[toc:ul]
Bài tập 1: trang 69 sgk Ngữ văn 8 tập 2
Đoạn trích là phần mờ đầu bài Bình Ngô đại cáo. Đoạn này có ý nghĩa nêu tiến đề cho toàn bài, tất cả nội dung được phát triển về sau được xoay quanh tiển đề đó. Theo em, khi nêu tiền đề, tác giả đã khẳng định những chân lí nào?
Bài tập 2: trang 69 sgk ngữ văn 8 tập 2
Qua hai câu “Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân/ Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”, có thể hiểu cốt lõi tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi là gì ? Người dân mà tác giả nói tới là ai ? Kẻ bạo ngược mà tác giả nói tới là kẻ nào ?
Bài tập 3: trang 69 sgk Ngữ văn 8 tập 2
Để khẳng định chủ quyền độc lập dân tộc, tác giả đã dựa vào những yếu tố nào?
Nhiều ý kiến cho rằng ý thức dân tộc ở đoạn trích Nước Đại Việt ta là sự tiếp nối và phát triển ý thức dân tộc ở bài thơ Sông núi nước Nam (đã học ở lớp 7), vì sao ? Để trả lời câu hỏi này, hãy tim hiểu xem những yếu tố nào đã được nói tới trong Sông núi nước Nam và những yếu tố nào mới được bổ sung trong Nước Đại Việt ta.
Bài tập 4: trang 69 sgk Ngữ văn 8 tập 2
Hãy chỉ ra những nét đặc sắc nghệ thuật của đoạn trích và phân tích tác dụng của chúng. (Gợi ý : cách dùng từ, cách sử dụng câu văn biẽn ngẫu, biện pháp liệt kê, so sánh đối lập... có hiệu quả.)
Câu 5*: trang 69 sgk Ngữ văn 8 tập 2
Sức thuyết phục của văn chính luận Nguyễn Trãi là ở chỗ kết hợp giữa lí lẽ và thực tiễn. Qua đoạn trích trên, hãy chứng minh
Câu 6*: trang 69 sgk Ngữ văn 8 tập 2
Thử khái quát trình tự lập luận của đoạn trích Nước Đại Việt ta bằng một sơ đồ.
LUYỆN TẬP
Bài tập: trang 70 sgk Ngữ Văn 8 tập hai
Trên cơ sở so sánh với bài thơ Sông núi nước Nam, hãy chỉ ra sự tiếp nối và phát triển của ý thức dân tộc trong đoạn trích Nước Đại Việt ta.
Phần tham khảo mở rộng
Bài tập 1: Chứng minh Nước Đại Việt ta là bản tuyên ngôn độc lập bất hủ (trích Bình Ngô đại cáo)
Bài tập 2: Viết đoạn văn chứng minh tác phẩm Nước Đại Việt ta là một áng văn tràn đầy lòng tự hào dân tộc
Bài tập 1: Chân lí được khẳng định trong bài là:
Bài tập 2: Cốt lõi tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi là yêu nước, thương dân, đem lại cuộc sống bình yên cho nhân dân.
Bài tập 3:
o Hai bài thơ đều khẳng định chủ quyền lãnh thổ riêng của dân tộc, ngang hàng với các nước lớn, với các vua Trung Quốc lúc bấy giờ.
o “Nước Đại Việt ta” còn phát triển ý thức dân tộc hơn so với “Sông núi nước Nam” ở các yêu tố văn hiến, phong tục, lịch sử các triều đại.
Bài tập 4:
Câu 5*: Chứng minh
Bài tham khảo
Sức thuyết phục của văn chính luận Nguyễn Trãi là ở chỗ kết hợp giữa lí lẽ và thực tiễn. Thật vậy, sức thuyết phục của Nguyễn Trãi thể hiện ở tư tưởng nhân nghĩa của mình phải trừng phạt kẻ xâm lược, hung tàn đổ mang lại độc lập cho đất nước, thái bình cho muôn dân. Những chân lí và những khẳng định về chủ quyền về tự do được Nguyễn Trã khẳng định đanh thép, hùng hồn trong từng câu chữ. Nước Đại Việt ta là một đất nước có chủ quyền lãnh thổ, có nền văn hiến lâu đời, có phong tục tập quán, lịch sử riêng, chế độ nhà nước riêng, bình đẳng ngang hàng với các triều đại Trung Quốc. Chính vì thế kẻ thù có ý định xâm lược nước ta tất yếu sẽ thất bại. Chính thực tiễn được Nguyễn Trãi đưa ra tuwg những thất bại của Lưu Cung, Triệu Tiết hay Hàm Tử, Ô Mã đã chứng minh tất cả lí lẽ mà Nguyễn Trãi đưa ra là đúng.
Câu 6*: Sơ đồ.
LUYỆN TẬP
Bài tập: Chỉ ra sự tiếp nối và phát triển của ý thức dân tộc trong đoạn trích Nước Đại Việt ta.
Bài tham khảo
Nguyễn Trãi hiệu là Ức Trai, là một nhân vật lịch sử lỗi lạc, toàn tài hiếm có. Bởi ông không chỉ là một vị tham mưu tài giỏi của Lê Lợi mà ông còn là một nhà thơ có nhiều đóng góp cho nền văn học trung đại Việt Nam. Bình Ngô đại cáo do ông thừa lệnh Lê Lợi soạn thảo là bài bài cáo có ý nghĩa trọng đại của một bản tuyên ngôn độc lập, được công bố sau khi quân ta đại thắng. Bài cáo là ý thức dân tộc được tiếp nối từ thời Sông núi nước Nam của Lý Thường Kiệt. Điều ấy được thể hiện rõ qua đoạn trích Nước Đại Việt ta.
Quả thực đúng như vậy. Bình ngô đại cáo của Nguyễn Trãi được xem là bản tuyên ngôn độc lập thứ hai của dân tộc ta và là sự tiếp nối và phát triển ý thức dân tộc từ Sông núi nước Nam của Lý Thường Kiệt bằng nhiều yếu tố mới, phong phú, toàn diện và sâu sắc hơn. Đồng thời được thể hiện bằng những minh chứng hùng hồn, sự thực hiển nhiên trong thực tế đời sống.
Sự tiếp nối ý thức dân tộc của Nước Đại Việt ta của Nguyễn Trãi so với Sông núi nước Nam của Lý Thường Kiệt là sự tiếp nối về ý thức dân tộc về chủ quyền lãnh thổ. Trong bài Sông núi nước Nam, Lý Thường Kiệt đã đưa ra một chân lí mà không ai có thể chối cãi được:
“Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư”
Dịch thơ:
“Sông núi nước Nam vua Nam ở
Vằng vặc sách trời chia xứ sở”
Cơ sở lí lẽ mà Lý Thường Kiệt đưa ra là đất nào thì vua ấy, sự thực đã được phân định một cách rõ ràng, rạch ròi trong “thiên thư”. Sở dĩ ông sử dụng “thiên thư” - một sự vật liên quan tới nhân vật siêu nhiên là ông trời, để làm cơ sở lí lẽ cho lập luận của mình vì người xưa, họ tin vào thiên mệnh tức là mệnh trời. Đối với người trung đại, đó là một niềm tin bất diệt. Họ tin tưởng rằng, con người sinh ra, lớn lên rồi chết đi như thế nào không phải do mình định đoạt, mà tất cả là do sự sắp đặt của ông trời. Mà đã là sự sắp đặt của ông trời thì không một ai có thể can thiệp thay đổi nó. Còn nếu làm trái số mệnh thì chắc chắn kết cục sẽ không tốt đẹp. Mượn “sách trời” để nêu lên ranh giới lãnh thổ của đất nước mình là một cách để thể hiện sự tự hào dân tộc và khẳng định độc lập chủ quyền về mặt lãnh thổ của ta. Cơ sở mà Lý Thường Kiệt đưa ra là cơ sở lí lẽ vững chắc, đầy thuyết phục.
Bài Nước Đại Việt ta của Nguyễn Trãi, ông cũng khẳng định chủ quyền lãnh thổ của nước ta, mà chủ quyền ấy của Đại Việt đã có từ lâu đời:
“Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác”
Trong suy nghĩ của con người ấy đã tồn tại sự độc lập dân tộc. Bởi từng câu từng chữ trong bài cáo đều cho thấy điều ấy. Hai câu thơ trên đã cho thấy sự rạch ròi trong ranh giới của núi sông giữa hai nước láng giềng. Đó cũng chính là lời nhắc nhở Trung Quốc về sự tồn tại và phát triển của nước ta. Bách Việt trước đây đã có, đã từng bị xâm chiếm, nhưng chỉ duy nhất Đại Việt vẫn còn độc lập, ranh giới lãnh thổ cũng đã được định hình từ đó. Phía Bắc là Trung Quốc, phía Nam là Đại Việt, không thể lẫn lộn hai miền Nam Bắc, cũng không thể khẳng định Đại Việt ở phía Nam chính là lãnh thổ phía Nam của Trung Quốc được. Quốc gia của ta, đất nước của ta, lãnh thổ của ta vì thế mà được xác định rõ ràng trong tâm thức và suy nghĩ của người Việt để rồi ý thức ấy biến thành sức mạnh của hành động.
Ý thức dân tộc trong Nước Đại Việt ta của Nguyễn Trãi không chỉ dừng lại ở việc khẳng định chủ quyền lãnh thổ mà Nguyễn Trãi còn đưa ra hàng loạt những yếu tố khác:
“Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu,
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc, Nam cũng khác
Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời gây nền độc lập,
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương”
Cái cốt lõi trong tư tưởng “nhân nghĩa” của Nguyễn Trãi là lấy lợi ích của nhân dân, dân tộc làm gốc và mọi việc làm, mọi cuộc chiến đấu cũng chỉ vì mục đích cuối cùng là đem lại cuộc sống bình yên cho nhân dân. Và đó chính là nền tảng cho những khẳng định của ông sau này. Nước Đại Việt ta vốn đã có nền “văn hiến”. Văn hiến là truyền thống văn hóa lâu đời và tốt đẹp. Cho nên, không phải đất nước nào cũng có thể có được nền văn hiến ấy mà cần phải có thời gian tích lũy, xây dựng và phát triển. Đâu chỉ thế, Nguyễn Trãi cũng đã khẳng định phong tục, tập quán sinh sống của người phương Bắc và người phương Nam cũng không thể giống nhau do sự khác biệt về thiên nhiên và điều kiện sinh sống của con người. Nhưng dù thế nào thì điều ấy cũng có nghĩa, người Việt không chỉ có một nền văn hiến lâu đời mà ngay cả phong tục, tập quán cũng mang những nét đặc trưng riêng. Đặc biệt, Nguyễn Trãi còn tự hào khi soi chiếu các triều đại của ta và Trung Quốc như một minh chứng cho dòng chảy trôi lịch sử của nước ta chưa từng bị gián đoạn. Nếu Trung Quốc có Hán, Đường, Tống, Nguyên thì Đại Việt có Triệu, Đinh, Lí Trần. Những triều đại ấy được đặt trong thế so sánh, ngang hàng với nước lớn như Trung Quốc như một cách thể hiện lòng tự hào, tự tôn dân tộc.
Với lối văn biền ngẫu sóng đôi cùng các hình ảnh mang tính gợi hình và hệ thống từ ngữ chỉ thời gian kéo dài từ quá khứ đến hiện tại (đã lâu, từ trước, đã chia, bao đời, mỗi bên) đã khiến cho bài cáo có những lập luận chặt chẽ, giọng điệu hùng hồn và giàu sức thuyết phục đối với người đọc.
Có thể nói, sự tiếp nối về ý thức dân tộc từ Sông núi nước Nam tới Nước Đại Việt ta (Trích Bình Ngô đại cáo) là minh chứng cho sự tồn tại và phát triển ý thức độc lập, chủ quyền của nhân dân ta. Đó cũng là lý do vì sao, dù có bị xâm lược, bị đô hộ gần 1000 năm Bắc thuộc, nhân dân ta vẫn giữ được tiếng nói, vẫn giữ được phong tục tập quán và lãnh thổ của mình.
Gợi ý:
Sự tiếp nối và phát triển của ý thức dân tộc trong đoạn trích Nước Đại Việt ta so với bài Sông núi nước Nam:
=> Các yếu tố mà nước ta độc lập so với Trung Quốc: nền văn hiến lâu đời, phong tục, văn hóa, lịch sử các triều đại tồn tại ngang hàng với Trung Quốc.
=> Đặt các triều đại của Việt Nam ngang hàng với các triều đại của một nước lớn như Trung Quốc cũng thể hiện sự tự hào, tự tôn dân tộc.
Phần tham khảo mở rộng
Bài tập 1: Chứng minh Nước Đại Việt ta là bản tuyên ngôn độc lập bất hủ (trích Bình Ngô đại cáo)
Bài tham khảo
Trong kho tàng văn học dân tộc, có những áng văn bất hủ là tài sản vô giá để lại cho hậu thế. Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi là một bản hùng ca của dân tộc Đại Việt. Nội dung tuyên ngôn được thể hiện tập trung trong đoạn trích Nước Đại Việt ta. Đó không chỉ kiệt tác văn chương mà còn là ý chí độc lập tự chủ của một dân tộc biết tự khẳng định mình, tự hào về truyền thống và sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì sự tồn vong của quốc gia, dân tộc.
Bình Ngô đại cáo được viết trong hoàn cảnh Nguyễn Trãi thừa lệnh Lê Thái Tổ soạn thảo năm 1428, sau khi quân ta đại thắng, diệt và làm tan rã viện binh của giặc, buộc quân giặc phải giảng hòa và rút về nước. Bài cáo được viết trong không khí hân hoan chiến thắng của toàn dân tộc. Nguyễn Trãi đã thể hiện tài năng xuất chúng với nghệ thuật lập luận chặt chẽ, lí luận sắc bén và kết cấu chặt chẽ, mạch lạc được thể hiện trong văn bản.
Nước Đại Việt ta thể hiện tư tưởng nhân nghĩa mới mẻ của Nguyễn Trãi. Trong tư tưởng Nho giáo xưa, nhân nghĩa vốn là khái niệm để nói về đạo lí, cách ứng xử và tình thương giữa con người với nhau. Ở đây tác giả đã khái quát thành một tư tưởng lớn, thể hiện truyền thống cao đẹp của dân tộc ta: Việc nhân nghĩa trước ở yên dân
Đó là tư tưởng lấy dân làm gốc, lấy lợi ích của nhân dân và toàn dân tộc làm đầu và đem lại cuộc sống hạnh phúc cho nhân dân. Dân có yên ổn thì đất nước mới thái bình, thịnh trị. Và muốn yên dân thì phải lo “trừ bạo”, đánh tan giặc xâm lược. Điều này cho thấy tư tướng của một nhà Nho yêu nước, thương dân.
Ở luận điểm thứ hai, Nguyễn Trãi đã thể hiện quan niệm về quốc gia, chủ quyền lãnh thổ hết sức sâu sắc:
Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác
Chỉ với tám câu thơ ngắn gọn, súc tích nhưng ý thơ đã thâu tóm được những tư tưởng lớn lao về việc khẳng định chủ quyền dân tộc. Ta từng biết đến bản tuyên ngôn độc lập với những lí lẽ đanh thép trong Nam quốc sơn hà của Lí Thường Kiệt. Ông qua niệm về quốc gia, dân tộc với hai quyền cơ bản là chủ quyền lãnh thổ và độc lập dân tộc. Đất nước ta do vua trị vì và ranh giới phân chia đã rõ ràng, hợp với ý trời đã định:
Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tuyệt nhiên định phận tại thiên thư
Nhưng với Nguyễn Trãi, quan niệm về chủ quyền được mở rộng trên cả phương diện lịch sử văn hiến, phạm vi lãnh thổ và phong tục tập quán. Để xây dựng nền văn hiến và hình thành các phong tục tập quán lâu đời, dẫn tộc ta đã trải qua hàng năm dựng xây và văn đắp với những trang sử hào hùng về truyền thống đấu tranh và tinh thần cần cù trong lao động. Đó là quá trình kiến tạo dài lâu, sàng lọc để lấy lại những gì tinh túy, đẹp đẽ nhất của dân tộc, bởi vậy khi khẳng định có một nền “văn hiến đã lâu” “phong tục Bắc Nam cũng khác” chính là lời khẳng định mạnh mẽ và đanh thép nhất chủ quyền vốn có của dân tộc ta. Dân tộc ấy được hình thành không chỉ có bờ cõi, non sông được bảo vệ mà tâm hồn và bản sắc dân tộc ấy cũng cần được gìn giữ và phát huy qua nhiều thế hệ. Chúng ta không khỏi đau xót khi nhìn lại cả nghìn năm Bắc thuộc, dân ta phải sống trong cảnh lầm than nô lệ nhưng điều khiến chúng ta tự hào đó là bản sắc dân tộc không hề bị phai nhạt, đồng hóa mà vẫn như ngọn đèn soi sáng cả dân tộc đi qua đêm tối, khơi dậy được tinh thần chiến đấu quật cường để giành lại độc lập cho dân tộc.
Không chỉ vậy, Nguyễn Trãi còn khẳng định chủ quyền trên phương diện lịch sử với các triều đại phong kiến hai nước cùng song song tồn tại qua bao thế kỉ.
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nên độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau
Song hào kiệt đời nào cũng có
Việc liệt kê các triều đại của nước ta ngang hàng cùng quân giặc, tác giả nhằm khẳng định vị thế của dân tộc ta là một dân tộc có chủ quyền. Dù dân tộc ấy có những giai đoạn thăng trầm nhưng hào kiệt, anh hùng thời nào cũng có, cũng viết nên những trang sử vẻ vang. Như vậy, Nguyễn Trãi đã thể hiện một cách sâu sắc về ý thức chủ quyền dân tộc, đó không chỉ làm phạm vi lãnh thổ được bảo toàn mà truyền thống văn hóa, lịch sử quốc gia, phong tục tập quán cũng cần được giữ gìn trọn vẹn. Đó chính là sức mạnh tinh thần to lớn, tạo nên động lực giúp cả dân tộc chiến đấu kiên cường với bao kẻ thù, làm nên những chiế công vang dội non sông:
Lưu Cung tham công nên thất bại
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã.
Với các sự kiện và chiến công tiêu biểu, Nguyễn Trãi đã cho thấy sức mạnh của dân tộc Đại Việt trước bao kẻ thù lớn. Để làm nên những chiến công lừng lẫy đó, bao máu xương của cha anh đã rơi xuống vì nền độc lập dân tộc. Đó là niềm tự hào nhưng cũng là lời nhắc nhở với hậu thế.
Với những lập luận chặt chẽ, giàu sức thuyết phục cùng những tư tưởng nhân văn sâu sắc, tiến bộ, đoạn trích Nước Đại Việt ta đã thể hiện được lòng tự hào, tự tôn dân tộc. Bài cáo xứng đáng là áng thiên cổ hùng văn của muôn đời.
Bài tập 2: Viết đoạn văn chứng minh tác phẩm Nước Đại Việt ta là một áng văn tràn đầy lòng tự hào dân tộc
Bài tham khảo
Nước Đại Việt ta là áng văn không chỉ thuyết phục người đọc bởi lập luận chặt chẽ, lí lẽ thuyết phuc, đó còn là áng văn tràn đầy lòng tự hào dân tộc. Đó là lòng tự hào về đất nước luôn coi lợi ích và hạnh phúc của nhân dân là gốc. Nguyễn Trãi còn thể hiện quan niệm mới mẻ về chủ quyền dân tộc,đó không chỉ là chủ quyền lãnh thổ mà còn được khẳng định bởi nền văn hiến lâu đời và những phong tục tập quán văn hóa đặc trưng của dân tộc. Đấy là hồn thiêng sông núi, là cốt cách con người Việt được dựng xây và hun đúc qua ngàn đời mà không dân tộc nào có được. Nền văn hiến ấy cũng chính là sức mạnh tinh thần đã gắn kết cả dân tộc thành một khối thống nhất vững chắc để đương đầu với bao kẻ thù xâm lược. Lòng tự hào ấy còn được thể hiện qua những chiến công lừng lẫy, vang dội non sông. Những chiến thắng ấy thể hiện tài trí mưu lược của các bậc anh hùng hào kiệt và tinh thần đoàn kết của nhân dân ta trước vận mệnh dân tộc.
Bài tập 1: Chân lí được khẳng định:
- Nước ta có nền độc lập và chủ quyền riêng, là nước riêng, có nền văn hiến lâu đời, có lãnh thổ riêng, có phong tục riêng, có lịch sử độc lập với nhiều triều đại, có chế độ, chủ quyền ngang hàng với các triều đại Trung Quốc. Kẻ thù sang xâm lược ắt chuốc lấy thất bại
- Luôn nêu cao tinh thần yêu nước bảo vệ chủ quyền, tiêu diệt những thế lực có ý định xâm lược.
Bài tập 2:
- Cốt lõi tư tưởng nhân nghĩa: yêu nước, thương dân, đem lại cuộc sống bình yên cho nhân dân.
- Người dân mà tác giả nói đến: những người dân đen, người dân lao động chân lấm tay bùn, những người thấp cổ bé họng.
- Kẻ bạo ngược mà tác giả nhắc tới: những kẻ áp bức bóc lột nhân dân, là kẻ thù xâm lược.
Bài tập 3:
Dựa vào các yếu tố:
- Nền văn hiến lâu đời
- Lãnh thổ riêng
- Phong tục tập quán
- Lịch sử riêng.
- Chế độ nhà nước riêng.
- Bình đẳng ngang hàng với các triều đại Trung Quốc.
Điều này là hoàn toàn đúng đắn vì:
- 2 bài đều khẳng định chủ quyền lãnh thổ riêng của dân tộc, ngang hàng với các nước lớn, với các vua Trung Quốc lúc bấy giờ.
- “Nước Đại Việt ta” => phát triển ý thức dân tộc hơn so với “Sông núi nước Nam” ở các yêu tố văn hiến, phong tục, lịch sử các triều đại.
Bài tập 4:
- Cách dùng từ => khẳng định một cách sự hiển nhiên, vốn có, lâu đời của một nước Đại Việt độc lập, tự chủ đồng thời kể ra những kẻ xâm lược phương Bắc đã chịu thất bại mà sử sách còn ghi rõ tạo được mối liên quan, gắn kết thể hiện được sự khẳng định một cách vững chắc chủ quyền dân tộc.
- Sử dụng các câu văn biền ngẫu sóng đôi, cân xứng cùng với biện pháp so sánh => nâng vị thế của các triều đại nước ta ngang hàng với các triều đại Trung Hoa.
- Lời văn ngắn gọn, ý tứ phong phú, lập luận chặt chẽ, lí lẽ sắc bén => tăng thêm tính chân thực và thuyết phục
Câu 5*: Chứng minh
Bài tham khảo
Sức thuyết phục của văn chính luận Nguyễn Trãi là ở chỗ kết hợp giữa lí lẽ và thực tiễn. Thật vậy, sức thuyết phục của Nguyễn Trãi thể hiện ở tư tưởng nhân nghĩa của mình phải trừng phạt kẻ xâm lược, hung tàn đổ mang lại độc lập cho đất nước, thái bình cho muôn dân. Những chân lí và những khẳng định về chủ quyền về tự do được Nguyễn Trã khẳng định đanh thép, hùng hồn trong từng câu chữ. Nước Đại Việt ta là một đất nước có chủ quyền lãnh thổ, có nền văn hiến lâu đời, có phong tục tập quán, lịch sử riêng, chế độ nhà nước riêng, bình đẳng ngang hàng với các triều đại Trung Quốc. Chính vì thế kẻ thù có ý định xâm lược nước ta tất yếu sẽ thất bại. Chính thực tiễn được Nguyễn Trãi đưa ra tuwg những thất bại của Lưu Cung, Triệu Tiết hay Hàm Tử, Ô Mã đã chứng minh tất cả lí lẽ mà Nguyễn Trãi đưa ra là đúng.
Câu 6*: Sơ đồ.
LUYỆN TẬP
Bài tập: Chỉ ra sự tiếp nối và phát triển của ý thức dân tộc trong đoạn trích Nước Đại Việt ta.
Bài tham khảo
Nguyễn Trãi hiệu là Ức Trai, là một nhân vật lịch sử lỗi lạc, toàn tài hiếm có. Bởi ông không chỉ là một vị tham mưu tài giỏi của Lê Lợi mà ông còn là một nhà thơ có nhiều đóng góp cho nền văn học trung đại Việt Nam. Bình Ngô đại cáo do ông thừa lệnh Lê Lợi soạn thảo là bài bài cáo có ý nghĩa trọng đại của một bản tuyên ngôn độc lập, được công bố sau khi quân ta đại thắng. Bài cáo là ý thức dân tộc được tiếp nối từ thời Sông núi nước Nam của Lý Thường Kiệt. Điều ấy được thể hiện rõ qua đoạn trích Nước Đại Việt ta.
Quả thực đúng như vậy. Bình ngô đại cáo của Nguyễn Trãi được xem là bản tuyên ngôn độc lập thứ hai của dân tộc ta và là sự tiếp nối và phát triển ý thức dân tộc từ Sông núi nước Nam của Lý Thường Kiệt bằng nhiều yếu tố mới, phong phú, toàn diện và sâu sắc hơn. Đồng thời được thể hiện bằng những minh chứng hùng hồn, sự thực hiển nhiên trong thực tế đời sống.
Sự tiếp nối ý thức dân tộc của Nước Đại Việt ta của Nguyễn Trãi so với Sông núi nước Nam của Lý Thường Kiệt là sự tiếp nối về ý thức dân tộc về chủ quyền lãnh thổ. Trong bài Sông núi nước Nam, Lý Thường Kiệt đã đưa ra một chân lí mà không ai có thể chối cãi được:
“Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư”
Dịch thơ:
“Sông núi nước Nam vua Nam ở
Vằng vặc sách trời chia xứ sở”
Cơ sở lí lẽ mà Lý Thường Kiệt đưa ra là đất nào thì vua ấy, sự thực đã được phân định một cách rõ ràng, rạch ròi trong “thiên thư”. Sở dĩ ông sử dụng “thiên thư” - một sự vật liên quan tới nhân vật siêu nhiên là ông trời, để làm cơ sở lí lẽ cho lập luận của mình vì người xưa, họ tin vào thiên mệnh tức là mệnh trời. Đối với người trung đại, đó là một niềm tin bất diệt. Họ tin tưởng rằng, con người sinh ra, lớn lên rồi chết đi như thế nào không phải do mình định đoạt, mà tất cả là do sự sắp đặt của ông trời. Mà đã là sự sắp đặt của ông trời thì không một ai có thể can thiệp thay đổi nó. Còn nếu làm trái số mệnh thì chắc chắn kết cục sẽ không tốt đẹp. Mượn “sách trời” để nêu lên ranh giới lãnh thổ của đất nước mình là một cách để thể hiện sự tự hào dân tộc và khẳng định độc lập chủ quyền về mặt lãnh thổ của ta. Cơ sở mà Lý Thường Kiệt đưa ra là cơ sở lí lẽ vững chắc, đầy thuyết phục.
Bài Nước Đại Việt ta của Nguyễn Trãi, ông cũng khẳng định chủ quyền lãnh thổ của nước ta, mà chủ quyền ấy của Đại Việt đã có từ lâu đời:
“Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác”
Trong suy nghĩ của con người ấy đã tồn tại sự độc lập dân tộc. Bởi từng câu từng chữ trong bài cáo đều cho thấy điều ấy. Hai câu thơ trên đã cho thấy sự rạch ròi trong ranh giới của núi sông giữa hai nước láng giềng. Đó cũng chính là lời nhắc nhở Trung Quốc về sự tồn tại và phát triển của nước ta. Bách Việt trước đây đã có, đã từng bị xâm chiếm, nhưng chỉ duy nhất Đại Việt vẫn còn độc lập, ranh giới lãnh thổ cũng đã được định hình từ đó. Phía Bắc là Trung Quốc, phía Nam là Đại Việt, không thể lẫn lộn hai miền Nam Bắc, cũng không thể khẳng định Đại Việt ở phía Nam chính là lãnh thổ phía Nam của Trung Quốc được. Quốc gia của ta, đất nước của ta, lãnh thổ của ta vì thế mà được xác định rõ ràng trong tâm thức và suy nghĩ của người Việt để rồi ý thức ấy biến thành sức mạnh của hành động.
Ý thức dân tộc trong Nước Đại Việt ta của Nguyễn Trãi không chỉ dừng lại ở việc khẳng định chủ quyền lãnh thổ mà Nguyễn Trãi còn đưa ra hàng loạt những yếu tố khác:
“Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu,
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc, Nam cũng khác
Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời gây nền độc lập,
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương”
Cái cốt lõi trong tư tưởng “nhân nghĩa” của Nguyễn Trãi là lấy lợi ích của nhân dân, dân tộc làm gốc và mọi việc làm, mọi cuộc chiến đấu cũng chỉ vì mục đích cuối cùng là đem lại cuộc sống bình yên cho nhân dân. Và đó chính là nền tảng cho những khẳng định của ông sau này. Nước Đại Việt ta vốn đã có nền “văn hiến”. Văn hiến là truyền thống văn hóa lâu đời và tốt đẹp. Cho nên, không phải đất nước nào cũng có thể có được nền văn hiến ấy mà cần phải có thời gian tích lũy, xây dựng và phát triển. Đâu chỉ thế, Nguyễn Trãi cũng đã khẳng định phong tục, tập quán sinh sống của người phương Bắc và người phương Nam cũng không thể giống nhau do sự khác biệt về thiên nhiên và điều kiện sinh sống của con người. Nhưng dù thế nào thì điều ấy cũng có nghĩa, người Việt không chỉ có một nền văn hiến lâu đời mà ngay cả phong tục, tập quán cũng mang những nét đặc trưng riêng. Đặc biệt, Nguyễn Trãi còn tự hào khi soi chiếu các triều đại của ta và Trung Quốc như một minh chứng cho dòng chảy trôi lịch sử của nước ta chưa từng bị gián đoạn. Nếu Trung Quốc có Hán, Đường, Tống, Nguyên thì Đại Việt có Triệu, Đinh, Lí Trần. Những triều đại ấy được đặt trong thế so sánh, ngang hàng với nước lớn như Trung Quốc như một cách thể hiện lòng tự hào, tự tôn dân tộc.
Với lối văn biền ngẫu sóng đôi cùng các hình ảnh mang tính gợi hình và hệ thống từ ngữ chỉ thời gian kéo dài từ quá khứ đến hiện tại (đã lâu, từ trước, đã chia, bao đời, mỗi bên) đã khiến cho bài cáo có những lập luận chặt chẽ, giọng điệu hùng hồn và giàu sức thuyết phục đối với người đọc.
Có thể nói, sự tiếp nối về ý thức dân tộc từ Sông núi nước Nam tới Nước Đại Việt ta (Trích Bình Ngô đại cáo) là minh chứng cho sự tồn tại và phát triển ý thức độc lập, chủ quyền của nhân dân ta. Đó cũng là lý do vì sao, dù có bị xâm lược, bị đô hộ gần 1000 năm Bắc thuộc, nhân dân ta vẫn giữ được tiếng nói, vẫn giữ được phong tục tập quán và lãnh thổ của mình.
Sự tiếp nối và phát triển của ý thức dân tộc trong đoạn trích Nước Đại Việt ta so với bài Sông núi nước Nam:
Phần tham khảo mở rộng
Bài tập 1: Chứng minh Nước Đại Việt ta là bản tuyên ngôn độc lập bất hủ (trích Bình Ngô đại cáo)
Bài tham khảo
Trong kho tàng văn học dân tộc, có những áng văn bất hủ là tài sản vô giá để lại cho hậu thế. Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi là một bản hùng ca của dân tộc Đại Việt. Nội dung tuyên ngôn được thể hiện tập trung trong đoạn trích Nước Đại Việt ta. Đó không chỉ kiệt tác văn chương mà còn là ý chí độc lập tự chủ của một dân tộc biết tự khẳng định mình, tự hào về truyền thống và sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì sự tồn vong của quốc gia, dân tộc.
Bình Ngô đại cáo được viết trong hoàn cảnh Nguyễn Trãi thừa lệnh Lê Thái Tổ soạn thảo năm 1428, sau khi quân ta đại thắng, diệt và làm tan rã viện binh của giặc, buộc quân giặc phải giảng hòa và rút về nước. Bài cáo được viết trong không khí hân hoan chiến thắng của toàn dân tộc. Nguyễn Trãi đã thể hiện tài năng xuất chúng với nghệ thuật lập luận chặt chẽ, lí luận sắc bén và kết cấu chặt chẽ, mạch lạc được thể hiện trong văn bản.
Nước Đại Việt ta thể hiện tư tưởng nhân nghĩa mới mẻ của Nguyễn Trãi. Trong tư tưởng Nho giáo xưa, nhân nghĩa vốn là khái niệm để nói về đạo lí, cách ứng xử và tình thương giữa con người với nhau. Ở đây tác giả đã khái quát thành một tư tưởng lớn, thể hiện truyền thống cao đẹp của dân tộc ta: Việc nhân nghĩa trước ở yên dân
Đó là tư tưởng lấy dân làm gốc, lấy lợi ích của nhân dân và toàn dân tộc làm đầu và đem lại cuộc sống hạnh phúc cho nhân dân. Dân có yên ổn thì đất nước mới thái bình, thịnh trị. Và muốn yên dân thì phải lo “trừ bạo”, đánh tan giặc xâm lược. Điều này cho thấy tư tướng của một nhà Nho yêu nước, thương dân.
Ở luận điểm thứ hai, Nguyễn Trãi đã thể hiện quan niệm về quốc gia, chủ quyền lãnh thổ hết sức sâu sắc:
Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác
Chỉ với tám câu thơ ngắn gọn, súc tích nhưng ý thơ đã thâu tóm được những tư tưởng lớn lao về việc khẳng định chủ quyền dân tộc. Ta từng biết đến bản tuyên ngôn độc lập với những lí lẽ đanh thép trong Nam quốc sơn hà của Lí Thường Kiệt. Ông qua niệm về quốc gia, dân tộc với hai quyền cơ bản là chủ quyền lãnh thổ và độc lập dân tộc. Đất nước ta do vua trị vì và ranh giới phân chia đã rõ ràng, hợp với ý trời đã định:
Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tuyệt nhiên định phận tại thiên thư
Nhưng với Nguyễn Trãi, quan niệm về chủ quyền được mở rộng trên cả phương diện lịch sử văn hiến, phạm vi lãnh thổ và phong tục tập quán. Để xây dựng nền văn hiến và hình thành các phong tục tập quán lâu đời, dẫn tộc ta đã trải qua hàng năm dựng xây và văn đắp với những trang sử hào hùng về truyền thống đấu tranh và tinh thần cần cù trong lao động. Đó là quá trình kiến tạo dài lâu, sàng lọc để lấy lại những gì tinh túy, đẹp đẽ nhất của dân tộc, bởi vậy khi khẳng định có một nền “văn hiến đã lâu” “phong tục Bắc Nam cũng khác” chính là lời khẳng định mạnh mẽ và đanh thép nhất chủ quyền vốn có của dân tộc ta. Dân tộc ấy được hình thành không chỉ có bờ cõi, non sông được bảo vệ mà tâm hồn và bản sắc dân tộc ấy cũng cần được gìn giữ và phát huy qua nhiều thế hệ. Chúng ta không khỏi đau xót khi nhìn lại cả nghìn năm Bắc thuộc, dân ta phải sống trong cảnh lầm than nô lệ nhưng điều khiến chúng ta tự hào đó là bản sắc dân tộc không hề bị phai nhạt, đồng hóa mà vẫn như ngọn đèn soi sáng cả dân tộc đi qua đêm tối, khơi dậy được tinh thần chiến đấu quật cường để giành lại độc lập cho dân tộc.
Không chỉ vậy, Nguyễn Trãi còn khẳng định chủ quyền trên phương diện lịch sử với các triều đại phong kiến hai nước cùng song song tồn tại qua bao thế kỉ.
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nên độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau
Song hào kiệt đời nào cũng có
Việc liệt kê các triều đại của nước ta ngang hàng cùng quân giặc, tác giả nhằm khẳng định vị thế của dân tộc ta là một dân tộc có chủ quyền. Dù dân tộc ấy có những giai đoạn thăng trầm nhưng hào kiệt, anh hùng thời nào cũng có, cũng viết nên những trang sử vẻ vang. Như vậy, Nguyễn Trãi đã thể hiện một cách sâu sắc về ý thức chủ quyền dân tộc, đó không chỉ làm phạm vi lãnh thổ được bảo toàn mà truyền thống văn hóa, lịch sử quốc gia, phong tục tập quán cũng cần được giữ gìn trọn vẹn. Đó chính là sức mạnh tinh thần to lớn, tạo nên động lực giúp cả dân tộc chiến đấu kiên cường với bao kẻ thù, làm nên những chiế công vang dội non sông:
Lưu Cung tham công nên thất bại
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã.
Với các sự kiện và chiến công tiêu biểu, Nguyễn Trãi đã cho thấy sức mạnh của dân tộc Đại Việt trước bao kẻ thù lớn. Để làm nên những chiến công lừng lẫy đó, bao máu xương của cha anh đã rơi xuống vì nền độc lập dân tộc. Đó là niềm tự hào nhưng cũng là lời nhắc nhở với hậu thế.
Với những lập luận chặt chẽ, giàu sức thuyết phục cùng những tư tưởng nhân văn sâu sắc, tiến bộ, đoạn trích Nước Đại Việt ta đã thể hiện được lòng tự hào, tự tôn dân tộc. Bài cáo xứng đáng là áng thiên cổ hùng văn của muôn đời.
Bài tập 2: Viết đoạn văn chứng minh tác phẩm Nước Đại Việt ta là một áng văn tràn đầy lòng tự hào dân tộc
Bài tham khảo
Nước Đại Việt ta là áng văn không chỉ thuyết phục người đọc bởi lập luận chặt chẽ, lí lẽ thuyết phuc, đó còn là áng văn tràn đầy lòng tự hào dân tộc. Đó là lòng tự hào về đất nước luôn coi lợi ích và hạnh phúc của nhân dân là gốc. Nguyễn Trãi còn thể hiện quan niệm mới mẻ về chủ quyền dân tộc,đó không chỉ là chủ quyền lãnh thổ mà còn được khẳng định bởi nền văn hiến lâu đời và những phong tục tập quán văn hóa đặc trưng của dân tộc. Đấy là hồn thiêng sông núi, là cốt cách con người Việt được dựng xây và hun đúc qua ngàn đời mà không dân tộc nào có được. Nền văn hiến ấy cũng chính là sức mạnh tinh thần đã gắn kết cả dân tộc thành một khối thống nhất vững chắc để đương đầu với bao kẻ thù xâm lược. Lòng tự hào ấy còn được thể hiện qua những chiến công lừng lẫy, vang dội non sông. Những chiến thắng ấy thể hiện tài trí mưu lược của các bậc anh hùng hào kiệt và tinh thần đoàn kết của nhân dân ta trước vận mệnh dân tộc.
Bài tập 1: Chân lí được khẳng định: Nước ta có nền độc lập và chủ quyền riêng, là nước riêng, có nền văn hiến lâu đời, có lãnh thổ riêng, có phong tục riêng, có lịch sử độc lập với nhiều triều đại, có chế độ, chủ quyền ngang hàng với các triều đại Trung Quốc. Kẻ thù sang xâm lược ắt chuốc lấy thất bại, nêu cao tinh thần yêu nước bảo vệ chủ quyền, tiêu diệt những thế lực có ý định xâm lược.
Bài tập 2:
1. Cốt lõi tư tưởng nhân nghĩa: yêu nước, thương dân, đem lại cuộc sống bình yên cho nhân dân.
2. Người dân mà tác giả nói đến: những người dân đen, người dân lao động chân lấm tay bùn, những người thấp cổ bé họng.
3. Kẻ bạo ngược mà tác giả nhắc tới: những kẻ áp bức bóc lột nhân dân, là kẻ thù xâm lược.
Bài tập 3: Dựa vào các yếu tố:
1. Nền văn hiến lâu đời
2. Lãnh thổ riêng
3. Phong tục tập quán
4. Lịch sử riêng.
5. Chế độ nhà nước riêng.
6. Bình đẳng ngang hàng với các triều đại Trung Quốc.
=> Hoàn toàn đúng đắn vì: 2 bài đều khẳng định chủ quyền lãnh thổ riêng của dân tộc, ngang hàng với các nước lớn, với các vua Trung Quốc lúc bấy giờ.
=>“Nước Đại Việt ta” phát triển ý thức dân tộc hơn ở các yếu tố văn hiến, phong tục, lịch sử các triều đại.
Bài tập 4:
1. Cách dùng từ: khẳng định một cách sự hiển nhiên, vốn có, lâu đời của một nước Đại Việt độc lập, tự chủ đồng thời kể ra những kẻ xâm lược phương Bắc đã chịu thất bại mà sử sách còn ghi rõ tạo được mối liên quan, gắn kết thể hiện được sự khẳng định một cách vững chắc chủ quyền dân tộc.
2. Sử dụng các câu văn biền ngẫu sóng đôi, cân xứng cùng với biện pháp so sánh nâng vị thế của các triều đại nước ta ngang hàng với các triều đại Trung Hoa.
3. Lời văn ngắn gọn, ý tứ phong phú, lập luận chặt chẽ, lí lẽ sắc bén => tăng thêm tính chân thực và thuyết phục
Câu 5*: Chứng minh
Bài tham khảo
Sức thuyết phục của văn chính luận Nguyễn Trãi là ở chỗ kết hợp giữa lí lẽ và thực tiễn. Thật vậy, sức thuyết phục của Nguyễn Trãi thể hiện ở tư tưởng nhân nghĩa của mình phải trừng phạt kẻ xâm lược, hung tàn đổ mang lại độc lập cho đất nước, thái bình cho muôn dân. Những chân lí và những khẳng định về chủ quyền về tự do được Nguyễn Trã khẳng định đanh thép, hùng hồn trong từng câu chữ. Nước Đại Việt ta là một đất nước có chủ quyền lãnh thổ, có nền văn hiến lâu đời, có phong tục tập quán, lịch sử riêng, chế độ nhà nước riêng, bình đẳng ngang hàng với các triều đại Trung Quốc. Chính vì thế kẻ thù có ý định xâm lược nước ta tất yếu sẽ thất bại. Chính thực tiễn được Nguyễn Trãi đưa ra tuwg những thất bại của Lưu Cung, Triệu Tiết hay Hàm Tử, Ô Mã đã chứng minh tất cả lí lẽ mà Nguyễn Trãi đưa ra là đúng.
Câu 6*: Sơ đồ.
LUYỆN TẬP
Bài tập: Chỉ ra sự tiếp nối và phát triển của ý thức dân tộc trong đoạn trích Nước Đại Việt ta.
Bài tham khảo
Nguyễn Trãi hiệu là Ức Trai, là một nhân vật lịch sử lỗi lạc, toàn tài hiếm có. Bởi ông không chỉ là một vị tham mưu tài giỏi của Lê Lợi mà ông còn là một nhà thơ có nhiều đóng góp cho nền văn học trung đại Việt Nam. Bình Ngô đại cáo do ông thừa lệnh Lê Lợi soạn thảo là bài bài cáo có ý nghĩa trọng đại của một bản tuyên ngôn độc lập, được công bố sau khi quân ta đại thắng. Bài cáo là ý thức dân tộc được tiếp nối từ thời Sông núi nước Nam của Lý Thường Kiệt. Điều ấy được thể hiện rõ qua đoạn trích Nước Đại Việt ta.
Quả thực đúng như vậy. Bình ngô đại cáo của Nguyễn Trãi được xem là bản tuyên ngôn độc lập thứ hai của dân tộc ta và là sự tiếp nối và phát triển ý thức dân tộc từ Sông núi nước Nam của Lý Thường Kiệt bằng nhiều yếu tố mới, phong phú, toàn diện và sâu sắc hơn. Đồng thời được thể hiện bằng những minh chứng hùng hồn, sự thực hiển nhiên trong thực tế đời sống.
Sự tiếp nối ý thức dân tộc của Nước Đại Việt ta của Nguyễn Trãi so với Sông núi nước Nam của Lý Thường Kiệt là sự tiếp nối về ý thức dân tộc về chủ quyền lãnh thổ. Trong bài Sông núi nước Nam, Lý Thường Kiệt đã đưa ra một chân lí mà không ai có thể chối cãi được:
“Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư”
Dịch thơ:
“Sông núi nước Nam vua Nam ở
Vằng vặc sách trời chia xứ sở”
Cơ sở lí lẽ mà Lý Thường Kiệt đưa ra là đất nào thì vua ấy, sự thực đã được phân định một cách rõ ràng, rạch ròi trong “thiên thư”. Sở dĩ ông sử dụng “thiên thư” - một sự vật liên quan tới nhân vật siêu nhiên là ông trời, để làm cơ sở lí lẽ cho lập luận của mình vì người xưa, họ tin vào thiên mệnh tức là mệnh trời. Đối với người trung đại, đó là một niềm tin bất diệt. Họ tin tưởng rằng, con người sinh ra, lớn lên rồi chết đi như thế nào không phải do mình định đoạt, mà tất cả là do sự sắp đặt của ông trời. Mà đã là sự sắp đặt của ông trời thì không một ai có thể can thiệp thay đổi nó. Còn nếu làm trái số mệnh thì chắc chắn kết cục sẽ không tốt đẹp. Mượn “sách trời” để nêu lên ranh giới lãnh thổ của đất nước mình là một cách để thể hiện sự tự hào dân tộc và khẳng định độc lập chủ quyền về mặt lãnh thổ của ta. Cơ sở mà Lý Thường Kiệt đưa ra là cơ sở lí lẽ vững chắc, đầy thuyết phục.
Bài Nước Đại Việt ta của Nguyễn Trãi, ông cũng khẳng định chủ quyền lãnh thổ của nước ta, mà chủ quyền ấy của Đại Việt đã có từ lâu đời:
“Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác”
Trong suy nghĩ của con người ấy đã tồn tại sự độc lập dân tộc. Bởi từng câu từng chữ trong bài cáo đều cho thấy điều ấy. Hai câu thơ trên đã cho thấy sự rạch ròi trong ranh giới của núi sông giữa hai nước láng giềng. Đó cũng chính là lời nhắc nhở Trung Quốc về sự tồn tại và phát triển của nước ta. Bách Việt trước đây đã có, đã từng bị xâm chiếm, nhưng chỉ duy nhất Đại Việt vẫn còn độc lập, ranh giới lãnh thổ cũng đã được định hình từ đó. Phía Bắc là Trung Quốc, phía Nam là Đại Việt, không thể lẫn lộn hai miền Nam Bắc, cũng không thể khẳng định Đại Việt ở phía Nam chính là lãnh thổ phía Nam của Trung Quốc được. Quốc gia của ta, đất nước của ta, lãnh thổ của ta vì thế mà được xác định rõ ràng trong tâm thức và suy nghĩ của người Việt để rồi ý thức ấy biến thành sức mạnh của hành động.
Ý thức dân tộc trong Nước Đại Việt ta của Nguyễn Trãi không chỉ dừng lại ở việc khẳng định chủ quyền lãnh thổ mà Nguyễn Trãi còn đưa ra hàng loạt những yếu tố khác:
“Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu,
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc, Nam cũng khác
Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời gây nền độc lập,
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương”
Cái cốt lõi trong tư tưởng “nhân nghĩa” của Nguyễn Trãi là lấy lợi ích của nhân dân, dân tộc làm gốc và mọi việc làm, mọi cuộc chiến đấu cũng chỉ vì mục đích cuối cùng là đem lại cuộc sống bình yên cho nhân dân. Và đó chính là nền tảng cho những khẳng định của ông sau này. Nước Đại Việt ta vốn đã có nền “văn hiến”. Văn hiến là truyền thống văn hóa lâu đời và tốt đẹp. Cho nên, không phải đất nước nào cũng có thể có được nền văn hiến ấy mà cần phải có thời gian tích lũy, xây dựng và phát triển. Đâu chỉ thế, Nguyễn Trãi cũng đã khẳng định phong tục, tập quán sinh sống của người phương Bắc và người phương Nam cũng không thể giống nhau do sự khác biệt về thiên nhiên và điều kiện sinh sống của con người. Nhưng dù thế nào thì điều ấy cũng có nghĩa, người Việt không chỉ có một nền văn hiến lâu đời mà ngay cả phong tục, tập quán cũng mang những nét đặc trưng riêng. Đặc biệt, Nguyễn Trãi còn tự hào khi soi chiếu các triều đại của ta và Trung Quốc như một minh chứng cho dòng chảy trôi lịch sử của nước ta chưa từng bị gián đoạn. Nếu Trung Quốc có Hán, Đường, Tống, Nguyên thì Đại Việt có Triệu, Đinh, Lí Trần. Những triều đại ấy được đặt trong thế so sánh, ngang hàng với nước lớn như Trung Quốc như một cách thể hiện lòng tự hào, tự tôn dân tộc.
Với lối văn biền ngẫu sóng đôi cùng các hình ảnh mang tính gợi hình và hệ thống từ ngữ chỉ thời gian kéo dài từ quá khứ đến hiện tại (đã lâu, từ trước, đã chia, bao đời, mỗi bên) đã khiến cho bài cáo có những lập luận chặt chẽ, giọng điệu hùng hồn và giàu sức thuyết phục đối với người đọc.
Có thể nói, sự tiếp nối về ý thức dân tộc từ Sông núi nước Nam tới Nước Đại Việt ta (Trích Bình Ngô đại cáo) là minh chứng cho sự tồn tại và phát triển ý thức độc lập, chủ quyền của nhân dân ta. Đó cũng là lý do vì sao, dù có bị xâm lược, bị đô hộ gần 1000 năm Bắc thuộc, nhân dân ta vẫn giữ được tiếng nói, vẫn giữ được phong tục tập quán và lãnh thổ của mình.
Sự tiếp nối và phát triển của ý thức dân tộc trong đoạn trích Nước Đại Việt ta so với bài Sông núi nước Nam:
Phần tham khảo mở rộng
Bài tập 1: Chứng minh Nước Đại Việt ta là bản tuyên ngôn độc lập bất hủ (trích Bình Ngô đại cáo)
Bài tham khảo
Trong kho tàng văn học dân tộc, có những áng văn bất hủ là tài sản vô giá để lại cho hậu thế. Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi là một bản hùng ca của dân tộc Đại Việt. Nội dung tuyên ngôn được thể hiện tập trung trong đoạn trích Nước Đại Việt ta. Đó không chỉ kiệt tác văn chương mà còn là ý chí độc lập tự chủ của một dân tộc biết tự khẳng định mình, tự hào về truyền thống và sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì sự tồn vong của quốc gia, dân tộc.
Bình Ngô đại cáo được viết trong hoàn cảnh Nguyễn Trãi thừa lệnh Lê Thái Tổ soạn thảo năm 1428, sau khi quân ta đại thắng, diệt và làm tan rã viện binh của giặc, buộc quân giặc phải giảng hòa và rút về nước. Bài cáo được viết trong không khí hân hoan chiến thắng của toàn dân tộc. Nguyễn Trãi đã thể hiện tài năng xuất chúng với nghệ thuật lập luận chặt chẽ, lí luận sắc bén và kết cấu chặt chẽ, mạch lạc được thể hiện trong văn bản.
Nước Đại Việt ta thể hiện tư tưởng nhân nghĩa mới mẻ của Nguyễn Trãi. Trong tư tưởng Nho giáo xưa, nhân nghĩa vốn là khái niệm để nói về đạo lí, cách ứng xử và tình thương giữa con người với nhau. Ở đây tác giả đã khái quát thành một tư tưởng lớn, thể hiện truyền thống cao đẹp của dân tộc ta: Việc nhân nghĩa trước ở yên dân
Đó là tư tưởng lấy dân làm gốc, lấy lợi ích của nhân dân và toàn dân tộc làm đầu và đem lại cuộc sống hạnh phúc cho nhân dân. Dân có yên ổn thì đất nước mới thái bình, thịnh trị. Và muốn yên dân thì phải lo “trừ bạo”, đánh tan giặc xâm lược. Điều này cho thấy tư tướng của một nhà Nho yêu nước, thương dân.
Ở luận điểm thứ hai, Nguyễn Trãi đã thể hiện quan niệm về quốc gia, chủ quyền lãnh thổ hết sức sâu sắc:
Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác
Chỉ với tám câu thơ ngắn gọn, súc tích nhưng ý thơ đã thâu tóm được những tư tưởng lớn lao về việc khẳng định chủ quyền dân tộc. Ta từng biết đến bản tuyên ngôn độc lập với những lí lẽ đanh thép trong Nam quốc sơn hà của Lí Thường Kiệt. Ông qua niệm về quốc gia, dân tộc với hai quyền cơ bản là chủ quyền lãnh thổ và độc lập dân tộc. Đất nước ta do vua trị vì và ranh giới phân chia đã rõ ràng, hợp với ý trời đã định:
Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tuyệt nhiên định phận tại thiên thư
Nhưng với Nguyễn Trãi, quan niệm về chủ quyền được mở rộng trên cả phương diện lịch sử văn hiến, phạm vi lãnh thổ và phong tục tập quán. Để xây dựng nền văn hiến và hình thành các phong tục tập quán lâu đời, dẫn tộc ta đã trải qua hàng năm dựng xây và văn đắp với những trang sử hào hùng về truyền thống đấu tranh và tinh thần cần cù trong lao động. Đó là quá trình kiến tạo dài lâu, sàng lọc để lấy lại những gì tinh túy, đẹp đẽ nhất của dân tộc, bởi vậy khi khẳng định có một nền “văn hiến đã lâu” “phong tục Bắc Nam cũng khác” chính là lời khẳng định mạnh mẽ và đanh thép nhất chủ quyền vốn có của dân tộc ta. Dân tộc ấy được hình thành không chỉ có bờ cõi, non sông được bảo vệ mà tâm hồn và bản sắc dân tộc ấy cũng cần được gìn giữ và phát huy qua nhiều thế hệ. Chúng ta không khỏi đau xót khi nhìn lại cả nghìn năm Bắc thuộc, dân ta phải sống trong cảnh lầm than nô lệ nhưng điều khiến chúng ta tự hào đó là bản sắc dân tộc không hề bị phai nhạt, đồng hóa mà vẫn như ngọn đèn soi sáng cả dân tộc đi qua đêm tối, khơi dậy được tinh thần chiến đấu quật cường để giành lại độc lập cho dân tộc.
Không chỉ vậy, Nguyễn Trãi còn khẳng định chủ quyền trên phương diện lịch sử với các triều đại phong kiến hai nước cùng song song tồn tại qua bao thế kỉ.
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nên độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau
Song hào kiệt đời nào cũng có
Việc liệt kê các triều đại của nước ta ngang hàng cùng quân giặc, tác giả nhằm khẳng định vị thế của dân tộc ta là một dân tộc có chủ quyền. Dù dân tộc ấy có những giai đoạn thăng trầm nhưng hào kiệt, anh hùng thời nào cũng có, cũng viết nên những trang sử vẻ vang. Như vậy, Nguyễn Trãi đã thể hiện một cách sâu sắc về ý thức chủ quyền dân tộc, đó không chỉ làm phạm vi lãnh thổ được bảo toàn mà truyền thống văn hóa, lịch sử quốc gia, phong tục tập quán cũng cần được giữ gìn trọn vẹn. Đó chính là sức mạnh tinh thần to lớn, tạo nên động lực giúp cả dân tộc chiến đấu kiên cường với bao kẻ thù, làm nên những chiế công vang dội non sông:
Lưu Cung tham công nên thất bại
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã
Với các sự kiện và chiến công tiêu biểu, Nguyễn Trãi đã cho thấy sức mạnh của dân tộc Đại Việt trước bao kẻ thù lớn. Để làm nên những chiến công lừng lẫy đó, bao máu xương của cha anh đã rơi xuống vì nền độc lập dân tộc. Đó là niềm tự hào nhưng cũng là lời nhắc nhở với hậu thế.
Với những lập luận chặt chẽ, giàu sức thuyết phục cùng những tư tưởng nhân văn sâu sắc, tiến bộ, đoạn trích Nước Đại Việt ta đã thể hiện được lòng tự hào, tự tôn dân tộc. Bài cáo xứng đáng là áng thiên cổ hùng văn của muôn đời.
Bài tập 2: Viết đoạn văn chứng minh tác phẩm Nước Đại Việt ta là một áng văn tràn đầy lòng tự hào dân tộc
Bài tham khảo
Nước Đại Việt ta là áng văn không chỉ thuyết phục người đọc bởi lập luận chặt chẽ, lí lẽ thuyết phuc, đó còn là áng văn tràn đầy lòng tự hào dân tộc. Đó là lòng tự hào về đất nước luôn coi lợi ích và hạnh phúc của nhân dân là gốc. Nguyễn Trãi còn thể hiện quan niệm mới mẻ về chủ quyền dân tộc,đó không chỉ là chủ quyền lãnh thổ mà còn được khẳng định bởi nền văn hiến lâu đời và những phong tục tập quán văn hóa đặc trưng của dân tộc. Đấy là hồn thiêng sông núi, là cốt cách con người Việt được dựng xây và hun đúc qua ngàn đời mà không dân tộc nào có được. Nền văn hiến ấy cũng chính là sức mạnh tinh thần đã gắn kết cả dân tộc thành một khối thống nhất vững chắc để đương đầu với bao kẻ thù xâm lược. Lòng tự hào ấy còn được thể hiện qua những chiến công lừng lẫy, vang dội non sông. Những chiến thắng ấy thể hiện tài trí mưu lược của các bậc anh hùng hào kiệt và tinh thần đoàn kết của nhân dân ta trước vận mệnh dân tộc.