Soạn văn 11 ngắn nhất bài: Tràng giang

Soạn bài: Tràng giang - ngữ văn 11 tập 2 ngắn gọn nhất. Nhằm giúp học sinh giảm bớt thời gian soạn bài nhưng vẫn đảm bảo nắm đủ ý, baivan giới thiệu các em tổ hợp bài soạn cực ngắn, siêu ngắn và ngắn nhất. Từ đó, học sinh có thêm lựa chọn bài soạn phù hợp với của mình. Soạn Tràng giang cực ngắn - baivan

[toc:ul]

I. Câu hỏi trong bài học

Câu 1: Anh (chị) hiểu thế nào về câu thơ đề từ Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài? Đề từ đó có mối liên hệ gì với bức tranh thiên nhiên và tâm trạng của tác giả trong bài thơ?

Câu 2: Nêu cảm nghĩ về âm điệu chung của toàn bài thơ.

Câu 3: Vì sao nói bức tranh thiên nhiên trong bài thơ đậm màu sắc cổ điển mà vẫn gần gũi, thân thuộc?

Câu 4: Tình yêu thiên nhiên ở đây có thấm đượm lòng yêu nước thầm kín không? Vì sao?

Câu 5: Phân tích những đặc sắc nghệ thuật của bài thơ.

Luyện tập

Câu 1: Cách cảm nhận không gian và thời gian của bài thơ có gì đáng chú ý?

Câu 2: Vì sao câu thơ cuối "Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà" lại làm cho người đọc liên tưởng đến hai câu thơ trong bài "Lầu Hoàng Hạc" của Thôi Hiệu?

Bài tham khảo thêm

Câu 1: Phân tích bài thơ Tràng giang

Câu 2: Nhà thơ Huy Cận đã từng viết: “Chàng Huy Cận khi xưa hay sầu lắm.”

Em hãy làm rõ điều này thông qua việc phân tích tác phẩm “Tràng giang” của Huy Cận

Câu 3: Bức tranh tâm trạng trong bài thơ “Tràng giang”

II. Soạn bài siêu ngắn: Tràng giang

Câu 1: Câu thơ đề từ “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài”:

  “bâng khuâng" thể hiện được nỗi niềm của nhà thơ là cảm giác buồn sầu trước dòng sông rộng lớn. "

  Trời rộng" được nhân hóa nhớ sông dài hay chính là ẩn dụ cho nỗi nhớ của nhà thơ

=>  Nỗi bâng khuâng, xao xuyến của tác giả trước sự mênh mông của con sông và nỗi nhớ da diết của tác giả

Mối lên hệ với bức tranh thiên nhiên và tâm trạng nhà thơ:

  • Định hướng cảm xúc chủ đạo của bài thơ nỗi buồn sầu lan tỏa, nhẹ nhàng mà sâu lắng.
  • Tạo nên vẻ đẹp hài hòa, vừa cổ điển vừa hiện đại của chàng thanh niên thời thơ mới.

Câu 2: Cảm nghĩ về âm điệu chung của toàn bài thơ:

  Âm điệu buồn lặng lẽ, bâng khuâng, man mác da diết, sầu lặng - đều đều, dập dềnh như sông nước

  Nhịp thơ 2/2/3 tạo ra âm điệu đều đều, tựa như dập dềnh trên sông và sóng  biển

  Thanh điệu có sự hoán vị bằng trắc đều đặn, cấu trúc đăng đối giữa các câu thơ tạo ra cảm giác mênh mông của dòng sông,cùng với đó là vị buồn man mác.

Câu 3: Bức tranh thiên nhiên:

  Không gian : mênh mông, bao la, rộng lớn. Thể hiện qua các từ ngữ "trời rộng", "sông dài".

  Cảnh vật hiu quạnh, hoang vắng, đơn lẻ, hiu hắt buồn.

  Hình ảnh mang đậm sắc màu cổ điển

=> Bức tranh Tràng Giang vẫn gần gũi, thân thuộc vì:  cành củi khô, tiếng làng xa vãn chợ chiều. Hình ảnh, âm thanh giản dị, gần gũi, thanh đạm của cuộc sống, con người Việt Nam.

Câu 4: Tình yêu thiên nhiên ở đây có thấm đượm lòng yêu nước thầm kín, bởi vì:

" Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,                 

Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa.

Lòng quê dợn dợn vời con nước,         

Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà."

  • Những hình ảnh ước lệ, cổ điển như: mây, chim tạo nên một bức tranh chiều tà đẹp, hùng vĩ và vô cùng thơ mộng.
  • Nhưng câu thơ mang đến cho người đọc những cảm giác thân thuộc, gần gũi để rồi từ những cảnh quê ấy mà nói đến tình yêu và nỗi nhớ quê trong hai câu thơ sau.
  • Huy Cận không cần đến thiên nhiên, tạo vật mà nó tìm ẩn và bộc phát tự nhiên. 

=> Nổi buồn sâu lắng, nỗi nhớ quê da diết cứ chầm chậm chảy trên bề mặt khổ thơ cuối.

Câu 5: Nghệ thuật đặc sắc của bài thơ:

  Kết hợp hài hòa những thi liệu mang nét cổ điển của văn học cổ điện với văn học hiện đại.

  Nghệ thuật đối, bút pháp tả cảnh giàu tính tạo hình, hệ thống từ láy giàu giá trị biểu cảm.

  Cách ngắt nhịp 2/2/3 tạo nên những âm điệu buồn, man mác thể  hiện rõ nét tâm trạng bâng khuâng của nhà thơ.

  Thể thơ thất ngôn: tạo nên không khí trầm mặc, cổ kính của thơ đường.

Luyện tập

Câu 1: Cách cảm nhận không gian và thời gian của bài thơ:

Cảm nhận không gian:

  • Mang cảm hứng vũ trụ (qua câu đề từ) mang cảm giác bao la, rộng lớn.
  • Không gian ba chiều xuất hiện trong thơ (khổ 2)
  • Không gian buồn, hiu hắt, con sông không bóng người (Khổ 3)
  • Không gian vừa hùng vĩ, vừa cô đơn (khổ cuối)

Cảm nhận thời gian: 

  • Vào buổi chiều tà
  • Thời gian vừa cụ thể, vừa gợi cảm lại thể hiện đúng tâm trạng buồn hiu hắt tác giả.

Câu 2: Câu thơ cuối "Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà" lại làm cho người đọc liên tưởng đến hai câu thơ trong bài "Lầu Hoàng Hạc" của Thôi Hiệu vì Huy Cận có mượn ý thơ của Thôi Hiệu:

Trong thơ Thôi Hiệu:  có khói và sóng là những hình ảnh thiên nhiên thì mới gợi lên nỗi nhớ nhà

Trong thơ Xuân Diệu: những hình ảnh thiên nhiên đó luôn thường trực và tự nhiên bộc phát cho nên nỗi nhớ của Huy Cận da diết và sâu lắng hơn

Bài tham khảo thêm

Câu 1: Phân tích bài thơ Tràng giang

Bài viết tham khảo

Từ năm 1930, văn học Việt Nam bắt đầu có những bước chuyển mình mạnh mẽ với sự xuất hiện của làn sóng thơ mới cùng những cá tính sáng tác độc đáo. Các nhà thơ say sưa thể hiện cái tôi cá nhân và không còn bị gò bó trong khuôn sáo cũ kĩ của văn thơ trung đại. Nếu Xuân Diệu luôn mang trong mình nỗi ám ảnh về thời gian thì người bạn tri kỉ của ông, Huy Cận lại luôn chìm đắm trong cảm thức về không gian vũ trụ. Huy Cận tỏ ra rất nhạy cảm với không gian rộng lớn và thời gian vĩnh hằng. Những điều ấy được thể hiện rõ nét trong “Tràng giang”, một trong những bài thơ xuất sắc nhất của ông.

    Vào khoảng những năm 1939, Huy Cận theo học tại một trường ở Hà Nội. Ông có thói quen đạp xe dọc đê vào mỗi buổi chiều thứ bảy để hóng gió và ngắm cảnh sông Hồng. Bài “Tràng giang” ra đời trong một buổi chiều như thế. Đứng ở bãi Chèm, nhìn cảnh sông nước mênh mông, nỗi nhớ quê hương, nỗi sầu lo, thương cảm về đất nước về kiếp người cuộn tràn trong tâm trí nhà thơ. Ngay hôm ấy ông đã cho ra đời một bài thơ lục bát, lấy tiêu đề là “Chiều trên sông”. Sau này, Huy Cận đổi tên thành “Tràng giang” và viết lại theo thể thất ngôn tự do, in trong tập Lửa thiêng.

    Nhan đề “Tràng giang” là từ Hán – Việt gợi lên sắc thái trang trọng và cổ kính. Điệp vần “ang” tạo ấn tượng về một dòng sông rộng lớn, mênh mang, vô tận. Chỉ qua nhan đề, tác giả không chỉ gợi được chiều dài mà còn cả chiều rộng và chiều sâu của dòng sông.

Câu thơ đề từ mở ra một không gian rộng lớn mang tầm vũ trụ: có chiều rộng bát ngát của bầu trời, chiều dài vô tận của dòng chảy, chiều cao giữa trời và nước. Chính giữa không gian rợn ngợp như thế làm con người ta cảm thấy cô đơn, nhỏ nhoi, nhung nhớ một điều gì đó xa xôi

Khổ thơ thứ nhất là nét bút chấm phá vẽ lên bức tranh sông nước rộng mênh mang nhưng buồn vắng.   “Sóng và thuyền” không có gì đáng buồn nhưng chính cụm từ “buồn điệp điệp” đã làm cho cảnh trở nên mênh mông và xa vắng. Từ “điệp điệp” từ xưa đến nay thường dùng để hình dung, miêu tả những hình ảnh thiên nhiên như sóng, núi giờ đây được Huy Cận dùng để nói về nỗi buồn. Điều này làm cho nỗi buồn không còn vô hình mà trở nên hữu hình, cụ thể. Đó là nỗi buồn dai dẳng, triền miên, thường trực trong tâm trí. Câu thơ đã bộc lộ tâm trạng của nhân vật trữ tình khi đứng trước cảnh trời rộng sông dài. Câu thơ mang âm hưởng cổ kính của thơ Đường với nghệ thuật đối từ, đối ý: sóng – thuyền; điệp điệp – song song. Tuy vậy, xét đến cùng, sức mạnh của hai câu thơ đầu tiên không phải ở nghệ thuật miêu tả mà ở nghệ thuật khơi gợi – khơi gợi được cả cảm xúc và ấn tượng về một nỗi buồn triền miên kéo dài theo không gian (tràng giang) và thời gian (điệp điệp).

 Đến khổ thơ thứ hai, dường như nỗi buồn vắng, đìu hiu càng lan tỏa và thấm sâu. Đến hai câu thơ này, không gian như được mở rộng ra cả ba chiều. Từ “cao” chỉ độ cao vật lý của bầu trời, nó thuần tuý tả cảnh; còn từ “sâu” vừa tả cảnh vừa tả tình và hàm súc hơn. Huy Cận đã giải thích về cụm từ “sâu chót vót” như thế này: “Từng vạt nắng từ trên cao rơi xuống tạo nên một khoảng sâu thăm thẳm trên bầu trời. Tôi dùng chữ “sâu” chứ không dùng chữ “cao”,  bởi vì “cao chót vót” thì thường quá. Ở đây không gian được mở ra ba chiều....tạo nên một vũ trụ rộng lớn và thể hiện một nỗi buồn tưởng như vô tận”.(Về bài thơ “Tràng giang” - Huy Cận)

    Trong mạch cảm xúc gợi ra từ hai khổ đầu ấy, sang đến khổ 3, nỗi buồn càng được khắc sâu hơn. Trên khung cảnh vắng lặng một cách tuyệt đối ấy chỉ có. Ở câu thơ thứ nhất, ta thấy xuất hiện 1 hình ảnh rất quen thuộc, đó là hình ảnh những cánh bèo trôi dạt lênh đênh. Ta thấy trong ca dao, dân ca, và thơ trung đại hình ảnh cánh bèo cũng hay được sử dụng khi nói về thân phận người phụ nữ: “Thân em như lá bèo trôi”, “Nghĩ mình mặt nước cánh bèo/ Đã nhiều lưu lạc lại nhiều gian truân”,...

     Hình ảnh ẩn dụ những cánh bèo không biết trôi dạt về đâu và những bờ xanh bãi vàng nối tiếp nhau lặng lẽ gợi cho người đọc liên tưởng đến thân phận nhỏ bé của con người trong xã hội. Cùng với  hình ảnh cành củi khô lạc mấy dòng ở khổ một, nó cho thấy sự hoang mang của Huy Cận trong việc tìm ra con đường đi cho mình. Đứng trước cảnh vũ trụ cao rộng và hoang vắng ấy con người càng rợn ngợp trong nỗi cô đơn triền miên.

Toàn cảnh sông dài, trời rộng mà tuyệt nhiên không có bóng dáng con người. Ngay đến những vật để nối đôi bờ như cầu, như đò cũng chẳng có (“Không một chuyến đò”, “không cầu gợi chút niềm thân mật”), mà chỉ có thiên nhiên nối tiếp thiên nhiên. Không có cầu, là không có sự trao đổi, không tìm thấy dù chỉ một chút niềm thân mật của tình người. Ta thấy, nhân vật trữ tình ở đây không chỉ cô đơn khi đứng trước thiên nhiên rợn ngợp, mà còn cô đơn trong chính xã hội mà ở đó, con người chán nản vì mất đi chủ quyền, tự giam hãm bản thân mà không có sự giao lưu, chia sẻ với nhau.Vì thế, nỗi buồn của bài thơ không chỉ là nỗi buồn mênh mông trước trời rộng sông dài mà còn là nỗi buồn nhân thế

Sang đến khổ thơ thứ tư. Trong văn chương Việt Nam cánh chim là một thi tứ quen thuộc để miêu tả buổi chiều. Nhưng trong “Tràng giang”, dường như cánh chim ấy có phần nhỏ bé và cô đơn hơn bởi nhà thơ đã đặt nó trong một không gian rộng lớn và bao la của vũ trụ. Cánh chim nhỏ là biểu hiện của sự sống và khát vọng. Tuy nhiên, sự xuất hiện của nó vẫn không làm cho không gian vơi đi niềm quạnh vắng. Cánh chim nhỏ nhoi, bé bỏng cô đơn và mông lung hơn trước cảnh sông nước mây trời bao la. 

    “Dợn dợn” là từ láy vô cùng sáng tạo, gợi cảm giác về một nỗi buồn miên man, vô hạn. Nếu ở “Hoàng Hạc lâu”, Thôi Hiệu cần mượn khói sóng để bộc lộ nỗi nhớ quê hương thì ở đây, Huy Cận “Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”. Có thể thấy, nỗi nhớ dường như trở nên thường trực và cháy bỏng hơn. 

    Như vậy, đi suốt bài thơ là một nỗi buồn triền miên, vô tận. Nỗi buồn của bài thơ này cũng như phần nhiều nỗi buồn của các nhà thơ mới trong những năm thời thuộc Pháp. Về nội dung, bài thơ đem đến người đọc bức tranh thiên nhiên sông nước gần gũi quen thuộc nhưng vắng lặng và bức tranh tâm trạng mang trĩu nặng nỗi sầu. Cùng với đó là niềm khát khao giao cảm với cuộc đời, lòng yêu nước tuy thầm kín nhưng không kém phần thiết tha của nhà thơ. Về nghệ thuật, bài thơ đặc sắc ở chỗ nó có sự kết hợp hài hòa giữa bút pháp cổ điển và hiện đại. Cổ kính, trang nghiêm, đậm chất Đường thi nhưng “Tràng giang” vẫn là bài thơ mang nét hiện đại khi sử dụng những hình ảnh gần gũi, tầm thường để qua đó bộc lộ cảm xúc, nỗi niềm của nhân vật trữ tình. Đây cũng là nét độc đáo điển hình trong phong cách thơ Huy Cận trước Cách mạng tháng Tám.

Câu 2: Nhà thơ Huy Cận đã từng viết: “Chàng Huy Cận khi xưa hay sầu lắm.”

Em hãy làm rõ điều này thông qua việc phân tích tác phẩm “Tràng giang” của Huy Cận.

Bài viết tham khảo

Thơ Huy Cận sau Cách mạng Tháng Tám là một hồn thơ dạt dào nhựa sống thời đại, nó mang dấu ấn từ truyền thống dân tộc đến những tầng sâu văn hóa của đời sống con người Việt Nam.Khi nhìn về bản thân thời trẻ, Huy Cận từng viết: “Chàng Huy Cận khi xưa hay sầu lắm.” Và nỗi sầu của Huy Cận đã được nhà thơ thể hiện vô cùng tha thiết thông qua tác phẩm “Tràng giang”.

Nói về cảm hứng viết nên bài thơ “Tràng giang”, Huy Cận chia sẻ rằng vào khoảng những năm 1939, Huy Cận theo học tại một trường ở Hà Nội. Ông có thói quen đạp xe dọc đê vào mỗi buổi chiều thứ bảy để hóng gió và ngắm cảnh sông Hồng. Bài “Tràng giang” ra đời trong một buổi chiều như thế. Đứng ở bãi Chèm, nhìn cảnh sông nước mênh mông, nỗi nhớ quê hương, nỗi sầu lo, thương cảm về đất nước về kiếp người cuộn tràn trong tâm trí nhà thơ. Ngay hôm ấy ông đã cho ra đời một bài thơ lục bát, lấy tiêu đề là “Chiều trên sông”. Sau này, Huy Cận đổi tên thành “Tràng giang” và viết lại theo thể thất ngôn tự do, in trong tập Lửa thiêng.

Câu thơ đề từ: “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài” đã dẫn dắt ta vào bài thơ, cũng là dẫn dắt vào nỗi buồn mênh mang theo chiều không gian rộng lớn của dòng sông.

Khổ thơ thứ nhất là nét bút chấm phá vẽ lên bức tranh sông nước rộng mênh mang nhưng buồn vắng “Sóng và thuyền” không có gì đáng buồn nhưng chính cụm từ “buồn điệp điệp” đã làm cho cảnh trở nên mênh mông và xa vắng. Từ “điệp điệp” từ xưa đến nay thường dùng để hình dung, miêu tả những hình ảnh thiên nhiên như sóng, núi giờ đây được Huy Cận dùng để nói về nỗi buồn. Điều này làm cho nỗi buồn không còn vô hình mà trở nên hữu hình, cụ thể. Đó là nỗi buồn dai dẳng, triền miên, thường trực trong tâm trí. Câu thơ đã bộc lộ tâm trạng của nhân vật trữ tình khi đứng trước cảnh trời rộng sông dài. Câu thơ mang âm hưởng cổ kính của thơ Đường với nghệ thuật đối từ, đối ý: sóng – thuyền; điệp điệp – song song. Tuy vậy, xét đến cùng, sức mạnh của hai câu thơ đầu tiên không phải ở nghệ thuật miêu tả mà ở nghệ thuật khơi gợi – khơi gợi được cả cảm xúc và ấn tượng về một nỗi buồn triền miên kéo dài theo không gian (tràng giang) và thời gian (điệp điệp).

Nếu như các phép đối ý, đối xứng cùng với các thi liệu, hình ảnh quen thuộc như con thuyền, sóng nước làm cho khổ thơ phảng phất hương vị cổ điển của Đường thi thì việc xuất hiện hình ảnh một cành củi khô nhỏ nhoi, tầm thường ở câu thứ tư đã thổi vào làn gió mới, khẳng định rằng đây là một bài thơ Mới. Bởi ở văn thơ trung đại, khi sáng tác, người ta chỉ tập trung nói đến những hình ảnh trang nhã, đẹp đẽ như tùng, cúc, trúc, mai, trăng, gió... chứ không đề cập tới những hình ảnh dân dã, tầm thường như cành củi khô. Sự đối lập giữa cành củi khô và dòng sông làm người đọc liên tưởng đến thân phận con người trong xã hội đương thời. Có thể thấy nỗi buồn của Huy Cận ở đây không chỉ là nỗi buồn cá nhân mà đó là nỗi buồn của cả một thế hệ thanh niên không tìm ra lối thoát cho đời mình. Đồng thời, chỉ thông qua khổ thơ thứ nhất, chúng ta cũng đã thấy được phần nào nét cổ điển cũng như hiện đại trong thơ Huy Cận.

Đến khổ thơ thứ hai, dường như nỗi buồn vắng, đìu hiu càng lan tỏa và thấm sâu. 

Hơn nữa, cặp từ láy “lơ thơ” và “đìu hiu” càng gợi lên sự buồn bã, quạnh vắng, cô đơn của không gian vũ trụ. Câu “Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều” xưa nay vẫn tồn tại hai cách hiểu xuất phát từ cách hiểu từ “đâu” (có và không có tiếng chợ chiều). Tuy vậy, dẫu hiểu theo cách nào thì hình ảnh chợ chiều đã vãn trong câu thơ cũng gợi thêm một nét buồn vắng, thê lương cho cảnh sắc.

Đến hai câu thơ này, không gian như được mở rộng ra cả ba chiều. Từ “cao” chỉ độ cao vật lý của bầu trời, nó thuần tuý tả cảnh; còn từ “sâu” vừa tả cảnh vừa tả tình và hàm súc hơn. Huy Cận đã giải thích về cụm từ “sâu chót vót” như thế này: “Từng vạt nắng từ trên cao rơi xuống tạo nên một khoảng sâu thăm thẳm trên bầu trời. Tôi dùng chữ “sâu” chứ không dùng chữ “cao”,  bởi vì “cao chót vót” thì thường quá. Ở đây không gian được mở ra ba chiều....tạo nên một vũ trụ rộng lớn và thể hiện một nỗi buồn tưởng như vô tận” (Về bài thơ “Tràng giang” - Huy Cận)

Tính từ “chót vót” tô đậm thêm cảm giác mênh mông của vũ trụ. Đứng trước khung cảnh ấy con người dường như nhỏ bé và cảm thấy cô liêu. Hai câu thơ thể hiện cuộc sống quạnh quẽ trong xã hội đương thời mà mỗi người là một ốc đảo hoang vắng cô liêu.

Trong mạch cảm xúc gợi ra từ hai khổ đầu ấy, sang đến khổ 3, nỗi buồn càng được khắc sâu hơn. Trên khung cảnh vắng lặng một cách tuyệt đối ấy chỉ có:

Ở câu thơ thứ nhất, ta thấy xuất hiện 1 hình ảnh rất quen thuộc, đó là hình ảnh những cánh bèo trôi dạt lênh đênh. Ta thấy trong ca dao, dân ca, và thơ trung đại hình ảnh cánh bèo cũng hay được sử dụng khi nói về thân phận người phụ nữ: “Thân em như lá bèo trôi”, “Nghĩ mình mặt nước cánh bèo/ Đã nhiều lưu lạc lại nhiều gian truân”,...

Hình ảnh ẩn dụ những cánh bèo không biết trôi dạt về đâu và những bờ xanh bãi vàng nối tiếp nhau lặng lẽ gợi cho người đọc liên tưởng đến thân phận nhỏ bé của con người trong xã hội. Cùng với  hình ảnh cành củi khô lạc mấy dòng ở khổ một, nó cho thấy sự hoang mang của Huy Cận trong việc tìm ra con đường đi cho mình.

Đứng trước cảnh vũ trụ cao rộng và hoang vắng ấy con người càng rợn ngợp trong nỗi cô đơn triền miên.

Toàn cảnh sông dài, trời rộng mà tuyệt nhiên không có bóng dáng con người. Ngay đến những vật để nối đôi bờ như cầu, như đò cũng chẳng có (“Không một chuyến đò”, “không cầu gợi chút niềm thân mật”), mà chỉ có thiên nhiên nối tiếp thiên nhiên. Không có cầu, là không có sự trao đổi, không tìm thấy dù chỉ một chút niềm thân mật của tình người. Ta thấy, nhân vật trữ tình ở đây không chỉ cô đơn khi đứng trước thiên nhiên rợn ngợp, mà còn cô đơn trong chính xã hội mà ở đó, con người chán nản vì mất đi chủ quyền, tự giam hãm bản thân mà không có sự giao lưu, chia sẻ với nhau.Vì thế, nỗi buồn của bài thơ không chỉ là nỗi buồn mênh mông trước trời rộng sông dài mà còn là nỗi buồn nhân thế.

Sang đến khổ thơ thứ tư, nỗi nhớ quê hương của nhà thơ hiện lên trong cảnh thiên nhiên rợn ngợp. Từ “buồn điệp điệp”, “sầu trăm ngả” ở những khổ thơ trên, đến đây nỗi sầu thi sĩ đã dâng lên trùng trùng, “lớp lớp” tràn ngập cả bầu trời. Huy Cận đã mượn một số cách diễn đạt của thơ Đường để rồi từ đó sáng tạo nên ý thơ của mình. Hình ảnh ước lệ, cổ điển: mây, chim... vẽ lên bức tranh chiều tà đẹp tráng lệ và thơ mộng. “Mây”  nhiều, vô số tầng bậc, chữ “đùn” tạo cảm giác áng mây chuyển động, có nội lực từ bên trong, từng lớp mây cứ đùn ra mãi. Và, trên cảnh mây trời, sông nước buồn vắng nhưng đẹp đẽ, hùng vĩ ấy, đột nhiên xuất hiện con chim “nghiêng cánh” bay như hút lấy nắng hoàng hôn cùng “bóng chiều”, tạo cảm giác như chỉ cần bóng chim khẽ chao nghiêng là cả bóng chiều sẽ sa xuống vậy.

Trong văn chương Việt Nam cánh chim là một thi tứ quen thuộc để miêu tả buổi chiều. Nhưng trong “Tràng giang”, dường như cánh chim ấy có phần nhỏ bé và cô đơn hơn bởi nhà thơ đã đặt nó trong một không gian rộng lớn và bao la của vũ trụ. Cánh chim nhỏ là biểu hiện của sự sống và khát vọng. Tuy nhiên, sự xuất hiện của nó vẫn không làm cho không gian vơi đi niềm quạnh vắng. Cánh chim nhỏ nhoi, bé bỏng cô đơn và mông lung hơn trước cảnh sông nước mây trời bao la. “Dợn dợn” là từ láy vô cùng sáng tạo, gợi cảm giác về một nỗi buồn miên man, vô hạn. Nếu ở “Hoàng Hạc lâu”, Thôi Hiệu cần mượn khói sóng để bộc lộ nỗi nhớ quê hương thì ở đây, Huy Cận “Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”. Có thể thấy, nỗi nhớ dường như trở nên thường trực và cháy bỏng hơn.

Cùng là những nhà thơ của phong trào Thơ Mới, nhưng nếu Vội vàng của Xuân Diệu là một thi giới mạnh mẽ, mãnh liệt, nồng nàn thì “Tràng giang” của Huy Cận lại được các nhà phê bình đánh giá là hồn thơ thuộc về nỗi sầu nhân thế cố hữu, phảng phất âm vị thơ cổ điển. Nỗi sầu ấy tràn ngập trong thơ Huy Cận đến mức, sau này nhìn lại, Huy Cận đã nhìn nhận phong cách của bản thân giai đoạn Trước Cách mạng Tháng Tám rằng: “Chàng Huy Cận khi xưa hay sầu lắm.”

Câu 3: Bức tranh tâm trạng trong bài thơ “Tràng giang”

Bài viết tham khảo

Từ năm 1930, văn học Việt Nam bắt đầu có những bước chuyển mình mạnh mẽ với sự xuất hiện của làn sóng thơ mới cùng những cá tính sáng tác độc đáo. Các nhà thơ say sưa thể hiện cái tôi cá nhân và không còn bị gò bó trong khuôn sáo cũ kĩ của văn thơ trung đại. Nếu Xuân Diệu luôn mang trong mình nỗi ám ảnh về thời gian thì người bạn tri kỉ của ông, Huy Cận lại luôn chìm đắm trong cảm thức về không gian vũ trụ. Huy Cận tỏ ra rất nhạy cảm với không gian rộng lớn và thời gian vĩnh hằng. Những điều ấy được thể hiện rõ nét trong “Tràng giang”, một trong những bài thơ xuất sắc nhất của ông.

Vào khoảng những năm 1939, Huy Cận theo học tại một trường ở Hà Nội. Ông có thói quen đạp xe dọc đê vào mỗi buổi chiều thứ bảy để hóng gió và ngắm cảnh sông Hồng. Bài “Tràng giang” ra đời trong một buổi chiều như thế. Đứng ở bãi Chèm, nhìn cảnh sông nước mênh mông, nỗi nhớ quê hương, nỗi sầu lo, thương cảm về đất nước về kiếp người cuộn tràn trong tâm trí nhà thơ. Ngay hôm ấy ông đã cho ra đời một bài thơ lục bát, lấy tiêu đề là “Chiều trên sông”. Sau này, Huy Cận đổi tên thành “Tràng giang” và viết lại theo thể thất ngôn tự do, in trong tập Lửa thiêng.

Có thể thấy rằng chính lời đề từ tuy nằm ngoài bài thơ, nhưng lại đúc kết nội dung tư tưởng và ý đồ nghệ thuật của tác giả đó chính là ‘Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài”. Có thể coi cảm xúc trong câu thơ này là nguồn thi hứng để thi sĩ sáng tác nên bài thơ “Tràng giang” bất hủ. Dường như nó cũng đã khiến cho không chỉ “cái tôi trữ tình” nặng trĩu nhớ nhung, mà đất trời sông núi cũng tràn ngập bâng khuâng, nhung nhớ. Có lẽ cái độc đáo của câu thơ này chính là sự giao thoa của cả hai nghĩa ấy. Nhà thơ tài năng Huy Cận đã triển khai cảm hứng nêu ở câu thơ để từ một cách hoàn hảo trong suốt thi phẩm của mình.

Nếu như những câu thơ trên mở ra với hình ảnh những lớp sóng tiếp nối nhau điệp điệp thì ở câu dưới nó lại được đặc tả qua hình ảnh con thuyên xuôi mái theo những luồng nước song song rong ruổi về mãi cuối trời. “Sóng và thuyền” không có gì đáng buồn nhưng chính cụm từ “buồn điệp điệp” đã làm cho cảnh trở nên mênh mông và xa vắng. Từ “điệp điệp” từ xưa đến nay thường dùng để hình dung, miêu tả những hình ảnh thiên nhiên như sóng, núi giờ đây được Huy Cận dùng để nói về nỗi buồn. Điều này làm cho nỗi buồn không còn vô hình mà trở nên hữu hình, cụ thể. Đó là nỗi buồn dai dẳng, triền miên, thường trực trong tâm trí. Câu thơ đã bộc lộ tâm trạng của nhân vật trữ tình khi đứng trước cảnh trời rộng sông dài.

Sự đối lập giữa cành củi khô và dòng sông làm người đọc liên tưởng đến thân phận con người trong xã hội đương thời. Có thể thấy nỗi buồn của Huy Cận ở đây không chỉ là nỗi buồn cá nhân mà đó là nỗi buồn của cả một thế hệ thanh niên không tìm ra lối thoát cho đời mình.

Và rồi cho đến khổ thơ thứ hai, bức tranh tràng giang có thêm cảnh, thêm người nhưng nỗi buồn không vơi mà như càng thấm sâu vào cảnh vật. Huy Cận dường như cũng đã tập trung tất cả hình ảnh, nhạc điệu để làm nổi bật lên nỗi buồn thấm thía của con người trước sông dài trời rộng. Có thể thấy rằng nỗi buồn được gợi lên từ mặt nước mênh mông, đôi bờ hoang vắng, từ một cồn nhỏ lơ thơ heo hút, dăm bụi cây phơ phất trong gió lạnh đìu hiu.

Hơn nữa, cặp từ láy “lơ thơ” và “đìu hiu” càng gợi lên sự buồn bã, quạnh vắng, cô đơn của không gian vũ trụ. Từ làng xa vẳng lại tiếng chợ chiều đang vãn, tuy có hơi hướng con người nhưng âm thanh mong manh mơ hồ như từ cõi nào vọng lại làm dấy lên trong lòng lữ khách nỗi khát khao được gặp gỡ và chia sẻ tâm tình.

Có lẽ nỗi buồn đã và đang lan toả ra hết chiều cao, chiều rộng của bến bãi, mặt nước, bầu trời. Ở đây, người đọc bắt gặp những cảm nhận hết sức tinh tế, kì diệu của nhà thơ đó là cách cảm nhận về độ cao, độ sâu đến rợn ngợp của bầu trời và khoảng cách vô tận giữa trời và nước. Cách dùng từ “sâu chót vót” tạo nên ấn tượng sông thêm dài, trời thêm rộng và bến sông vốn đã vắng vẻ lại càng cô liêu hơn, quạnh quẽ hơn.

Cảnh vật vẫn hết sức quạnh vắng. Toàn cảnh sông nước trời rộng tuyệt nhiên không có bóng dáng của con người: “không một chuyến đò” và cũng không có lấy một nhịp cầu nối giữa đôi bờ tạo nên sự gần gũi giữa con người với con người mà chỉ có thiên nhiên với thiên nhiên xa vắng hoang vu. Vì vậy, nỗi buồn của bài thơ này không chỉ là nỗi buồn trước trời rộng, sông dài mà còn là nỗi buồn về nhân thế, về cuộc đời.

Sang đến khổ thơ thứ tư, từ “buồn điệp điệp”, “sầu trăm ngả” ở những khổ thơ trên, đến đây nỗi sầu thi sĩ đã dâng lên trùng trùng, “lớp lớp” tràn ngập cả bầu trời. Trong văn chương Việt Nam cánh chim là một thi tứ quen thuộc để miêu tả buổi chiều. Nhưng trong “Tràng giang”, dường như cánh chim ấy có phần nhỏ bé và cô đơn hơn bởi nhà thơ đã đặt nó trong một không gian rộng lớn và bao la của vũ trụ. Cánh chim nhỏ là biểu hiện của sự sống và khát vọng. Tuy nhiên, sự xuất hiện của nó vẫn không làm cho không gian vơi đi niềm quạnh vắng. Cánh chim nhỏ nhoi, bé bỏng cô đơn và mông lung hơn trước cảnh sông nước mây trời bao la. “Dợn dợn” là từ láy vô cùng sáng tạo, gợi cảm giác về một nỗi buồn miên man, vô hạn. Nếu ở “Hoàng Hạc lâu”, Thôi Hiệu cần mượn khói sóng để bộc lộ nỗi nhớ quê hương thì ở đây, Huy Cận “Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”. Có thể thấy, nỗi nhớ dường như trở nên thường trực và cháy bỏng hơn.

Như vậy, đi suốt bài thơ là một nỗi buồn triền miên, vô tận. Nỗi buồn của bài thơ này cũng như phần nhiều nỗi buồn của các nhà thơ mới trong những năm thời thuộc Pháp. Về nội dung, bài thơ đem đến người đọc bức tranh thiên nhiên sông nước gần gũi quen thuộc nhưng vắng lặng và bức tranh tâm trạng mang trĩu nặng nỗi sầu. Cùng với đó là niềm khát khao giao cảm với cuộc đời, lòng yêu nước tuy thầm kín nhưng không kém phần thiết tha của nhà thơ. Về nghệ thuật, bài thơ đặc sắc ở chỗ nó có sự kết hợp hài hòa giữa bút pháp cổ điển và hiện đại. Cổ kính, trang nghiêm, đậm chất Đường thi nhưng “Tràng giang” vẫn là bài thơ mang nét hiện đại khi sử dụng những hình ảnh gần gũi, tầm thường để qua đó bộc lộ cảm xúc, nỗi niềm của nhân vật trữ tình. Đây cũng là nét độc đáo điển hình trong phong cách thơ Huy Cận trước Cách mạng tháng Tám.

III. Soạn bài ngắn nhất: Tràng giang

Câu 1: Qua câu thơ đề từ ta thấy được nỗi niềm của nhà thơ là cảm giác buồn sầu trước dòng sông rộng lớn, đồng thời cảm nhận được nỗi nhớ da diết của tác giả.

Mối lên hệ với bức tranh thiên nhiên và tâm trạng nhà thơ là nỗi buồn sầu lan tỏa, nhẹ nhàng mà sâu lắng đồng thời tạo nên vẻ đẹp hài hòa, vừa cổ điển vừa hiện đại.

Câu 2: Âm điệu chung của bài thơ là âm điệu buồn lặng lẽ, bâng khuâng, man mác da diết, sầu lặng. Nổi bật trong suốt bài thơ là âm điệu buồn – đều đều, dập dềnh như sông nước ở trên sông chủ yếu là nhịp thơ 2/2/3 và thanh điệu có sự hoán vị bằng trắc đều đặn, cấu trúc đăng đối giữa các câu thơ.

Câu 3: Bức tranh thiên nhiên không gian mênh mong, cảnh vật hiu quạnh hình ảnh mang đậm sắc màu cổ điển. Tuy nhiên, bức tranh Tràng Giang vẫn gần gũi, thân thuộc vì:  cành củi khô, tiếng làng xa vãn chợ chiều. Hình ảnh, âm thanh giản dị, gần gũi, thanh đạm của cuộc sống, con người Việt Nam.

Câu 4: Tình yêu thiên nhiên ở đây có thấm đượm lòng yêu nước thầm kín qua bốn câu thơ cuối với những hình ảnh bức tranh chiều tà đẹp, hùng vĩ và vô cùng thơ mộng mang đến cho người đọc những cảm giác thân thuộc, gần gũi để rồi từ những cảnh quê. Huy Cận không cần đến thiên nhiên, tạo vật mà nó tìm ẩn và bộc phát tự nhiên chính vì thế nên nỗi nhớ quê càng da diết, sâu sắc hơn. Và cứ như thế nỗi buồn sâu lắng, nỗi nhớ quê da diết cứ chầm chậm chảy trên bề mặt khổ thơ cuối.

Câu 5: Bài thơ được tái hiện với nghệ thuật đặc sắc qua sự kết hợp hài hòa những thi liệu mang nét cổ điển với hiện đại, bút pháp tả cảnh giàu tính tạo hình, hệ thống từ láy giàu giá trị biểu cảm, nghệ thuật đối, cách ngắt nhịp 2/2/3 và thể thơ thất ngôntạo nên không khí trầm mặc, cổ kính của thơ đường.

Luyện tập

Câu 1: Cách cảm nhận không gian: Mang cảm hứng vũ trụ, cảm giác bao la, rộng lớn với không gian 3 chiều, không gian buồn hiu hắt, con sông không bóng người và vừa hùng vĩ, vừa cô đơn.

Cảm nhận thời gian: Thời gian ở đây là buổi chiều tà, cảm nhận thời gian vừa cụ thể, vừa gợi cảm lại thể hiện đúng tâm trạng buồn hiu hắt tác giả.

Câu 2: Rõ ràng Huy Cận có mượn ý thơ của Thôi Hiệu, tuy nhiên trong thơ Thôi Hiệu phải có khói và sóng là những hình ảnh thiên nhiên thì mới gợi lên nỗi nhớ nhà. Trong khi đó, trong thơ Xuân Diệu những hình ảnh thiên nhiên đó luôn thường trực và tự nhiên bộc phát cho nên nỗi nhớ của Huy Cận da diết và sâu lắng hơn.

Bài tham khảo thêm

Câu 1: Phân tích bài thơ Tràng giang

Bài viết tham khảo

Từ năm 1930, văn học Việt Nam bắt đầu có những bước chuyển mình mạnh mẽ với sự xuất hiện của làn sóng thơ mới cùng những cá tính sáng tác độc đáo. Các nhà thơ say sưa thể hiện cái tôi cá nhân và không còn bị gò bó trong khuôn sáo cũ kĩ của văn thơ trung đại. Nếu Xuân Diệu luôn mang trong mình nỗi ám ảnh về thời gian thì người bạn tri kỉ của ông, Huy Cận lại luôn chìm đắm trong cảm thức về không gian vũ trụ. Huy Cận tỏ ra rất nhạy cảm với không gian rộng lớn và thời gian vĩnh hằng. Những điều ấy được thể hiện rõ nét trong “Tràng giang”, một trong những bài thơ xuất sắc nhất của ông.

    Vào khoảng những năm 1939, Huy Cận theo học tại một trường ở Hà Nội. Ông có thói quen đạp xe dọc đê vào mỗi buổi chiều thứ bảy để hóng gió và ngắm cảnh sông Hồng. Bài “Tràng giang” ra đời trong một buổi chiều như thế. Đứng ở bãi Chèm, nhìn cảnh sông nước mênh mông, nỗi nhớ quê hương, nỗi sầu lo, thương cảm về đất nước về kiếp người cuộn tràn trong tâm trí nhà thơ. Ngay hôm ấy ông đã cho ra đời một bài thơ lục bát, lấy tiêu đề là “Chiều trên sông”. Sau này, Huy Cận đổi tên thành “Tràng giang” và viết lại theo thể thất ngôn tự do, in trong tập Lửa thiêng.

    Nhan đề “Tràng giang” là từ Hán – Việt gợi lên sắc thái trang trọng và cổ kính. Điệp vần “ang” tạo ấn tượng về một dòng sông rộng lớn, mênh mang, vô tận. Chỉ qua nhan đề, tác giả không chỉ gợi được chiều dài mà còn cả chiều rộng và chiều sâu của dòng sông.

Câu thơ đề từ mở ra một không gian rộng lớn mang tầm vũ trụ: có chiều rộng bát ngát của bầu trời, chiều dài vô tận của dòng chảy, chiều cao giữa trời và nước. Chính giữa không gian rợn ngợp như thế làm con người ta cảm thấy cô đơn, nhỏ nhoi, nhung nhớ một điều gì đó xa xôi

Khổ thơ thứ nhất là nét bút chấm phá vẽ lên bức tranh sông nước rộng mênh mang nhưng buồn vắng.   “Sóng và thuyền” không có gì đáng buồn nhưng chính cụm từ “buồn điệp điệp” đã làm cho cảnh trở nên mênh mông và xa vắng. Từ “điệp điệp” từ xưa đến nay thường dùng để hình dung, miêu tả những hình ảnh thiên nhiên như sóng, núi giờ đây được Huy Cận dùng để nói về nỗi buồn. Điều này làm cho nỗi buồn không còn vô hình mà trở nên hữu hình, cụ thể. Đó là nỗi buồn dai dẳng, triền miên, thường trực trong tâm trí. Câu thơ đã bộc lộ tâm trạng của nhân vật trữ tình khi đứng trước cảnh trời rộng sông dài. Câu thơ mang âm hưởng cổ kính của thơ Đường với nghệ thuật đối từ, đối ý: sóng – thuyền; điệp điệp – song song. Tuy vậy, xét đến cùng, sức mạnh của hai câu thơ đầu tiên không phải ở nghệ thuật miêu tả mà ở nghệ thuật khơi gợi – khơi gợi được cả cảm xúc và ấn tượng về một nỗi buồn triền miên kéo dài theo không gian (tràng giang) và thời gian (điệp điệp).

 Đến khổ thơ thứ hai, dường như nỗi buồn vắng, đìu hiu càng lan tỏa và thấm sâu. Đến hai câu thơ này, không gian như được mở rộng ra cả ba chiều. Từ “cao” chỉ độ cao vật lý của bầu trời, nó thuần tuý tả cảnh; còn từ “sâu” vừa tả cảnh vừa tả tình và hàm súc hơn. Huy Cận đã giải thích về cụm từ “sâu chót vót” như thế này: “Từng vạt nắng từ trên cao rơi xuống tạo nên một khoảng sâu thăm thẳm trên bầu trời. Tôi dùng chữ “sâu” chứ không dùng chữ “cao”,  bởi vì “cao chót vót” thì thường quá. Ở đây không gian được mở ra ba chiều....tạo nên một vũ trụ rộng lớn và thể hiện một nỗi buồn tưởng như vô tận”.(Về bài thơ “Tràng giang” - Huy Cận)

    Trong mạch cảm xúc gợi ra từ hai khổ đầu ấy, sang đến khổ 3, nỗi buồn càng được khắc sâu hơn. Trên khung cảnh vắng lặng một cách tuyệt đối ấy chỉ có. Ở câu thơ thứ nhất, ta thấy xuất hiện 1 hình ảnh rất quen thuộc, đó là hình ảnh những cánh bèo trôi dạt lênh đênh. Ta thấy trong ca dao, dân ca, và thơ trung đại hình ảnh cánh bèo cũng hay được sử dụng khi nói về thân phận người phụ nữ: “Thân em như lá bèo trôi”, “Nghĩ mình mặt nước cánh bèo/ Đã nhiều lưu lạc lại nhiều gian truân”,...

     Hình ảnh ẩn dụ những cánh bèo không biết trôi dạt về đâu và những bờ xanh bãi vàng nối tiếp nhau lặng lẽ gợi cho người đọc liên tưởng đến thân phận nhỏ bé của con người trong xã hội. Cùng với  hình ảnh cành củi khô lạc mấy dòng ở khổ một, nó cho thấy sự hoang mang của Huy Cận trong việc tìm ra con đường đi cho mình. Đứng trước cảnh vũ trụ cao rộng và hoang vắng ấy con người càng rợn ngợp trong nỗi cô đơn triền miên.

Toàn cảnh sông dài, trời rộng mà tuyệt nhiên không có bóng dáng con người. Ngay đến những vật để nối đôi bờ như cầu, như đò cũng chẳng có (“Không một chuyến đò”, “không cầu gợi chút niềm thân mật”), mà chỉ có thiên nhiên nối tiếp thiên nhiên. Không có cầu, là không có sự trao đổi, không tìm thấy dù chỉ một chút niềm thân mật của tình người. Ta thấy, nhân vật trữ tình ở đây không chỉ cô đơn khi đứng trước thiên nhiên rợn ngợp, mà còn cô đơn trong chính xã hội mà ở đó, con người chán nản vì mất đi chủ quyền, tự giam hãm bản thân mà không có sự giao lưu, chia sẻ với nhau.Vì thế, nỗi buồn của bài thơ không chỉ là nỗi buồn mênh mông trước trời rộng sông dài mà còn là nỗi buồn nhân thế

Sang đến khổ thơ thứ tư. Trong văn chương Việt Nam cánh chim là một thi tứ quen thuộc để miêu tả buổi chiều. Nhưng trong “Tràng giang”, dường như cánh chim ấy có phần nhỏ bé và cô đơn hơn bởi nhà thơ đã đặt nó trong một không gian rộng lớn và bao la của vũ trụ. Cánh chim nhỏ là biểu hiện của sự sống và khát vọng. Tuy nhiên, sự xuất hiện của nó vẫn không làm cho không gian vơi đi niềm quạnh vắng. Cánh chim nhỏ nhoi, bé bỏng cô đơn và mông lung hơn trước cảnh sông nước mây trời bao la. 

    “Dợn dợn” là từ láy vô cùng sáng tạo, gợi cảm giác về một nỗi buồn miên man, vô hạn. Nếu ở “Hoàng Hạc lâu”, Thôi Hiệu cần mượn khói sóng để bộc lộ nỗi nhớ quê hương thì ở đây, Huy Cận “Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”. Có thể thấy, nỗi nhớ dường như trở nên thường trực và cháy bỏng hơn. 

    Như vậy, đi suốt bài thơ là một nỗi buồn triền miên, vô tận. Nỗi buồn của bài thơ này cũng như phần nhiều nỗi buồn của các nhà thơ mới trong những năm thời thuộc Pháp. Về nội dung, bài thơ đem đến người đọc bức tranh thiên nhiên sông nước gần gũi quen thuộc nhưng vắng lặng và bức tranh tâm trạng mang trĩu nặng nỗi sầu. Cùng với đó là niềm khát khao giao cảm với cuộc đời, lòng yêu nước tuy thầm kín nhưng không kém phần thiết tha của nhà thơ. Về nghệ thuật, bài thơ đặc sắc ở chỗ nó có sự kết hợp hài hòa giữa bút pháp cổ điển và hiện đại. Cổ kính, trang nghiêm, đậm chất Đường thi nhưng “Tràng giang” vẫn là bài thơ mang nét hiện đại khi sử dụng những hình ảnh gần gũi, tầm thường để qua đó bộc lộ cảm xúc, nỗi niềm của nhân vật trữ tình. Đây cũng là nét độc đáo điển hình trong phong cách thơ Huy Cận trước Cách mạng tháng Tám.

Câu 2: Nhà thơ Huy Cận đã từng viết: “Chàng Huy Cận khi xưa hay sầu lắm.”

Em hãy làm rõ điều này thông qua việc phân tích tác phẩm “Tràng giang” của Huy Cận.

Bài viết tham khảo

Thơ Huy Cận sau Cách mạng Tháng Tám là một hồn thơ dạt dào nhựa sống thời đại, nó mang dấu ấn từ truyền thống dân tộc đến những tầng sâu văn hóa của đời sống con người Việt Nam.Khi nhìn về bản thân thời trẻ, Huy Cận từng viết: “Chàng Huy Cận khi xưa hay sầu lắm.” Và nỗi sầu của Huy Cận đã được nhà thơ thể hiện vô cùng tha thiết thông qua tác phẩm “Tràng giang”.

Nói về cảm hứng viết nên bài thơ “Tràng giang”, Huy Cận chia sẻ rằng vào khoảng những năm 1939, Huy Cận theo học tại một trường ở Hà Nội. Ông có thói quen đạp xe dọc đê vào mỗi buổi chiều thứ bảy để hóng gió và ngắm cảnh sông Hồng. Bài “Tràng giang” ra đời trong một buổi chiều như thế. Đứng ở bãi Chèm, nhìn cảnh sông nước mênh mông, nỗi nhớ quê hương, nỗi sầu lo, thương cảm về đất nước về kiếp người cuộn tràn trong tâm trí nhà thơ. Ngay hôm ấy ông đã cho ra đời một bài thơ lục bát, lấy tiêu đề là “Chiều trên sông”. Sau này, Huy Cận đổi tên thành “Tràng giang” và viết lại theo thể thất ngôn tự do, in trong tập Lửa thiêng.

Câu thơ đề từ: “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài” đã dẫn dắt ta vào bài thơ, cũng là dẫn dắt vào nỗi buồn mênh mang theo chiều không gian rộng lớn của dòng sông.

Khổ thơ thứ nhất là nét bút chấm phá vẽ lên bức tranh sông nước rộng mênh mang nhưng buồn vắng “Sóng và thuyền” không có gì đáng buồn nhưng chính cụm từ “buồn điệp điệp” đã làm cho cảnh trở nên mênh mông và xa vắng. Từ “điệp điệp” từ xưa đến nay thường dùng để hình dung, miêu tả những hình ảnh thiên nhiên như sóng, núi giờ đây được Huy Cận dùng để nói về nỗi buồn. Điều này làm cho nỗi buồn không còn vô hình mà trở nên hữu hình, cụ thể. Đó là nỗi buồn dai dẳng, triền miên, thường trực trong tâm trí. Câu thơ đã bộc lộ tâm trạng của nhân vật trữ tình khi đứng trước cảnh trời rộng sông dài. Câu thơ mang âm hưởng cổ kính của thơ Đường với nghệ thuật đối từ, đối ý: sóng – thuyền; điệp điệp – song song. Tuy vậy, xét đến cùng, sức mạnh của hai câu thơ đầu tiên không phải ở nghệ thuật miêu tả mà ở nghệ thuật khơi gợi – khơi gợi được cả cảm xúc và ấn tượng về một nỗi buồn triền miên kéo dài theo không gian (tràng giang) và thời gian (điệp điệp).

Nếu như các phép đối ý, đối xứng cùng với các thi liệu, hình ảnh quen thuộc như con thuyền, sóng nước làm cho khổ thơ phảng phất hương vị cổ điển của Đường thi thì việc xuất hiện hình ảnh một cành củi khô nhỏ nhoi, tầm thường ở câu thứ tư đã thổi vào làn gió mới, khẳng định rằng đây là một bài thơ Mới. Bởi ở văn thơ trung đại, khi sáng tác, người ta chỉ tập trung nói đến những hình ảnh trang nhã, đẹp đẽ như tùng, cúc, trúc, mai, trăng, gió... chứ không đề cập tới những hình ảnh dân dã, tầm thường như cành củi khô. Sự đối lập giữa cành củi khô và dòng sông làm người đọc liên tưởng đến thân phận con người trong xã hội đương thời. Có thể thấy nỗi buồn của Huy Cận ở đây không chỉ là nỗi buồn cá nhân mà đó là nỗi buồn của cả một thế hệ thanh niên không tìm ra lối thoát cho đời mình. Đồng thời, chỉ thông qua khổ thơ thứ nhất, chúng ta cũng đã thấy được phần nào nét cổ điển cũng như hiện đại trong thơ Huy Cận.

Đến khổ thơ thứ hai, dường như nỗi buồn vắng, đìu hiu càng lan tỏa và thấm sâu. 

Hơn nữa, cặp từ láy “lơ thơ” và “đìu hiu” càng gợi lên sự buồn bã, quạnh vắng, cô đơn của không gian vũ trụ. Câu “Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều” xưa nay vẫn tồn tại hai cách hiểu xuất phát từ cách hiểu từ “đâu” (có và không có tiếng chợ chiều). Tuy vậy, dẫu hiểu theo cách nào thì hình ảnh chợ chiều đã vãn trong câu thơ cũng gợi thêm một nét buồn vắng, thê lương cho cảnh sắc.

Đến hai câu thơ này, không gian như được mở rộng ra cả ba chiều. Từ “cao” chỉ độ cao vật lý của bầu trời, nó thuần tuý tả cảnh; còn từ “sâu” vừa tả cảnh vừa tả tình và hàm súc hơn. Huy Cận đã giải thích về cụm từ “sâu chót vót” như thế này: “Từng vạt nắng từ trên cao rơi xuống tạo nên một khoảng sâu thăm thẳm trên bầu trời. Tôi dùng chữ “sâu” chứ không dùng chữ “cao”,  bởi vì “cao chót vót” thì thường quá. Ở đây không gian được mở ra ba chiều....tạo nên một vũ trụ rộng lớn và thể hiện một nỗi buồn tưởng như vô tận” (Về bài thơ “Tràng giang” - Huy Cận)

Tính từ “chót vót” tô đậm thêm cảm giác mênh mông của vũ trụ. Đứng trước khung cảnh ấy con người dường như nhỏ bé và cảm thấy cô liêu. Hai câu thơ thể hiện cuộc sống quạnh quẽ trong xã hội đương thời mà mỗi người là một ốc đảo hoang vắng cô liêu.

Trong mạch cảm xúc gợi ra từ hai khổ đầu ấy, sang đến khổ 3, nỗi buồn càng được khắc sâu hơn. Trên khung cảnh vắng lặng một cách tuyệt đối ấy chỉ có:

Ở câu thơ thứ nhất, ta thấy xuất hiện 1 hình ảnh rất quen thuộc, đó là hình ảnh những cánh bèo trôi dạt lênh đênh. Ta thấy trong ca dao, dân ca, và thơ trung đại hình ảnh cánh bèo cũng hay được sử dụng khi nói về thân phận người phụ nữ: “Thân em như lá bèo trôi”, “Nghĩ mình mặt nước cánh bèo/ Đã nhiều lưu lạc lại nhiều gian truân”,...

Hình ảnh ẩn dụ những cánh bèo không biết trôi dạt về đâu và những bờ xanh bãi vàng nối tiếp nhau lặng lẽ gợi cho người đọc liên tưởng đến thân phận nhỏ bé của con người trong xã hội. Cùng với  hình ảnh cành củi khô lạc mấy dòng ở khổ một, nó cho thấy sự hoang mang của Huy Cận trong việc tìm ra con đường đi cho mình.

Đứng trước cảnh vũ trụ cao rộng và hoang vắng ấy con người càng rợn ngợp trong nỗi cô đơn triền miên.

Toàn cảnh sông dài, trời rộng mà tuyệt nhiên không có bóng dáng con người. Ngay đến những vật để nối đôi bờ như cầu, như đò cũng chẳng có (“Không một chuyến đò”, “không cầu gợi chút niềm thân mật”), mà chỉ có thiên nhiên nối tiếp thiên nhiên. Không có cầu, là không có sự trao đổi, không tìm thấy dù chỉ một chút niềm thân mật của tình người. Ta thấy, nhân vật trữ tình ở đây không chỉ cô đơn khi đứng trước thiên nhiên rợn ngợp, mà còn cô đơn trong chính xã hội mà ở đó, con người chán nản vì mất đi chủ quyền, tự giam hãm bản thân mà không có sự giao lưu, chia sẻ với nhau.Vì thế, nỗi buồn của bài thơ không chỉ là nỗi buồn mênh mông trước trời rộng sông dài mà còn là nỗi buồn nhân thế.

Sang đến khổ thơ thứ tư, nỗi nhớ quê hương của nhà thơ hiện lên trong cảnh thiên nhiên rợn ngợp. Từ “buồn điệp điệp”, “sầu trăm ngả” ở những khổ thơ trên, đến đây nỗi sầu thi sĩ đã dâng lên trùng trùng, “lớp lớp” tràn ngập cả bầu trời. Huy Cận đã mượn một số cách diễn đạt của thơ Đường để rồi từ đó sáng tạo nên ý thơ của mình. Hình ảnh ước lệ, cổ điển: mây, chim... vẽ lên bức tranh chiều tà đẹp tráng lệ và thơ mộng. “Mây”  nhiều, vô số tầng bậc, chữ “đùn” tạo cảm giác áng mây chuyển động, có nội lực từ bên trong, từng lớp mây cứ đùn ra mãi. Và, trên cảnh mây trời, sông nước buồn vắng nhưng đẹp đẽ, hùng vĩ ấy, đột nhiên xuất hiện con chim “nghiêng cánh” bay như hút lấy nắng hoàng hôn cùng “bóng chiều”, tạo cảm giác như chỉ cần bóng chim khẽ chao nghiêng là cả bóng chiều sẽ sa xuống vậy.

Trong văn chương Việt Nam cánh chim là một thi tứ quen thuộc để miêu tả buổi chiều. Nhưng trong “Tràng giang”, dường như cánh chim ấy có phần nhỏ bé và cô đơn hơn bởi nhà thơ đã đặt nó trong một không gian rộng lớn và bao la của vũ trụ. Cánh chim nhỏ là biểu hiện của sự sống và khát vọng. Tuy nhiên, sự xuất hiện của nó vẫn không làm cho không gian vơi đi niềm quạnh vắng. Cánh chim nhỏ nhoi, bé bỏng cô đơn và mông lung hơn trước cảnh sông nước mây trời bao la. “Dợn dợn” là từ láy vô cùng sáng tạo, gợi cảm giác về một nỗi buồn miên man, vô hạn. Nếu ở “Hoàng Hạc lâu”, Thôi Hiệu cần mượn khói sóng để bộc lộ nỗi nhớ quê hương thì ở đây, Huy Cận “Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”. Có thể thấy, nỗi nhớ dường như trở nên thường trực và cháy bỏng hơn.

Cùng là những nhà thơ của phong trào Thơ Mới, nhưng nếu Vội vàng của Xuân Diệu là một thi giới mạnh mẽ, mãnh liệt, nồng nàn thì “Tràng giang” của Huy Cận lại được các nhà phê bình đánh giá là hồn thơ thuộc về nỗi sầu nhân thế cố hữu, phảng phất âm vị thơ cổ điển. Nỗi sầu ấy tràn ngập trong thơ Huy Cận đến mức, sau này nhìn lại, Huy Cận đã nhìn nhận phong cách của bản thân giai đoạn Trước Cách mạng Tháng Tám rằng: “Chàng Huy Cận khi xưa hay sầu lắm.”

Câu 3: Bức tranh tâm trạng trong bài thơ “Tràng giang”

Bài viết tham khảo

Từ năm 1930, văn học Việt Nam bắt đầu có những bước chuyển mình mạnh mẽ với sự xuất hiện của làn sóng thơ mới cùng những cá tính sáng tác độc đáo. Các nhà thơ say sưa thể hiện cái tôi cá nhân và không còn bị gò bó trong khuôn sáo cũ kĩ của văn thơ trung đại. Nếu Xuân Diệu luôn mang trong mình nỗi ám ảnh về thời gian thì người bạn tri kỉ của ông, Huy Cận lại luôn chìm đắm trong cảm thức về không gian vũ trụ. Huy Cận tỏ ra rất nhạy cảm với không gian rộng lớn và thời gian vĩnh hằng. Những điều ấy được thể hiện rõ nét trong “Tràng giang”, một trong những bài thơ xuất sắc nhất của ông.

Vào khoảng những năm 1939, Huy Cận theo học tại một trường ở Hà Nội. Ông có thói quen đạp xe dọc đê vào mỗi buổi chiều thứ bảy để hóng gió và ngắm cảnh sông Hồng. Bài “Tràng giang” ra đời trong một buổi chiều như thế. Đứng ở bãi Chèm, nhìn cảnh sông nước mênh mông, nỗi nhớ quê hương, nỗi sầu lo, thương cảm về đất nước về kiếp người cuộn tràn trong tâm trí nhà thơ. Ngay hôm ấy ông đã cho ra đời một bài thơ lục bát, lấy tiêu đề là “Chiều trên sông”. Sau này, Huy Cận đổi tên thành “Tràng giang” và viết lại theo thể thất ngôn tự do, in trong tập Lửa thiêng.

Có thể thấy rằng chính lời đề từ tuy nằm ngoài bài thơ, nhưng lại đúc kết nội dung tư tưởng và ý đồ nghệ thuật của tác giả đó chính là ‘Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài”. Có thể coi cảm xúc trong câu thơ này là nguồn thi hứng để thi sĩ sáng tác nên bài thơ “Tràng giang” bất hủ. Dường như nó cũng đã khiến cho không chỉ “cái tôi trữ tình” nặng trĩu nhớ nhung, mà đất trời sông núi cũng tràn ngập bâng khuâng, nhung nhớ. Có lẽ cái độc đáo của câu thơ này chính là sự giao thoa của cả hai nghĩa ấy. Nhà thơ tài năng Huy Cận đã triển khai cảm hứng nêu ở câu thơ để từ một cách hoàn hảo trong suốt thi phẩm của mình.

Nếu như những câu thơ trên mở ra với hình ảnh những lớp sóng tiếp nối nhau điệp điệp thì ở câu dưới nó lại được đặc tả qua hình ảnh con thuyên xuôi mái theo những luồng nước song song rong ruổi về mãi cuối trời. “Sóng và thuyền” không có gì đáng buồn nhưng chính cụm từ “buồn điệp điệp” đã làm cho cảnh trở nên mênh mông và xa vắng. Từ “điệp điệp” từ xưa đến nay thường dùng để hình dung, miêu tả những hình ảnh thiên nhiên như sóng, núi giờ đây được Huy Cận dùng để nói về nỗi buồn. Điều này làm cho nỗi buồn không còn vô hình mà trở nên hữu hình, cụ thể. Đó là nỗi buồn dai dẳng, triền miên, thường trực trong tâm trí. Câu thơ đã bộc lộ tâm trạng của nhân vật trữ tình khi đứng trước cảnh trời rộng sông dài.

Sự đối lập giữa cành củi khô và dòng sông làm người đọc liên tưởng đến thân phận con người trong xã hội đương thời. Có thể thấy nỗi buồn của Huy Cận ở đây không chỉ là nỗi buồn cá nhân mà đó là nỗi buồn của cả một thế hệ thanh niên không tìm ra lối thoát cho đời mình.

Và rồi cho đến khổ thơ thứ hai, bức tranh tràng giang có thêm cảnh, thêm người nhưng nỗi buồn không vơi mà như càng thấm sâu vào cảnh vật. Huy Cận dường như cũng đã tập trung tất cả hình ảnh, nhạc điệu để làm nổi bật lên nỗi buồn thấm thía của con người trước sông dài trời rộng. Có thể thấy rằng nỗi buồn được gợi lên từ mặt nước mênh mông, đôi bờ hoang vắng, từ một cồn nhỏ lơ thơ heo hút, dăm bụi cây phơ phất trong gió lạnh đìu hiu.

Hơn nữa, cặp từ láy “lơ thơ” và “đìu hiu” càng gợi lên sự buồn bã, quạnh vắng, cô đơn của không gian vũ trụ. Từ làng xa vẳng lại tiếng chợ chiều đang vãn, tuy có hơi hướng con người nhưng âm thanh mong manh mơ hồ như từ cõi nào vọng lại làm dấy lên trong lòng lữ khách nỗi khát khao được gặp gỡ và chia sẻ tâm tình.

Có lẽ nỗi buồn đã và đang lan toả ra hết chiều cao, chiều rộng của bến bãi, mặt nước, bầu trời. Ở đây, người đọc bắt gặp những cảm nhận hết sức tinh tế, kì diệu của nhà thơ đó là cách cảm nhận về độ cao, độ sâu đến rợn ngợp của bầu trời và khoảng cách vô tận giữa trời và nước. Cách dùng từ “sâu chót vót” tạo nên ấn tượng sông thêm dài, trời thêm rộng và bến sông vốn đã vắng vẻ lại càng cô liêu hơn, quạnh quẽ hơn.

Cảnh vật vẫn hết sức quạnh vắng. Toàn cảnh sông nước trời rộng tuyệt nhiên không có bóng dáng của con người: “không một chuyến đò” và cũng không có lấy một nhịp cầu nối giữa đôi bờ tạo nên sự gần gũi giữa con người với con người mà chỉ có thiên nhiên với thiên nhiên xa vắng hoang vu. Vì vậy, nỗi buồn của bài thơ này không chỉ là nỗi buồn trước trời rộng, sông dài mà còn là nỗi buồn về nhân thế, về cuộc đời.

Sang đến khổ thơ thứ tư, từ “buồn điệp điệp”, “sầu trăm ngả” ở những khổ thơ trên, đến đây nỗi sầu thi sĩ đã dâng lên trùng trùng, “lớp lớp” tràn ngập cả bầu trời. Trong văn chương Việt Nam cánh chim là một thi tứ quen thuộc để miêu tả buổi chiều. Nhưng trong “Tràng giang”, dường như cánh chim ấy có phần nhỏ bé và cô đơn hơn bởi nhà thơ đã đặt nó trong một không gian rộng lớn và bao la của vũ trụ. Cánh chim nhỏ là biểu hiện của sự sống và khát vọng. Tuy nhiên, sự xuất hiện của nó vẫn không làm cho không gian vơi đi niềm quạnh vắng. Cánh chim nhỏ nhoi, bé bỏng cô đơn và mông lung hơn trước cảnh sông nước mây trời bao la. “Dợn dợn” là từ láy vô cùng sáng tạo, gợi cảm giác về một nỗi buồn miên man, vô hạn. Nếu ở “Hoàng Hạc lâu”, Thôi Hiệu cần mượn khói sóng để bộc lộ nỗi nhớ quê hương thì ở đây, Huy Cận “Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”. Có thể thấy, nỗi nhớ dường như trở nên thường trực và cháy bỏng hơn.

Như vậy, đi suốt bài thơ là một nỗi buồn triền miên, vô tận. Nỗi buồn của bài thơ này cũng như phần nhiều nỗi buồn của các nhà thơ mới trong những năm thời thuộc Pháp. Về nội dung, bài thơ đem đến người đọc bức tranh thiên nhiên sông nước gần gũi quen thuộc nhưng vắng lặng và bức tranh tâm trạng mang trĩu nặng nỗi sầu. Cùng với đó là niềm khát khao giao cảm với cuộc đời, lòng yêu nước tuy thầm kín nhưng không kém phần thiết tha của nhà thơ. Về nghệ thuật, bài thơ đặc sắc ở chỗ nó có sự kết hợp hài hòa giữa bút pháp cổ điển và hiện đại. Cổ kính, trang nghiêm, đậm chất Đường thi nhưng “Tràng giang” vẫn là bài thơ mang nét hiện đại khi sử dụng những hình ảnh gần gũi, tầm thường để qua đó bộc lộ cảm xúc, nỗi niềm của nhân vật trữ tình. Đây cũng là nét độc đáo điển hình trong phong cách thơ Huy Cận trước Cách mạng tháng Tám.

IV. Soạn bài cực ngắn: Tràng giang

Câu 1:  "Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài"

=> nỗi nhớ da diết cùng nổi và cảm giác buồn sầu trước dòng sông rộng lớn. Tâm trạng nhà thơ với nỗi buồn sầu lan tỏa trước cảnh trời rộng sông dài tạo nên vẻ đẹp hài hòa, vừa cổ điển.

Câu 2: Âm điệu chung của toàn bài thơ: 

- Chủ yếu là nhịp thơ 2/2/3

- Thanh điệu có sự hoán vị bằng trắc đều đặn, cấu trúc đăng đối giữa các câu thơ 

=> Tạo sự bâng khuâng, man mác da diết, sầu lặng

Câu 3: Sự đối lập giữa bao la, mênh mông của đất trời với vạn vật nhỏ nhoi tạo nên cảm giác con người lạc lõng, cô đơn nên bài thơ mang đậm màu sắc cổ điển.

“Cành củi khô, tiếng làng xa vãn chợ chiều” là hình ảnh, âm thanh giản dị, gần gũi, thanh đạm của cuộc sống, con người Việt Nam

Câu 4: Những hình ảnh ước lệ, cổ điển như: mây, chim tạo nên một bức tranh chiều tà đẹp, hùng vĩ và vô cùng thơ mộng. Bóng chiều vốn vô hình nhưng ở đây lại được miêu tả như hữu hình. Chỉ bằng hai câu thơ đầu nhà thơ đã mang đến cho người đọc những cảm giác thân thuộc, gần gũi để rồi từ những cảnh quê ấy mà nói đến tình yêu và nỗi nhớ quê.

=> Tình yêu thiên nhiên thấm đượm lòng yêu nước thầm kín

Câu 5: Đặc sắc nghệ thuật của bài thơ thể hiện qua thể thơ, cách ngắt nhịp, nghệ thuật đối, từ láy, bút phát tả cảnh,…

=> Kết hợp cổ điển – hiện đại 

      Nghệ thuật đối, bút pháp tả cảnh giàu tính tạo hình

      Hệ thống từ láy

      Cách ngắt nhịp 2/2/3 và thể thơ thất ngôn

Luyện tập

Câu 1: Cách cảm nhận không gian và thời gian của bài thơ đáng chú ý là 

- Không gian được cảm nhận qua cả 4 khổ thơ mang cảm hứng vũ trụ, không gian ba chiều, buồn hiu hắt và cũng vừa hùng vĩ, vừa cô đơn

- Thời gian: buổi chiều tà vừa cụ thể, vừa gợi cảm 

=> Thể hiện đúng tâm trạng buồn hiu hắt

Câu 2: Câu thơ cuối "Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà" lại làm cho người đọc liên tưởng đến hai câu thơ trong bài "Lầu Hoàng Hạc" của Thôi Hiệu:

- Thôi Hiệu: khói và sóng là những hình ảnh thiên nhiên thì mới gợi lên nỗi nhớ nhà

- Xuân Diệu: những hình ảnh thiên nhiên đó luôn thường trực và tự nhiên bộc phát 

=>  nỗi nhớ của Huy Cận da diết và sâu lắng hơn

Bài tham khảo thêm

Câu 1: Phân tích bài thơ Tràng giang

Dàn ý tham khảo

1. Mở bài

Bài thơ “Tràng giang” của Huy Cận đã khắc họa thành công hai vẻ đẹp: cổ điển và hiện đại.

2. Thân bài

- Trước hết, ta thấy vẻ đẹp cổ điển và hiện đại được hiện lên qua hoàn cảnh sáng tác và nhan đề bài thơ. 

• Linh hồn của nó là một nỗi buồn đìu hiu, mênh mang, cô đơn bao trùm.

• Nhan đề “Tràng giang” xuất phát từ sự biến đổi lại từ “trường giang”, hai âm Hán - Việt và vần “ang” đi liền với nhau làm cho con sông trong thơ bỗng trở nên dài rộng hơn, mệnh mang, rợn ngợp hơn trong tâm tưởng người đọc.

• Lời đề từ: “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài”. 

- Vẻ đẹp cổ điển và hiện đại của bài thơ còn được gợi từ đề tài, cảm hứng sáng tác và chất liệu thi ca. 

- Thể loại và bút pháp cũng là một điểm đặc biệt Huy Cận đã vận dụng để thể hiện vẻ đẹp cổ điển và hiện đại của bài thơ.

• “Tràng giang” mang đậm phong vị cổ điển với cách ngắt nhịp, gieo vần, bút pháp đối lập, bút pháp tả cảnh ngụ tình, mang tính chất gợi hơn là tả.

• “Tràng giang” lại cũng rất mới qua xu hướng giãi bày trực tiếp “cái tôi cá nhân” qua vận dụng thể thơ bảy chữ (buồn diệp điệp, sầu trăm ngả, không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà...), qua những từ ngữ sáng tạo mang dấu ấn xúc cảm cá nhân của tác giả (sâu chót vót, niềm thân mật, dợn dợn…). 

3. Kết bài

Khẳng định bài thơ “Tràng giang” là kết tinh, là thành công tiêu biểu cho sự kết hợp hài hòa giữa nét cổ điển và lãng mạn

Câu 2: Nhà thơ Huy Cận đã từng viết: “Chàng Huy Cận khi xưa hay sầu lắm.”

Dàn ý tham khảo

1. Mở bài

Giới thiệu về Huy Cận và tác phẩm “Tràng giang”

2. Thân bài

- Cảm hứng sáng tác bài thơ

- Khổ thơ thứ nhất là nét bút chấm phá vẽ lên bức tranh sông nước rộng mênh mang nhưng buồn vắng:

• Cụm từ “buồn điệp điệp” đã làm cho cảnh trở nên mênh mông và xa vắng.

• Câu thơ mang âm hưởng cổ kính của thơ Đường với nghệ thuật đối từ, đối ý: sóng – thuyền; điệp điệp – song song.

• Xuất hiện hình ảnh một cành củi khô nhỏ nhoi, tầm thường

• Nỗi buồn của Huy Cận ở đây không chỉ là nỗi buồn cá nhân mà đó là nỗi buồn của cả một thế hệ thanh niên không tìm ra lối thoát cho đời mình

- Đến khổ thơ thứ hai, dường như nỗi buồn vắng, đìu hiu càng lan tỏa và thấm sâu:

• Cặp từ láy “lơ thơ” và “đìu hiu” càng gợi lên sự buồn bã, quạnh vắng, cô đơn của không gian vũ trụ

• Không gian như được mở rộng ra cả ba chiều

• Cuộc sống quạnh quẽ trong xã hội đương thời mà mỗi người là một ốc đảo hoang vắng cô liêu.

- Khổ thứ thứ ba, nỗi buồn càng được khắc sâu hơn.

• Hình ảnh những cánh bèo trôi dạt lênh đênh

• Toàn cảnh sông dài, trời rộng mà tuyệt nhiên không có bóng dáng con người

• Nỗi buồn của bài thơ không chỉ là nỗi buồn mênh mông trước trời rộng sông dài mà còn là nỗi buồn nhân thế.

- Sang đến khổ thơ thứ tư, nỗi nhớ quê hương của nhà thơ hiện lên trong cảnh thiên nhiên rợn ngợp:

• Hình ảnh ước lệ, cổ điển: mây, chim... vẽ lên bức tranh chiều tà đẹp tráng lệ và thơ mộng.

• Nếu ở “Hoàng Hạc lâu”, Thôi Hiệu cần mượn khói sóng để bộc lộ nỗi nhớ quê hương thì ở đây, Huy Cận “Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”.

3. Kết bài

Khẳng định nỗi sầu nhân thế cố hữu trong thơ Huy Cận trước Cách mạng Tháng Tám.

Câu 3: Bức tranh tâm trạng trong bài thơ “Tràng giang”

Dàn ý tham khảo

1. Mở bài:

Giới thiệu bài thơ “Tràng giang”

2. Thân bài:

- Khổ 1:

• Hai câu thơ đầu:Từ “điệp điệp” từ xưa đến nay thường dùng để hình dung, miêu tả những hình ảnh thiên nhiên như sóng, núi giờ đây được Huy Cận dùng để nói về nỗi buồn => nỗi buồn không còn vô hình mà trở nên hữu hình, cụ thể => dai dẳng, triền miên, thường trực trong tâm trí.

• Hai câu thơ cuối: cành củi khô > < dòng sông -> thân phận con người trong xã hội đương thời -> nỗi buồn của một thế hệ thanh niên không tìm ra lối thoát cho đời mình.

- Khổ 2:

• Hai câu thơ đầu: nỗi buồn được gợi lên từ mặt nước mênh mông, đôi bờ hoang vắng, từ một cồn nhỏ lơ thơ heo hút, dăm bụi cây phơ phất trong gió lạnh đìu hiu; âm thanh mong manh mơ hồ như từ cõi nào vọng lại làm dấy lên trong lòng lữ khách nỗi khát khao được gặp gỡ và chia sẻ tâm tình.

• Hai câu thơ cuối: nỗi buồn đã và đang lan toả ra hết chiều cao, chiều rộng của bến bãi, mặt nước, bầu trời.

- Khổ 3: Toàn cảnh sông nước trời rộng tuyệt nhiên không có bóng dáng của con người -> nỗi buồn của bài thơ này không chỉ là nỗi buồn trước trời rộng, sông dài mà còn là nỗi buồn về nhân thế, về cuộc đời.

- Khổ 4: Cánh chim nhỏ là biểu hiện của sự sống và khát vọng. Tuy nhiên, sự xuất hiện của nó vẫn không làm cho không gian vơi đi niềm quạnh vắng. Cánh chim nhỏ nhoi, bé bỏng cô đơn và mông lung hơn trước cảnh sông nước mây trời bao la. -> nỗi nhớ  nỗi nhớ quê hương trở nên thường trực và cháy bỏng hơn.

3. Kết bài:

Khẳng định giá trị của bài thơ Tràng giang.

Tìm kiếm google: soan van 11 cuc ngan, soan van 11 ngan nhat, soạn văn 11 siêu ngắn bài tràng giang

Xem thêm các môn học

Soạn văn 11 tập 2 ngắn nhất


Đia chỉ: Tòa nhà TH Office, 90 Khuất Duy Tiến, Thanh Xuân, Hà Nội
Điện thoại hỗ trợ: Fidutech - click vào đây
Chúng tôi trên Yotube
Cùng hệ thống: baivan.net - Kenhgiaovien.com - tech12h.com