[toc:ul]
Câu 1: Đối tượng miêu tả, thể hiện của văn học trào phúng là gì? Văn bản đã nêu những đối tượng cụ thể nào mà tiếng cười trào phúng thường nhằm tới?
Câu 2: Văn bản đề cập đến những giọng điệu nào của tiếng cười trong thơ trào phúng? Hãy chỉ rõ dấu hiệu để nhận biết từng giọng điệu.
Câu 3: Trong các giọng điệu của tiếng cười ở thơ trào phúng mà văn bản đề cập, em cảm thấy thích thú với giọng điệu nào? Vì sao?
Câu 4: Trình bày cách hiểu của em về nhận định: "Tiếng cười trong văn chương nói chung, thơ trào phúng nói riêng thật phong phú và đa sắc màu như chính cuộc sống. Tiếng cười ấy thật cần thiết để đẩy lùi cái xấu, hướng mỗi con người đến những giá trị cao đẹp hơn".
Câu 5: Vận dụng tri thức từ văn bản Một số giọng điệu của tiếng cười trong thơ trao phúng, em hãy cho biết: Hai bài thơ Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu và Lai Tân sử dụng những giọng điệu nào của tiếng cười trào phúng?
Câu 1: Đối tượng miêu tả, thể hiện của văn học trào phúng là: những thứ không trọn vẹn, không hoàn hảo của con người, của cuộc sống. Văn bản đã nêu những đối tượng giọng điệu của tiếng cười trong thơ trào phúng là hài hước, mỉa mai - châm biếm, đả kích....
Câu 2:
- Văn bản đề cập đến những giọng điệu của tiếng cười trong thơ trào phúng là: hài hước, mỉa mai - châm biếm, đả kích...
- Những dấu hiệu để nhận biết các giọng điệu trong thơ trào phúng:
Câu 3: Trong các giọng điệu của tiếng cười ở thơ trào phúng mà văn bản đề cập, em cảm thấy thích thú với giọng điệu mỉa mai vì: giọng điệu này dễ làm người khác ấn tượng và dễ làm người khác thấy được những cái sai trái, những mặt xấu của vấn đề từ đó có tinh thần khắc phục, rút kinh nghiệm.
Câu 4: Trình bày hiểu biết của em:
Tiếng cười trong văn chương xuất hiện muộn và không đều đặn trong các tác phẩm văn học viết thời trung đại. Đặc biệt ở thể loại truyện ngắn/truyện văn xuôi chữ Hán, phải đến cuối thế kỷ XIV sang thế kỷ XVI, tiếng cười hiếm hoi mới thực sự xuất hiện một cách dè dặt.
Thơ trào phúng mang đậm màu sắc cuộc sống, phản ánh được những góc trần trụi của cuộc sống. Khác với thơ lãng mạn, thơ trào phúng dùng tiếng cười để xây dựng tư tưởng, tình cảm cho con người, chống lại cái xấu xa, lạc hậu, thoái hóa, rởm đời, hoặc để đả kích, vạch mặt kẻ thù, đánh vào những tư tưởng, hành động mang bản chất thù địch với con người. Vạch mâu thuẫn của sự vật – mâu thuẫn giữa cái bên ngoài và cái thực chất bên trong – để làm cho người đọc nhận thấy sự mỉa mai, trào lộng của sự vật là cách làm chủ yếu của thơ trào phúng; cho nên thơ trào phúng thường sử dụng lối nói phóng đại, so sánh, chơi chữ dí dỏm hay lời nói mát mẻ sâu cay.
Đôi lúc tiếng cười của Nam Cao là tiếng cười châm biếm, trào lộng. Nam Cao châm biếm phần lớn tầng lớp nông dân tin mù quáng vào số mệnh (Xem bói), túng thiếu nhưng sa vào rượu chè, cờ bạc và danh vọng hão huyền (Trẻ con không được ăn thịt chó, Mua nhà, Mua danh…). Người đọc, sau khi cười những thói tật, những suy nghĩ không mấy tốt lành ấy lại không khỏi ngậm ngùi bởi hậu quả đáng thương mà bi kịch tất yếu phải xảy ra của hoàn cảnh đối với nhân vật. Văn Nam Cao dẫn người đọc đi từ trách móc đến thương hại và sau cùng là cảm thông hoàn toàn. Tiếng cười Nam Cao vì thế không bao giờ là tiếng cười mỉa mai, châm chọc từ bên ngoài. Mà là tiếng cười chuyển dần sang sắc thái ngầm ẩn bên trong, cất lên chua chát từ nội tâm con người. Rõ ràng Nam Cao quan tâm đến việc băng bó chữa trị vết thương cho tâm hồn con người nhiều hơn là xoáy sâu vào vết thương ấy bằng tiếng cười của mình. Buồn cười nhưng đáng thương, nhẹ nhàng và độ lượng. Đó là nét chính khó lẫn giữa Nam Cao với giọng điệu của một nhà văn nào khác về tiếng cười.
Có thể thấy, tiếng cười trong văn chương và thơ trào phúng không chỉ mang đến tiếng cười cho độc giả mà còn mang đến những giá trị nhân sinh, giá trị nhân đạo thông qua những thủ pháp "châm biếm" ấy.
Câu 5: Hai bài thơ Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu và Lai Tân sử dụng những giọng điệu: châm biếm, đả kích.
Câu 1: Là những thứ không trọn vẹn, không hoàn hảo của con người, của cuộc sống. Văn bản đã nêu những đối tượng giọng điệu của tiếng cười trong thơ trào phúng là hài hước, mỉa mai - châm biếm, đả kích....
Câu 2:
- Giọng điệu: hài hước, mỉa mai - châm biếm, đả kích...
- Dấu hiệu:
Câu 3: Em cảm thấy thích thú với giọng điệu mỉa mai vì: giọng điệu này dễ làm người khác ấn tượng và dễ làm người khác thấy được những cái sai trái, những mặt xấu của vấn đề từ đó có tinh thần khắc phục, rút kinh nghiệm.
Câu 4:
Tiếng cười trong văn chương xuất hiện muộn và không đều đặn trong các tác phẩm văn học viết thời trung đại. Đặc biệt ở thể loại truyện ngắn/truyện văn xuôi chữ Hán, phải đến cuối thế kỷ XIV sang thế kỷ XVI, tiếng cười hiếm hoi mới thực sự xuất hiện một cách dè dặt.
Thơ trào phúng mang đậm màu sắc cuộc sống, phản ánh được những góc trần trụi của cuộc sống. Khác với thơ lãng mạn, thơ trào phúng dùng tiếng cười để xây dựng tư tưởng, tình cảm cho con người, chống lại cái xấu xa, lạc hậu, thoái hóa, rởm đời, hoặc để đả kích, vạch mặt kẻ thù, đánh vào những tư tưởng, hành động mang bản chất thù địch với con người. Vạch mâu thuẫn của sự vật – mâu thuẫn giữa cái bên ngoài và cái thực chất bên trong – để làm cho người đọc nhận thấy sự mỉa mai, trào lộng của sự vật là cách làm chủ yếu của thơ trào phúng; cho nên thơ trào phúng thường sử dụng lối nói phóng đại, so sánh, chơi chữ dí dỏm hay lời nói mát mẻ sâu cay.
Có thể thấy, tiếng cười trong văn chương và thơ trào phúng không chỉ mang đến tiếng cười cho độc giả mà còn mang đến những giá trị nhân sinh, giá trị nhân đạo thông qua những thủ pháp "châm biếm" ấy.
Câu 5: Giọng điệu: châm biếm, đả kích.
Câu 1: Là những thứ không trọn vẹn, không hoàn hảo của con người, của cuộc sống. Văn bản đã nêu những đối tượng giọng điệu của tiếng cười trong thơ trào phúng là hài hước, mỉa mai - châm biếm, đả kích....
Câu 2:
- Giọng điệu: hài hước, mỉa mai - châm biếm, đả kích...
- Dấu hiệu:
Câu 3: Giọng điệu mỉa mai vì: dễ làm người khác ấn tượng và dễ làm người khác thấy được những cái sai trái, những mặt xấu của vấn đề từ đó có tinh thần khắc phục, rút kinh nghiệm.
Câu 4:
Câu 5: Giọng điệu: châm biếm, đả kích.