[toc:ul]
Câu 1: Hãy phân tích những ngữ liệu dưới đây về mặt từ ngữ (chú ý những từ ngữ in đậm) để chứng minh tiếng Việt thuộc loại hình ngôn ngữ đơn lập.
- Trèo lên cây bưởi hái hoa
Bước xuống thềm nhà hái nụ tầm xuân
Nụ tầm xuân nở ra xanh biếc
Em lấy chồng rồi anh tiếc lắm thay
(Ca dao)
- Thuyền ơi có nhớ bến chăng,
Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền.
(Ca dao)
- Yêu trẻ, trẻ đến nhà; kính già, già để tuổi cho.
(Tục ngữ)
- Con đem con cá bống ấy về thả xuống giếng mà nuôi. Mỗi bữa, đáng ăn ba bát thì con ăn hai, còn một đem thả xuống cho bống...
Nói xong Bụt biến mất. Tấm theo lười Bụt, thả bống xuống giếng. Rồi từ ngày hôm ấy trở đi, cứ sau bữa ăn, Tấm đều để dành cơm, giấu đưa ra cho bống. Mỗi lần nghe lời Tấm gọi, bống lại ngoi lên mặt nước đớp những hạt cơm của Tấm ném xuống. Người và cá ngày một quen nhau, và bống ngày một lớn lên trông thấy.
(Tấm Cám)
Câu 2: Tìm một câu trong tiếng Anh (hoặc tiếng Pháp, tiếng Nga...) đã học, đối chiếu với câu tự dịch ra tiếng Việt, so sánh, phân tích để đi đến kết luận: tiếng Anh (hoặc tiếng Pháp, tiếng Nga...) thuộc loại hình ngôn ngữ hòa kết, tiếng Việt thuộc lại hình ngôn ngữ đơn lập
Câu 3: Xác định các hư từ và phân tích tác dụng thể hiện ý nghĩa của chúng trong đoạn văn sau:
Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị. Dân ta đã đánh đổ các xiềng xích thực dân gần 100 năm nay để gây dựng nên nước Việt Nam độc lập. Dân ta lại đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỉ mà lập nên chế độ Dân chủ Cộng hòa.
(Hồ Chí Minh, Tuyên ngôn độc lập)
Câu 1: Phân tích những ngữ liệu về mặt từ ngữ để chứng minh tiếng Việt thuộc loại hình ngôn ngữ đơn lập:
a. (1) Nụ tầm xuân: bổ ngữ Chỉ đối tượng của động từ hái
(2) Nụ tầm xuân: chủ ngữ => chủ thể của hoạt động nở
=> Không có sự thay đổi, khác biệt nào giữa nụ tầm xuân - chủ ngữ và nụ tầm xuân - thành phần phụ, chỉ khác nhau về vị trí trong câu
b. (1) Bến: bổ ngữ cho động từ nhớ
(2) Bến: chủ ngữ của động từ đợi
Không có dự thay đổi nào, chỉ khác nhau về vị trí trong câu
c. (1) Trẻ: bổ ngữ => nằm trong phần khởi ngữ
(2) Trẻ: chủ ngữ
(1) Già: bổ ngữ nằm trong phần khởi ngữ
(2) Già: chủ ngữ
=> Hoàn toàn không có sự thay đổi khác biệt nào giữa trẻ (1) và trẻ (2); già (1) và già (2).
d. (1) Bống là bổ ngữ chỉ đối tượng cho động từ đem.
(2) Bống là bổ ngữ chỉ đối tượng cho động từ thả.
(3) Bống là bổ ngữ chỉ đối tượng cho động từ thả.
(4) Bống là bổ ngữ cho động từ giấu đưa ra.
(5) Bống chủ ngữ của câu => chủ thể của hành động ngoi lên
(6) Bống chủ ngữ của câu => chủ thể của quá trình ngày một lớn lên trông thấy
=> Các từ in đậm trong các ngữ liệu trên không thay đổi, dù vị trí của nó có biến đổi; xét về mặt ý nghĩa ngữ pháp của các từ được biểu thị bằng trật tự từ và hư từ
Câu 2: Tìm một câu trong tiếng Anh (hoặc tiếng Pháp, tiếng Nga...) đã học, đối chiếu với câu tự dịch ra tiếng Việt
Ví dụ tiếng Anh - tiếng Việt:
I give him a book, He gives me a book
Tôi (1) đưa cho anh ấy(1) quyển sách, anh ấy(2) đưa cho tôi(2) quyển sách
So sánh, phân tích:
Tiếng Anh:
I, me là đại từ nhân xưng ở ngôi thứ nhất có nghĩa là tôi.
I là chủ ngữ, me là tân ngữ
=> Xét về mặt ngữ âm và sự thể hiện bằng chữ viết, chúng hoàn toàn khác biệt
Tiếng Việt:
Tôi(1) là chủ ngữ. Tôi (2) là phụ ngữ chỉ đối tượng của động từ "cho".
Anh ấy (1) với anh ấy (2) là phụ ngữ chỉ đối tượng của động từ "cho".
=> Các cặp từ ngữ ấy chỉ khác nhau về vị trí so với động từ "cho"
Như vậy, tiếng Anh thuộc loại hình ngôn ngữ hòa kết, tiếng Việt thuộc loại hình ngôn ngữ đơn lập
Câu 3: Xác định các hư từ và phân tích tác dụng thể hiện ý nghĩa:
Các hư từ trong đoạn văn: đã, lại, mà, nên
Tác dụng của các hư từ: liên kết trong văn bản và nhấn mạnh sức mạnh, chiến thắng của nhân dân ta trước thực dân Pháp và phát xít Nhật, chế độ phong kiến.
Câu 1: Trong ngữ liệu a:
Nụ tầm xuân (1) là thành phần phụ (bổ ngữ), chỉ đối tượng của động từ hái. Nụ tầm xuân(2) là chủ ngữ, chủ thể của hoạt động nở => hoàn toàn không có sự thay đổi, khác biệt nào giữa nụ tầm xuân - chủ ngữ và nụ tầm xuân - thành phần phụ, chỉ khác nhau về vị trí trong câu.
Trong ngữ liệu b:
Bến (1) là phần phụ bổ ngữ cho động từ nhớ; Bến (2) là thành phần chủ ngữ của động từ đợi => Xét về mặt ngữ âm và chữ viết không có dự thay đổi nào, chỉ khác nhau về vị trí trong câu.
Trong ngữ liệu c:
Trẻ (1) là bổ ngữ (nằm trong phần khởi ngữ). Trẻ (2) là chủ ngữ. Già (1) là bổ ngữ (nằm trong phần khởi ngữ). Già (2) là chủ ngữ. => Xét về mặt âm và sự thể hiện bằng những chữ viết hoàn toàn không có sự thay đổi khác biệt nào giữa trẻ (1) và trẻ (2); già (1) và già (2).
Trong ngữ liệu d:
Bống (1): là bổ ngữ chỉ đối tượng cho động từ đem. Bống (2): là bổ ngữ chỉ đối tượng cho động từ thả. Bống (3): là bổ ngữ chỉ đối tượng cho động từ thả. Bống (4): là bổ ngữ cho động từ giấu đưa ra. Bống (5): chủ ngữ của câu (chủ thể của hành động ngoi lên). Bống (6): chủ ngữ của câu (chủ thể của quá trình ngày một lớn lên trông thấy). => Như vậy, không thay đổi, dù vị trí của nó có biến đổi; xét về mặt ý nghĩa ngữ pháp của các từ được biểu thị bằng trật tự từ và hư từ.
Câu 2: Ta có câu ví dụ tiếng Anh - tiếng Việt như sau: I give him a book, He gives me a book. Có nghĩa là Tôi đưa cho anh ấy quyển sách, anh ấy đưa cho tôi quyển sách.
Phân tích ta thấy: Trong tiếng Anh, I, me là đại từ nhân xưng ở ngôi thứ nhất có nghĩa là tôi, I là chủ ngữ, me là tân ngữ. Trong tiếng Việt, tôi(1) là chủ ngữ. Tôi (2) là phụ ngữ chỉ đối tượng của động từ "cho". So sánh anh ấy (1) với anh ấy (2) chúng ta cũng thấy như vậy. Xét về mặt ngữ âm và sự thể hiện bằng chữ viết, chúng hoàn toàn không có sự khác biệt nào. Các cặp từ ngữ ấy chỉ khác nhau về vị trí.
=> Tiếng Anh thuộc loại hình ngôn ngữ hòa kết, tiếng Việt thuộc loại hình ngôn ngữ đơn lập
Câu 3: Xác định các hư từ và phân tích tác dụng thể hiện ý nghĩa của chúng:
Các hư từ trong đoạn văn: đã, lại, mà, nên có tác dụng liên kết trong văn bản và nhấn mạnh sức mạnh chiến thắng của nhân dân ta trước thực dân Pháp và phát xít Nhật, chế độ phong kiến.
Câu 1:
a. Xét về mặt ngữ âm và sự thể hiện bằng chữ viết, Hoàn toàn không có sự thay đổi, khác biệt nào, chỉ khác nhau về vị trí trong câu.
=> Nụ tầm xuân: (1) bổ ngữ, (2) chủ ngữ
b. Xét về mặt ngữ âm và chữ viết không có dự thay đổi nào, chỉ khác nhau về vị trí trong câu
=> Bến: (1) bổ ngữ, (2) chủ ngữ
c. Xét về mặt âm và sự thể hiện bằng những chữ viết hoàn toàn không có sự thay đổi khác biệt nào
=> Trẻ: (1) bổ ngữ, (2) chủ ngữ
Già: (1) bổ ngữ, (2) chủ ngữ
d. Xét về mặt hình thái, các từ in đậm trong các ngữ liệu trên không thay đổi, dù vị trí của nó có biến đổi; xét về mặt ý nghĩa ngữ pháp của các từ được biểu thị bằng trật tự từ và hư từ
=> Bống: (1) - (2) - (3) - (4) bổ ngữ, (5) – (6) chủ ngữ
Câu 2: Ví dụ tiếng Anh - tiếng Việt so sánh, phân tích để đi đến kết luận: tiếng Anh (hoặc tiếng Pháp, tiếng Nga...) thuộc loại hình ngôn ngữ hòa kết, tiếng Việt thuộc lại hình ngôn ngữ đơn lập:
- Tiếng Anh: I give him a book, He gives me a book
=> Tiếng việt: Tôi (1) đưa cho anh ấy(1) quyển sách, anh ấy(2) đưa cho tôi(2) quyển sách
Qua ví dụ ta thấy:
- I, me là đại từ nhân xưng ở ngôi thứ nhất có nghĩa là tôi, I là chủ ngữ, me là tân ngữ
=> Xét về mặt ngữ âm và sự thể hiện bằng chữ viết, chúng hoàn toàn khác biệt
- tôi(1) là chủ ngữ. Tôi (2) là phụ ngữ chỉ đối tượng của động từ "cho". anh ấy (1) với anh ấy (2) chúng ta cũng thấy như vậy.
=> Xét về mặt ngữ âm và sự thể hiện bằng chữ viết, chúng hoàn toàn không có sự khác biệt nào.
Câu 3: đã, lại, mà, nên là các hư từ trong đoạn văn.
=> Liên kết trong văn bản và nhấn mạnh sức mạnh, chiến thắng của nhân dân ta trước thực dân Pháp và phát xít Nhật, chế độ phong kiến