Trước sự chủ quan, không lo tập luyện của tướng sĩ, Trần Quốc Tuấn dẫn ra những dẫn chứng về sự trung thành của các vị tướng thời trước với chủ tướng của mình, như Kỉ Tín đem mình chết thay, cứu thoát cho Cao Đế, Do Vu chìa lưng chịu giáo, che chở cho Chiêu Vương, Thân Khoái chặt tay cứu nạn cho nước..... Rồi đến những dẫn chứng gần hơn trong lịch sử như Vương Công Kiên và tì tướng của ông là Nguyễn Văn Lập, giữ thành Điếu Ngư nhỏ như cái đấu, đường đường chống với quân Mông Kha đông đến hàng trăm vạn, khiến cho nhân dân đời Tống đến nay còn đội ơn sâu. Đồng thời nêu lên tội ác của quân giặc, sứ giặc đi lại nghênh ngang ngoài đường, uốn lưỡi cú diều mà sỉ vả triều đình, đem thân dê chó mà bắt nạt tể phụ, thác mệnh Hốt Tất Liệt mà đòi ngọc lụa để thoả mãn lòng tham không cùng, giả hiệu Vân Nam Vương mà thu bạc vàng, để vét của kho có hạn.
Từ đó tác giả nên lên thái độ của mình: Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa, chỉ căm tức chưa xả thịt lột da, nuốt gan uống máu quân thù. Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cùng vui lòng. Và tác giả cũng thể hiện thái độ với quan lại, binh lính Nay các ngươi nhìn chủ nhục mà không biết lo, thấy nước nhục mà không biết thẹn. Làm tướng triều đình phải hầu quân giặc mà không biết rức, nghe nhạc thái thường để đãi yến nguỵ sứ mà không biết căm, Hoặc lấy việc chọi gà làm vui đùa, lấy việc đánh bạc làm tiêu khiển, vui thú ruộng vườn hoặc quyến luyến vợ con.... Nếu giặc Mông tràn sang thì cựa gà trống không đâm thủng áo giáp của giặc, mẹo cờ bạc không thể dùng làm mưu lược nhà binh... Lúc bấy giờ, ta cùng các ngươi đa xót biết chừng nào.
Phần cuối, Trần Quốc Tuấn đưa ra định hướng cho các tướng sĩ: đó là phải chăm chỉ học tập theo cuốn Binh thư yếu lược để bảo vệ đất nước. Dặn các tướng sĩ chuyên tập sách Binh thư yếu lược, theo lời dạy thì mới phải đạo thần chủ, nhược bằng khinh bỏ sách này, trái lời dạy bảo của ta tức là nghịch thù. Giặc với ta không đội trời chung, các ngươi cứ điềm nhiên khôg biết rửa nhục, không lo trừ lung, không dạy quân sĩ, chẳng khác nào chịu đầu hàng, giơ tay mà chịu thua giặc. Ta viết ra bài hịch này để các ngươi biết bụng ta.
Nội dung: Bài hịch là tiếng nói của vị chủ tướng chỉ ra cho binh sĩ của mình những dẫn chứng về lòng yêu nước của các vị tướng trời trước. Tác giả cũng nêu lên những tội ác, sự ngang ngược của kẻ thù và lòng căm thù giặc của ông. Từ đó, ông phân tích phải trái cho các binh sĩ và khích lệ lòng yêu nước, ý chí quyết chiến, quyết thắng kẻ thù trong các binh sĩ.
Ý nghĩa: văn bản đã thể hiện lòng yêu nước, trách nhiệm của một người chủ tướng với dân tộc trước tình thế hiểm nguy, Bản Hịch là bài ca kêu gọi tinh thần đoàn kết và trách nhiệm của mỗi người dân với non sông đất nước.