề là gì.

Chinatown là điệp trùng những câu văn ngắn nhiều khi không chủ ngữ, chẳng vị ngữ. Điềm điệp thế nhưng lại khiến người ta háo hức, người ta tò mò, người ta không hụt hơi hay băn khoăn đâu là chương cuối, đâu là điểm kết.

Con người thường có thói tọc mạch dù cho đối tượng đối diện mình chẳng phải ngôi sao hay vĩ nhân tầm cỡ thế giới. Khuất khúc một chút, gập gềnh một chút, éo le một chút, ngang trái một chút trong sự hờ hững kể nhưng không vạch hết áo cho người xem lưng… Ngần ấy điều trong Chinatown làm người ta nóng lòng muốn bới móc đào sâu, muốn hóng cho tường tận để mà chẹp miệng, để mà bình luận. Số phận của “tôi” trong Chinatown vừa nghiêm túc nhưng cũng vừa như một trò đùa, vừa điển hình nhưng cũng rất đỗi phổ thông. Người ta không biết Thuận kể ra bao nhiêu điều là thật với chính nguyên liệu là cuộc sống riêng tư của cô. Người ta không biết liệu đây có phải hồi kí hay chỉ là một tác phẩm hư cấu thật khéo để ngỡ như mọi trải nghiệm đều là chân thực. Đó cũng đã là một cái tài khi sống trọn vẹn qua mắt nhìn của một kẻ khác-mình.

Nhân vật xuyên suốt trong truyện ngắn là “tôi” – một người mẹ đơn thân với tấm hộ chiếu CHXHCN Việt Nam, nuôi một đứa con trai trên đất Pháp, ở Belleville trung tâm quận 18 không ai muốn dính dáng. “Tôi” là một nghiên cứu sinh mãi không làm xong luận án tiến sĩ. Hay “tôi” là một người phụ nữ ba mươi chín tuổi với những biến cố của thời cuộc, của cuộc sống riêng tư nghĩ thôi cũng muốn bạc đầu? Hay “tôi” là nhà văn với cuốn truyện I’m yellow lồng ngay trong Chinatown? “Tôi” có lẽ là toàn bộ những vai diễn ấy, mặt nạ ấy những đồng thời cũng không là gì trừ việc tồn tại như một chứng tích về chính cuộc đời biến ảo của mình.

Chinatown có đau khổ nhưng không bi lụy. Có chia tay, có gặp gỡ để rồi lại hứa hẹn chia ly hay mãi mãi chỉ là kẻ quan biết đơn sơ. Có trào phúng, châm chích nhưng không phải để trào phúng hay châm chích, hay vạch trần, tố cáo điều gì. Trong mạch văn căng đầy những suy tư, xúc động ẩn sau vẻ dửng dưng, xa vắng của một người đàn bà từng trải, chỉ cần một chút gợi nhắc, tình cảm sẽ vỡ òa ra không cách nào cản lại cho đến khi nó tự lắng mình trong một mạch suy tư khác, để rồi lại đợi chờ cơ hội cuộn lên.

Chinatown là câu chuyện của một người đàn bà.

Tôi hiểu Chinatown nhưng chắc chắn không hiểu đủ sâu, đủ kĩ vì tôi còn quá trẻ, trải đời chưa nhiều. Đó là cuộc hành trình để nhìn qua thế giới cảm xúc của một người phụ nữ lang bạt hết từ bầu trời này đến bầu trời khác nhưng ở đâu cũng chờ đợi, ở đâu cũng cô đơn, ở đâu cũng lạc lõng. Nhưng tôi nghĩ mình thích nó vì nó gieo vào lòng tôi những cảm xúc thật tự nhiên theo lời tự thuật của nhân vật chính.

Tôi thích nó bởi Chinatown của Thuận làm được điều mà lâu nay tôi chờ đợi: Liệu có ai đó kể cho tôi nghe về Hà Nội, về một thời đại đã qua nhưng không quá xa, vẫn còn rơi rớt đủ nhiều trên những năm 90 của thế kỉ trước rồi trở thành kí ức tuổi thơ của những đứa trẻ chúng tôi? Hà Nội bao cấp, Hà Nội với Liên Xô, Hà Nội với những năm chống giặc Tàu trên biến giới. Hà Nội mở cửa, Hà Nội 1986, Hà Nội Đổi Mới. Hà Nội trong thế giới của Thuận không đẹp mà cũng chẳng thơ. Đó là mảnh đất với con sông Hồng không đủ rộng, nước không đủ sâu. Đó là mảnh đất với óc lợn hấp nồi cơm, chè đậu đen nấu bằng kẹo mậu dịch… để đổi lấy điểm mười rồi tấm bằng đỏ chót. Đó là nơi nặng nề thành kiến, sĩ diện, tráo trở và ngờ vực. Đó là nơi với những bản hợp đồng trách nhiệm hư danh. Chính là như thế nên tôi thích Chinatown bởi phải sống thật, nghĩ thật và dốc lòng thật mới có thể có những dòng chữ cay đắng đến thế.

IV. Soạn bài cực ngắn: Ôn tập học kì I

A. HỆ THỐNG HÓA KIẾN THỨC ĐÃ HỌC 

Câu 1: 

- Tác phẩm văn học bao gồm: tự sự, trữ tình, kịch.

+ Các thể loại trữ tình:  ca dao, thơ cách luật, thơ tự do, thơ trào phúng…

+ Các thể loại tự sự: truyện, ngắn, tiểu thuyết, truyện vừa, bút kí, phóng sự…

+ Các thể loại kịch:  kịch dân gian, kịch cổ điển, kịch hiện đại, bi kịch, hài kịch.

Câu 2:

STTTHUẬT NGỮGIẢI THÍCH
1Biểu tượngHình ảnh tượng trưng, mang tính ngụ ý, gợi ý, vượt lên chức năng miêu tả, tạo hình đơn giản; chứa đựng nhiều tầng nghĩa phong phú; gợi cảm nhận, suy tư về những điều mang tính phổ quát.
2Điểm nhìn bên trongLoại điểm nhìn trần thuật được sử dụng để kể và tả xuyên qua cảm nhận, ý thức của nhân vật.
3Điểm nhìn bên ngoàiLoại điểm nhìn trần thuật được sử dụng miêu tả sự vật, con người ở những bình diện ngoại hiện, kể về những điều mà nhân vật không biết.
4Truyện thơ dân gianThuộc loại hình tự sự dân gian, do tầng lớp bình dân hoặc các trí thức sống gần gũi với tầng lớp bình dân sáng tác, có hình thức thơ, kể những cầu chuyện có nguồn gốc từ truyện cổ, sự tích tôn giáo hay cuộc sống đời thường, thể hiện đời sống hiện thực và những tình cảm, tức mơ, khát vọng của nhiều lớp người trong xã hội, nhất là những người lao động nghèo bằng ngôn ngữ giản dị, chất phác, giàu hình ảnh

Câu 3: 

Bài 1: Thực hành tiếng Viêt: Đặc điểm cơ bản của ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết 

Bài 2: Thực hành tiếng Việt: Một số hiện tượng phá vỡ những quy tắc ngôn ngữ thông thường: đặc điểm và tác dụng 

Bài 3: Thực hành tiếng Viêt: Đặc điểm cơ bản của ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết (tiếp theo) 

Bài 4: Thực hành tiếng Viêt: Lỗi về thành phần câu và cách sửa 

Câu 4: 

STTKiểu bài viếtĐề tài được gợi ýĐề tài đã viết
 1 Văn bản nghị luận về một tác phẩm truyệnMột vài nét về nghệ thuật tự sự của Nam Cao trong truyện ngắn Đời thừa 
 Văn bản nghị luận về một tác phẩm thơBài thơ “Tĩnh dạ tứ” Lý Bạch 
3Bài văn nghị luận về một vấn đề xã hội (Con người với cuộc sống xung quanh)Lắng nghe những tiếng thì thầm của cuộc sống 
4Bài văn nghị luận về một vấn đề xã hội (Hình thành lối sống tích cực trong xã hội hiện đại)Cư dân của hành tinh 
5Viết báo cáo nghiên cứu về một vấn đề tự nhiên, xã hộiGiao thoa và tiếp biến văn hóa – nhìn từ kiến trúc rồng thành bậc điện Kính Thiên 

Câu 5: 

Bài 1: Thuyết trình về nghệ thuật kể chuyện trong tác phẩm truyện 

- Nội dung: Thuyết trình về nghệ thuật kể chuyện trong tác phẩm truyện

- Yêu cầu: 

+ Giới thiệu những thông tin cơ bản về tác phẩm truyện được chọn để thuyết trình 

+ Nêu được các khía cạnh trong nghệ thuật kể chuyện của tác phẩm truyện 

+ Trình bày được những phát hiện cá nhân về giá trị của tác phẩm, thu hút sự quan tâm của người nghe về tác phẩm được chọn để thuyết trình 

+ Thể hiện được sự tôn trọng những cách cảm nhận, đánh giá đa dạng về một tác phẩm truyện 

- Thách thức và ý nghĩa của hoạt động: 

+ Thách thức: đánh giá được các phương diện làm nên tính nghệ thuật của tác phẩm  

+ Ý nghĩa: truyền tải nội dung nghệ thuật của tác phẩm mà mình được tìm hiểu. 

Bài 2: Giới thiệu một tác phẩm nghệ thuật 

- Nội dung: Giới thiệu một tác phẩm nghệ thuật 

- Yêu cầu: 

+ Cung cấp được thông tin chung về tác phẩm nghệ thuật một cách sáng rõ, chính xác (tên tác phẩm, tác giả, thể loại, thời điểm sáng tác, đánh giá của công chúng và các nhà chuyên môn,...) 

+ Nêu được lý do chọn giới thiệu tác phẩm 

+ Trình bày được cảm nhận, quan điểm cá nhân của người nói về giá trị tác phẩm với các lí lẽ và bằng chứng thuyết phục; chủ động đặt câu hỏi để người nghe cùng tương tác và đối thoại 

- Thách thức và ý nghĩa hoạt động: 

+ Thách thức: lựa chọn được tác phẩm nghệ thuật phù hợp và đưa ra đánh giá xác đáng, có căn cứ 

+ Ý nghĩa: nêu được quan điểm đánh giá khác về tác phẩm trên những luồng ý kiến khác nhau 

Bài 3: Trình bày ý kiến đánh giá, bình luận một vấn đề xã hội 

- Nội dung: Trình bày ý kiến đánh giá, bình luận một vấn đề xã hội

- Yêu cầu: 

+ Nêu được vấn đề xã hội cần đánh giá, bình luận 

+ làm rõ được bản chất và vai trò của vấn đề trong đời sống xã hội 

+ Trình bày được ý kiến đánh giá, bình luận của cá nhân về vấn đề; biết phân tích, đánh giá ý kiến của người khác 

+ Rút ra được ý nghĩa của việc đánh giá, bình luận về vấn đề 

+ Thể hiện sự tôn trọng ý kiến, quan điểm của người khác đối với vấn đề bàn luận 

- Thách thức và ý nghĩa hoạt động: 

+ Thách thức: lựa chọn vấn đề sao cho phù hợp 

+ Ý nghĩa: vấn đêf thu hút được sự quan tâm của xã hội 

Bài 4: Thảo luận về một vấn đề trong đời sống (Hình thành lối sống tích cực trong xã hội hiện đại) 

- Nội dung: Thảo luận về một vấn đề trong đời sống (Hình thành lối sống tích cực trong xã hội hiện đại) 

- Yêu cầu: 

+ Chọn được vấn đề thảo luận có ý nghĩa, gần gũi với trải nghiệm của tuổi trẻ học đường 

+ Nêu được các khía cạnh cụ thể của vấn đề và những cách tiếp cận khác nhau đối với vấn đề 

+ Thể hiện được quan điểm rõ ràng về vấn đề với lí lẽ thuyết phục và bằng chứng phù hợp, sinh động trong từng ý kiến phát biểu 

+ Thể hiện được thái độ tôn trọng lẫn nhau trong thảo luận 

- Thách thức và ý nghĩa hoạt động: 

+ Thách thức: có những ý kiến tranh luận trái chiều đôi khi không tìm được hướng giải quyết 

+ Ý nghĩa: bày tỏ được thái độ hưởng ứng tích cực đối với đề tài, vấn đề thảo luận. 

B. LUYỆN TẬP VÀ VẬN DỤNG

1. Đọc 

Câu 1: “Huyền diệu”- một nhan đề thật độc đáo và mới mẻ, gợi nên sự bí ẩn và kì diệu đồng thời nhan đề còn có vai trò rất quan trọng trong việc định hướng cho bạn đọc về việc thưởng thức tác phẩm.

Câu 2: Tác giả muốn nói đến sự hòa hợp giữa hương thơm, màu sắc và âm thanh.

Câu 3: Là sự cảm nhận của tác giả trong nhiều cung bậc cảm xúc.

Câu 4: Thơ, điểm nhìn nghệ thuật, ngôn ngữ. 

Câu 5: Ngay từ câu mở đầu, Xuân Diệu lựa chọn câu thơ bằng tiếng Pháp của Bô- đơ- le trong bài thơ Tương Giao để làm câu đề từ. Tác giả muốn nói đến sự tương giao và là sự tương ứng giữa các giác quan với nhau, từ đó gợi ra một vẻ đẹp mới, một hình ảnh lạ cho thơ. 

Câu 6: Bài thơ được tác giả cảm nhận rất rõ nét những sắc cảnh xung quanh mình. Từ “giọng suối” tới “lời chim” và “tiếng khóc người” hãy cứ để bản thân “uống thơ” và “tan trong khúc nhạc” sẽ thấy “ngọt ngào kêu gọi thuở xa khơi”. Và kể cả là khi khúc nhạc kia đã “ngừng im” thì hãy cứ cầm hơi mà lắng nghe trái tim, nó vẫn cứ “run hoài” như những “chiêc lá” cho dù “trận gió”, bão táp đã qua đi từ hồi nào. Thi nhân Hoài Thanh, ông đã từng nhận xét về Xuân Diệu thế này: “Xuân Diệu tha thiết, rạo rực bởi niềm say mê yêu đời, yêu cuộc sống, thèm sống đến mãnh liệt và thèm yêu đến điên cuồng với niềm khát khao được giao cảm với đời”. Quả thật không thể phủ nhận khi cho rằng Xuân Diệu là “nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới”, ông mang một hồn thơ tràn ngập tính nhân văn, giọng thơ linh hoạt, ngôn ngữ sáng tạo, độc đáo kết hợp với cách diễn đạt hấp dẫn, lôi cuốn được nhiều độc giả. Bài thơ chứa đựng cả bầu trời tâm tư cũng như cảm xúc của nhà thơ, qua đó đã thể hiện được nỗi niềm khát khao, mong ước hòa nhập với cuộc đời của tác giả Xuân Diệu. Tác phẩm là một thành công lớn đã góp phần không nhỏ trong việc đưa tên tuổi của nhà thơ vụt sáng trên bầu trời thi ca Việt Nam.

2. Viết 

Đề 3: 

Bài làm 

- Vô cảm là gì?

- Thực trạng hiện nay

- Đưa ra ví dụ

- Kết luận

3. NÓI VÀ NGHE 

Nội dung 1: 

- Giới thiệu tên tác phẩm, nội dung.

- Liên hệ với cuộc sống. 

- Nêu cảm nhận của bản thân. 

Tìm kiếm google: hướng dẫn soạn bài ôn tập học kì 1 ngắn nhất, soạn bài ôn tập học kì 1 ngữ văn 11 kết nối ngắn nhất, soạn văn 11 kết nối bài ôn tập học kì 1 cực ngắn

Xem thêm các môn học

Bài soạn văn 11 kết nối tri thức ngắn nhất


Đia chỉ: Tòa nhà TH Office, 90 Khuất Duy Tiến, Thanh Xuân, Hà Nội
Điện thoại hỗ trợ: Fidutech - click vào đây
Chúng tôi trên Yotube
Cùng hệ thống: baivan.net - Kenhgiaovien.com - tech12h.com