[toc:ul]
Bài tập 1: Trang 91 sgk Ngữ Văn 8 tập hai
Nhận xét về cách đặt tên chương, tên các phần trong văn bản.
Bài tập 2: trang 91 sgk Ngữ văn 8 tập 2
So sánh thái độ của các quan cai trị thực dân đối với người dân thuộc địa ở hai thời điểm : trước khi có chiến tranh và khi chiến tranh xảy ra. Số phận thảm thương của người dân thuộc địa trong các cuộc chiến tranh phi nghĩa được miêu tả như thế nào?
Bài tập 3: trang 91 sgk Ngữ văn 8 tập 2
Nêu rõ các thủ đoạn, mánh khóe bắt lính của bọn thực dân. Người dân thuộc địa có thực “tình nguyện” hiến dâng xương máu như lòi lẽ bịp bợm của bọn cầm quyền không ?
Bài tập 4: trang 92 sgk Ngữ văn 8 tập 2
Kết quả sự hi sinh của người dân thuộc địa trong các cuộc chiến tranh như thế nào ? Nhận xét về cách đối xử của chính quyền thực dân đối với họ sau khi đã bóc lột hết “thuế máu” của họ.
Bài tập 5: trang 91 sgk Ngữ văn 8 tập 2
Nhận xét về trình tự bố cục các phần trong chương. Phân tích nghệ thuật châm biếm, đả kích sắc sảo, tài tình của tác giả thể hiện qua cách xây dựng hình ảnh, qua giọng điệu.
Bài tập 6: trang 92 sgk Ngữ văn 8 tập 2
Nhận xét về yếu tố biểu cảm trong đoạn trích được đọc.
B. Hoạt động hình thành kiến thức
1. Đọc văn bản “Thuế máu”
2. Tìm hiểu văn bản
a) Nhan đề Thuế máu gợi cho em suy nghĩ gì?
Phần tham khảo mở rộng
Bài tập 1: Viết đoạn văn về kết quả sự hi sinh của những người dân các nước thuộc địa được Hồ Chí Minh nhắc đến qua văn bản Thuế máu
Bài tập 2: Cảm nhận của em về tội ác của thực dân Pháp qua văn bản Thuế máu của Nguyễn Ái Quốc
Bài tập 1: Nhận xét nhan đề và tên các phần trong văn bản
o Thuế máu - một thứ thuế lạ, khơi gợi sự tò mò của người đọc, là những thứ thuế nặng nề, vô lí gông vào cổ của nhân dân An Nam. Họ phải dùng cả nước mắt, máu xương, tính mạng của mình để đóng cho đủ những thứ thuế ấy
o Tên của các phần trong văn bản: Chiến tranh và "Người bản xứ" - Chế độ lính tình nguyện - Kết quả của sự hi sinh là quá trình lừa bịp trắng trợn, vắt đến tận xương tủy nhân dân của thực dân Pháp
Cách đặt tên nhan đề và các phần trong văn bản cho ta thấy niềm phẫn uất, căm hận, cả sự bất bình, đau đớn của một người khi chứng kiến cảnh nhân dân, đất nước, quê cha đất tổ bị chà đạp, phỉ nhổ. Đó cũng là cơ sở tiền đề cho những lí luận sắc bén và lời kết tội đanh thép của Bác sau này.
Bài tập 2: Thái độ của các quan cai trị thực dân đối với người dân thuộc địa ở hai thời điểm :
Bài tập 3: Thủ đoạn, mánh khóe bắt lính của bọn thực dân:
=> tàn ác, lừa gạt, sự bịp bợm đến trơ trẽn của toàn quyền Đông Dương.
Người dân thuộc địa không tình nguyện như lời lẽ bọn cầm quyền:
=>Thân phận hẩm hiu, số phận cùng cực của người dân thuộc địa.
Bài tập 4: Kết quả của những người dân thuộc địa:
=> Bộ mặt tráo trở,đối xử dã man, nhẫn tâm, giả nhân giả nghĩa, lật lọng sự khác hẳn với những lời hứa hẹn trước đó.
Bài tập 5: Bố cục của Thuế máu được kết cấu theo trình tự:
Nghệ thuật châm biếm, đả kích sắc sảo, tài tình của tác giả thể hiện chủ yếu qua các phương diện sau :
Bài tập 6: Nhận xét về yếu tố biểu cảm trong đoạn trích được đọc.
=> Làm rõ thêm số phận đáng thương của người dân thuộc địa và bộ mặt giả nhân giả nghĩa, tàn ác của chính quyền thực dân, người đọc cũng nhận ra lòng căm phẫn kẻ thống trị tàn ác, niềm xót xa thương cảm cho thân phận người dàn nồ lộ của tác giả.
B. Hoạt động hình thành kiến thức
1. Đọc văn bản “Thuế máu”
2. Tìm hiểu văn bản
a) Nhan đề Thuế máu gợi cho em suy nghĩ gì?
“Thuế” vốn là một khái niệm đã quen thuộc. Nhưng tại sao lại gọi là “Thuế máu”? Cách đặt nhan đề tạo nên sự tò mò, mang đến sự chú ý, ấn tượng mạnh mẽ và gợi ra trong lòng độc giả nhiều suy nghĩ. Phải chăng chế chộ của thực dân xâm lược tàn bạo và hà khắc đến mức nhân dân ta phải đóng thuế bằng “máu”. Chữ “Máu” ở đây có lẽ Nguyễn Ái Quốc dùng với ngụ ý là sức lực, sức khỏe, hay chính là tính mạng của chính người dân.
Phần tham khảo mở rộng
Bài tập 1: Viết đoạn văn về kết quả sự hi sinh của những người dân các nước thuộc địa được Hồ Chí Minh nhắc đến qua văn bản Thuế máu
Sau khi chiến tranh kết thúc, cũng là lúc những lời hứa của những người cầm quyền chấm dứt. Bằng giọng văn châm biếm, đả kích, Hồ Chí Minh đã nêu ra sự “đãi ngộ” mà những người dân xứ thuộc địa được nhận: lột hết của của họ, bị giao cho bọn súc sinh kiểm soát và đánh đập, cho ăn đồ ăn và ngủ trong hầm tầu ẩm ướt như lợn…. Và rồi sau khi cống hiến công sức, chiến đấu hết mình cho thắng lợi của chúng, những người dân thuộc địa trở về quê hương với “lời biết ơn” nồng nhiệt: Các anh đã bảo vệ Tổ quốc, thế là tốt. Bây giờ, chúng tôi không cần đến các anh nữa, cút đi!” . Bằng hàng loạt những cây hỏi nghi vấn nhưng không hề có mục đích hỏi, tác giả đang muốn khẳng định sự tráo trở, tàn nhẫn, xảo trá, vô nhân đạo, bỉ ổi của bọn thực dân Pháp. Vô nhân tính hơn, với vợ con của những thương binh người Pháp, còn được nhận “đặc ân” là được cấp môn bài bán thuốc phiện. Chúng không chỉ khiến gia đình họ tan vỡ, mất đi người chồng người cha trụ cột trong gia đình mà còn gieo rắc vào đất nước ta những tệ nạn chết người. Than ôi! Đó là cách mà những con người tự nhận mình đến khai sáng văn minh cho các nước thuộc địa đó sao? Cách “báo ơn” ấy càng làm cho những người Pháp nhục nhã hơn, lật tẩy bộ mặt gian trá và xảo quyệt của họ. Ta càng thêm đau xót khi nghĩ lại quá khứ tăm tối của dân tộc, khi sống dưới cảnh nô lệ và đầy rẫy những áp bức bất công của chế độ thực dân tàn ác.
Bài tập 2: Cảm nhận của em về tội ác của thực dân Pháp qua văn bản Thuế máu của Nguyễn Ái Quốc
Dân tộc ta đã trải qua những tháng ngày sống dưới ách nô lệ và xiềng xích của thực dân Pháp. Trong gần trăm năm tăm tối ấy, chúng đã gây ra biết bao tội ác cho những người dân lao động. Văn bản Thuế máu của Nguyễn Ái Quốc đã vạch trần bộ mặt gian xảo, tráo trở và đê mạt của bè lũ thực dân Pháp.
Trước chiến tranh, bọn thực dân xem những người dân thuộc địa là những người bẩn thỉu, chỉ biết kéo xe tay và bị đánh đập. Thế nhưng khi chiến tranh xảy ra, họ xem những người dân như “con yêu, “bạn hiền”, “chiến sĩ bảo vệ công lí tự do”. Những mĩ từ đó được tác giả miêu tả với sự châm biếm , hài hước bởi đó chỉ là bộ mặt giả dối, gian xảo của các nhà cầm quyền. Bởi có được vinh dự ấy, người dân xứ thuộc địa ấy đã phải đem thân mình đi chinh chiến khắp các chiến trường cho những cuộc chiến vô nghĩa, rời xa gia đình và quê hương. Họ vô tình trở vật thí thân và là tấm lá chắn cho những tham vọng của bè lũ thực dân: phơi thây trên các bãi chiến trường châu Âu, bỏ xác tại những miền hoang vu thơ mộng, trở thành mồi cho cá mập, vùi xác dưới những đáy biển lạnh lẻo,.... Những người không trực tiếp ra trận thì cũng bị vắt kiệt sức trong các xưởng thuốc súng ghê tởm hoặc bị nhiễm bệnh bởi muôn vàn các chất độc hại khác mà chết. Những thống kê số liệu về sự hi sinh của những người dân đen tội nghiệp ấy càng khắc sâu thêm tình cảnh bi thảm của họ: Tổng cộng có bảy mươi vạn người bản xứ đặt chân lên đất Pháp; và trong số ấy, tám vạn người không bao giờ còn trông thấy mặt trời trên quê hương đất nước mình nữa. Những con số đã nói lên sự man rợ, tàn nhẫn của bè lũ thực dân.
Và tội ác của chúng còn được thể hiện qua việc bắt lính, mà chúng gọi là “chế độ lính tình nguyện”. Bọn thực dân Pháp giao nhiệm vụ cao cả này cho những tên cầm quyền ở Đông Dương phải nộp đủ số người bằng mọi cách. Bằng những thủ đoạn đê hèn nhất, Chúng mở cuộc lùng ráp, vây bắt và cưỡng chế bằng vũ lực để ép người dân đi lính. Không chỉ vậy, chúng còn dùng mánh khóe để trấn lột của cải của những người dân bằng luận điệu: không đi lính thì xì tiền ra. Khi bị bắt, chúng trói, xích, đánh đập như súc vật, sẵn sàng đàn áp dã man nếu họ chống đối. Đó là những hành đông vô nhân đạo, mất hết nhân tính, chúng coi mạng người như cỏ rác. Và trong hoàn cảnh đó, người dân tìm mọi cách để trốn thoát khỏi vòng vây của bọn thực dân, họ sẵn sàng làm cho mình bị nhiễm những căn bện năng nhất. Họ không hề tự nguyện, “tấp nập đầu quân” hay “không ngần ngại rời bỏ quê hương” như giọng điệu lừa bịp của bè lũ thực dân vẫn rao giảng trước toàn thế giới. Ta như thấy được thái độ căm phẫn của tác giả trước những tội ác man rợ của chúng với đồng bào ta trong những ngày tháng tăm tối của lịch sử dân tộc.
Và rồi, sau bao hi sinh, vùi da nướng thịt trên các chiến trường để đem lại của cải, đất đai và chiến thắng cho các nhà cầm quyền thực dân Pháp. Những người dân xứ thuộc địa được “trả ơn” thật xứng đáng: bị lột sạch tất cả của cải, họ cho ăn và ở như loài lợn… Thậm chí, chúng thẳng thường tuyên bố: “Các anh đã bảo về Tổ quốc, thế là tốt. Bây giờ chúng tôi không cần các anh nữa, cút đi.” Chúng còn “ban ơn” cho những gia đình mất đi người thân là tấm môn bài bán lẻ thuộc phiện. Không chỉ khiến gia đình người dân tan nát họ còn sẵn sàng đầu độc cả dân tộc thuộc địa, để họ suy giảm sức khỏe và suy kiệt giống nòi. Hàng loạt câu hỏi nghi vấn như những lời tố cáo thẳng thắn, quyết liệt của tác giả trước tội ác của bọn thực dân gây ra. Sự châm biếm, mỉa mai đến cực độ của tác giả được thể hiện qua từng câu chữ trước sự gian xảo, độc ác của chúng.
Với ngòi bút sắc sảo, tác giả đã đưa ra những luận điểm, luận cứ rõ ràng, chân thực, những hình ảnh tiêu biểu, giàu giá trị biểu cảm đã nói lên tội ác tày trời của thực dân Pháp. Tác giả đã thể hiện thái độ căm phẫn với bè lũ thực dân đồng thời cũng bộc lộ tình yêu thương, đồng cảm với những khốn khổ mà đồng bào ta phải trải qua trong đêm trường lịch sử.
Văn bản “Thuế máu” chính là nhát dao sắc bén của Nguyễn Ái Quốc, đâm thẳng vào “tim đen” của bọn thực dân và sự đau khổ của người dân các nước thuộc địa. Đó cũng là tiếng nói chung của bao lớp người khổ cực khi sống dưới sự đàn áp, áp bức của bè lũ thực dân
Bài tập 1: Nhận xét nhan đề và tên các phần trong văn bản
- Cách đặt tên nhan đề và các phần trong văn bản cho ta thấy niềm phẫn uất, căm hận, cả sự bất bình, đau đớn của một người khi chứng kiến cảnh nhân dân, đất nước, quê cha đất tổ bị chà đạp, phỉ nhổ. Đó cũng là cơ sở tiền đề cho những lí luận sắc bén và lời kết tội đanh thép của Bác sau này.
Bài tập 2: Thái độ của các quan cai trị thực dân đối với người dân thuộc địa ở hai thời điểm :
Trước chiến tranh
- Người dân thuộc địa bị xem là giống người hạ đẳng.
- Đối xử, đánh đập như súc vật.
Khi cuộc chiến tranh xảy ra
- Được các quan cai trị tâng bốc, vỗ về, phong cho những danh hiệu cao quý.
- Biến những người dân thuộc địa thành những vật hi sinh.
- Thủ đoạn lừa bịp, bỉ ổi.
Số phẩn thảm thương của người dân thuộc địa.
- Xa gia đình, quê hương vì mục đích vô nghĩa.
- Đem mạng sống để đánh đổi lấy danh dự hão huyền.
- Vật hi sinh cho lợi ích, danh dự của nhũng kẻ cầm quyền.
- Phải chết thảm thương trên chiến trường ác liệt, xa xôi.
- Bệnh tật và chết đau đớn.
Bài tập 3: Thủ đoạn, mánh khóe bắt lính của bọn thực dân:
- Lùng ráp lớn về nhân lực trên toàn cõi Đông Dương.
- Lợi dụng bắt lính => nhũng lạm- tham nhũng.
- Bắt những người nghèo khổ, khỏe mạnh và tống tiền con nhà giàu.
- Dựng lên màn kịch rêu rao về chế độ " tình nguyện" đi lính.
Người dân thuộc địa không tình nguyện như lời lẽ bọn cầm quyền:
- Tự làm cho mình bị nhiễm những căn bệnh nặng nhất để không phải đi lính.
- Bị xiềng xích, bắt bớ, tống giam và bị áp tải xuống tàu.
=>Thân phận hẩm hiu, số phận cùng cực của người dân thuộc địa.
Bài tập 4: Kết quả người dân thuộc địa:
- "giống người bẩn thỉu"," giống người hèn hạ" như trước khi xảy ra chiến tranh.
- Bị cướp hết tài sản, của cải, bị đánh đạp, bị đối xử như súc vật, bị đuổi đi một cách trắng trợn.
- Bỏ tính mạng của mình, không được hưởng chút công lý và chính nghĩa nào cả.
Nhận xét: Bộ mặt tráo trở,đối xử dã man, nhẫn tâm, giả nhân giả nghĩa, lật lọng sự khác hẳn với những lời hứa hẹn trước đó.
Bài tập 5: Bố cục kết cấu theo trình tự:
- Thời gian: trước, trong, và sau cuộc chiến tranh thế giới lần thứ nhất.
- Các chương liên kết về nội dung =>tố cáo bộ mặt giả nhân giả nghĩa trơ trẽn, phơi bày toàn diện, triệt để, thể hiện thân phận thảm thương của người dân nô lệ.
Nghệ thuật châm biếm, đả kích sắc sảo, tài tình của tác giả thể hiện chủ yếu qua các phương diện sau :
- Hình ảnh chân thực phản ánh chính xác thực trạng, có sức tố cáo mạnh mẽ.
- Đồng cảm trước tình cảm khốn cùng thảm thương của người dân thuộc địa.
- Dùng câu hỏi tu từ với mục đích đập tan luận điệu xảo trá đến trơ trẽn của chính quyền Đông Dương.
- Giọng điệu trào phúng, châm biếm, mỉa mai để nói lên bản chất bọn thực dân.
Bài tập 6: Nhận xét về yếu tố biểu cảm: Yếu tố tự sự và yếu tố biểu cảm được kết hợp chặt chẽ với nhau. Các sự kiện, con số nêu lên một cách chính xác, những hình ảnh xác thực, sinh động, giàu tính thuyết phục. Hình ảnh được xây dựng mang tính biểu cảm cao.
B. Hoạt động hình thành kiến thức
1. Đọc văn bản “Thuế máu”
2. Tìm hiểu văn bản
a) Nhan đề Thuế máu gợi cho em suy nghĩ gì?
Bài tham khảo
“Thuế” vốn là một khái niệm đã quen thuộc. Nhưng tại sao lại gọi là “Thuế máu”? Cách đặt nhan đề tạo nên sự tò mò, mang đến sự chú ý, ấn tượng mạnh mẽ và gợi ra trong lòng độc giả nhiều suy nghĩ. Phải chăng chế chộ của thực dân xâm lược tàn bạo và hà khắc đến mức nhân dân ta phải đóng thuế bằng “máu”. Chữ “Máu” ở đây có lẽ Nguyễn Ái Quốc dùng với ngụ ý là sức lực, sức khỏe, hay chính là tính mạng của chính người dân.
Phần tham khảo mở rộng
Bài tập 1: Viết đoạn văn về kết quả sự hi sinh của những người dân các nước thuộc địa được Hồ Chí Minh nhắc đến qua văn bản Thuế máu
Bài tham khảo
Sau khi chiến tranh kết thúc, cũng là lúc những lời hứa của những người cầm quyền chấm dứt. Bằng giọng văn châm biếm, đả kích, Hồ Chí Minh đã nêu ra sự “đãi ngộ” mà những người dân xứ thuộc địa được nhận: lột hết của của họ, bị giao cho bọn súc sinh kiểm soát và đánh đập, cho ăn đồ ăn và ngủ trong hầm tầu ẩm ướt như lợn…. Và rồi sau khi cống hiến công sức, chiến đấu hết mình cho thắng lợi của chúng, những người dân thuộc địa trở về quê hương với “lời biết ơn” nồng nhiệt: Các anh đã bảo vệ Tổ quốc, thế là tốt. Bây giờ, chúng tôi không cần đến các anh nữa, cút đi!” . Bằng hàng loạt những cây hỏi nghi vấn nhưng không hề có mục đích hỏi, tác giả đang muốn khẳng định sự tráo trở, tàn nhẫn, xảo trá, vô nhân đạo, bỉ ổi của bọn thực dân Pháp. Vô nhân tính hơn, với vợ con của những thương binh người Pháp, còn được nhận “đặc ân” là được cấp môn bài bán thuốc phiện. Chúng không chỉ khiến gia đình họ tan vỡ, mất đi người chồng người cha trụ cột trong gia đình mà còn gieo rắc vào đất nước ta những tệ nạn chết người. Than ôi! Đó là cách mà những con người tự nhận mình đến khai sáng văn minh cho các nước thuộc địa đó sao? Cách “báo ơn” ấy càng làm cho những người Pháp nhục nhã hơn, lật tẩy bộ mặt gian trá và xảo quyệt của họ. Ta càng thêm đau xót khi nghĩ lại quá khứ tăm tối của dân tộc, khi sống dưới cảnh nô lệ và đầy rẫy những áp bức bất công của chế độ thực dân tàn ác.
Bài tập 2: Cảm nhận của em về tội ác của thực dân Pháp qua văn bản Thuế máu của Nguyễn Ái Quốc
Bài tham khảo
Dân tộc ta đã trải qua những tháng ngày sống dưới ách nô lệ và xiềng xích của thực dân Pháp. Trong gần trăm năm tăm tối ấy, chúng đã gây ra biết bao tội ác cho những người dân lao động. Văn bản Thuế máu của Nguyễn Ái Quốc đã vạch trần bộ mặt gian xảo, tráo trở và đê mạt của bè lũ thực dân Pháp.
Trước chiến tranh, bọn thực dân xem những người dân thuộc địa là những người bẩn thỉu, chỉ biết kéo xe tay và bị đánh đập. Thế nhưng khi chiến tranh xảy ra, họ xem những người dân như “con yêu, “bạn hiền”, “chiến sĩ bảo vệ công lí tự do”. Những mĩ từ đó được tác giả miêu tả với sự châm biếm , hài hước bởi đó chỉ là bộ mặt giả dối, gian xảo của các nhà cầm quyền. Bởi có được vinh dự ấy, người dân xứ thuộc địa ấy đã phải đem thân mình đi chinh chiến khắp các chiến trường cho những cuộc chiến vô nghĩa, rời xa gia đình và quê hương. Họ vô tình trở vật thí thân và là tấm lá chắn cho những tham vọng của bè lũ thực dân: phơi thây trên các bãi chiến trường châu Âu, bỏ xác tại những miền hoang vu thơ mộng, trở thành mồi cho cá mập, vùi xác dưới những đáy biển lạnh lẻo,.... Những người không trực tiếp ra trận thì cũng bị vắt kiệt sức trong các xưởng thuốc súng ghê tởm hoặc bị nhiễm bệnh bởi muôn vàn các chất độc hại khác mà chết. Những thống kê số liệu về sự hi sinh của những người dân đen tội nghiệp ấy càng khắc sâu thêm tình cảnh bi thảm của họ: Tổng cộng có bảy mươi vạn người bản xứ đặt chân lên đất Pháp; và trong số ấy, tám vạn người không bao giờ còn trông thấy mặt trời trên quê hương đất nước mình nữa. Những con số đã nói lên sự man rợ, tàn nhẫn của bè lũ thực dân.
Và tội ác của chúng còn được thể hiện qua việc bắt lính, mà chúng gọi là “chế độ lính tình nguyện”. Bọn thực dân Pháp giao nhiệm vụ cao cả này cho những tên cầm quyền ở Đông Dương phải nộp đủ số người bằng mọi cách. Bằng những thủ đoạn đê hèn nhất, Chúng mở cuộc lùng ráp, vây bắt và cưỡng chế bằng vũ lực để ép người dân đi lính. Không chỉ vậy, chúng còn dùng mánh khóe để trấn lột của cải của những người dân bằng luận điệu: không đi lính thì xì tiền ra. Khi bị bắt, chúng trói, xích, đánh đập như súc vật, sẵn sàng đàn áp dã man nếu họ chống đối. Đó là những hành đông vô nhân đạo, mất hết nhân tính, chúng coi mạng người như cỏ rác. Và trong hoàn cảnh đó, người dân tìm mọi cách để trốn thoát khỏi vòng vây của bọn thực dân, họ sẵn sàng làm cho mình bị nhiễm những căn bện năng nhất. Họ không hề tự nguyện, “tấp nập đầu quân” hay “không ngần ngại rời bỏ quê hương” như giọng điệu lừa bịp của bè lũ thực dân vẫn rao giảng trước toàn thế giới. Ta như thấy được thái độ căm phẫn của tác giả trước những tội ác man rợ của chúng với đồng bào ta trong những ngày tháng tăm tối của lịch sử dân tộc.
Và rồi, sau bao hi sinh, vùi da nướng thịt trên các chiến trường để đem lại của cải, đất đai và chiến thắng cho các nhà cầm quyền thực dân Pháp. Những người dân xứ thuộc địa được “trả ơn” thật xứng đáng: bị lột sạch tất cả của cải, họ cho ăn và ở như loài lợn… Thậm chí, chúng thẳng thường tuyên bố: “Các anh đã bảo về Tổ quốc, thế là tốt. Bây giờ chúng tôi không cần các anh nữa, cút đi.” Chúng còn “ban ơn” cho những gia đình mất đi người thân là tấm môn bài bán lẻ thuộc phiện. Không chỉ khiến gia đình người dân tan nát họ còn sẵn sàng đầu độc cả dân tộc thuộc địa, để họ suy giảm sức khỏe và suy kiệt giống nòi. Hàng loạt câu hỏi nghi vấn như những lời tố cáo thẳng thắn, quyết liệt của tác giả trước tội ác của bọn thực dân gây ra. Sự châm biếm, mỉa mai đến cực độ của tác giả được thể hiện qua từng câu chữ trước sự gian xảo, độc ác của chúng.
Với ngòi bút sắc sảo, tác giả đã đưa ra những luận điểm, luận cứ rõ ràng, chân thực, những hình ảnh tiêu biểu, giàu giá trị biểu cảm đã nói lên tội ác tày trời của thực dân Pháp. Tác giả đã thể hiện thái độ căm phẫn với bè lũ thực dân đồng thời cũng bộc lộ tình yêu thương, đồng cảm với những khốn khổ mà đồng bào ta phải trải qua trong đêm trường lịch sử.
Văn bản “Thuế máu” chính là nhát dao sắc bén của Nguyễn Ái Quốc, đâm thẳng vào “tim đen” của bọn thực dân và sự đau khổ của người dân các nước thuộc địa. Đó cũng là tiếng nói chung của bao lớp người khổ cực khi sống dưới sự đàn áp, áp bức của bè lũ thực dân
Bài tập 1: Nhận xét: Cách đặt tên nhan đề và các phần trong văn bản cho ta thấy niềm phẫn uất, căm hận, cả sự bất bình, đau đớn của một người khi chứng kiến cảnh nhân dân, đất nước, quê cha đất tổ bị chà đạp, phỉ nhổ.
=> cơ sở tiền đề cho những lí luận sắc bén và lời kết tội đanh thép của Bác sau này.
Bài tập 2: Thái độ của các quan cai trị thực dân:
1. Trước chiến tranh: Xem người dân thuộc địa giống người hạ đẳng. Đối xử, đánh đập như súc vật.
2. Khi cuộc chiến tranh xảy ra: tâng bốc người dân, vỗ về, phong cho những danh hiệu cao quý, biến những người dân thuộc địa thành những vật hi sinh, thủ đoạn lừa bịp, bỉ ổi.
3. Số phẩn thảm thương của người dân thuộc địa: Xa gia đình, quê hương vì mục đích vô nghĩa. Đem mạng sống để đánh đổi lấy danh dự hão huyền. Vật hi sinh cho lợi ích. Phải chết thảm thương. Bệnh tật và chết đau đớn.
Bài tập 3:
1. Thủ đoạn, mánh khóe: Lùng ráp lớn về nhân lực trên toàn cõi Đông Dương. Lợi dụng bắt lính để nhũng lạm. Bắt những người nghèo khổ, khỏe mạnh và tống tiền con nhà giàu. Dựng lên màn kịch rêu rao về chế độ " tình nguyện" đi lính.
2. Người dân thuộc địa không tình nguyện như lời lẽ bọn cầm quyền: Tự làm cho mình bị nhiễm những căn bệnh nặng nhất để không phải đi lính. Bị xiềng xích, bắt bớ, tống giam và bị áp tải xuống tàu. =>Thân phận hẩm hiu, số phận cùng cực của người dân thuộc địa.
Bài tập 4: Kết quả: "giống người bẩn thỉu"," giống người hèn hạ" như trước khi xảy ra chiến tranh. Bị cướp hết tài sản, bị đánh đạp, bị đối xử như súc vật, bị đuổi đi một cách trắng trợn. Bỏ tính mạng của mình, không được hưởng chút công lý và chính nghĩa nào cải. =>Bộ mặt tráo trở,đối xử dã man, nhẫn tâm, giả nhân giả nghĩa, lật lọng sự khác hẳn với những lời hứa hẹn trước đó.
Bài tập 5: Bố cục kết cấu theo trình tự:
1.Thời gian: trước, trong, và sau cuộc chiến tranh thế giới lần thứ nhất.
2.Các chương liên kết về nội dung tố cáo bộ mặt giả nhân giả nghĩa trơ trẽn, phơi bày toàn diện, triệt để, thể hiện thân phận thảm thương của người dân nô lệ.
3.Nghệ thuật châm biếm thể hiện các phương diện : Hình ảnh chân thực phản ánh chính xác thực trạng, có sức tố cáo mạnh mẽ. Đồng cảm trước tình cảm khốn cùng thảm thương của người dân thuộc địa. Dùng câu hỏi tu từ với mục đích đập tan luận điệu xảo trá đến trơ trẽn của chính quyền Đông Dương. Giọng điệu trào phúng, châm biếm, mỉa mai để nói lên bản chất bọn thực dân.
Bài tập 6: Yếu tố tự sự và yếu tố biểu cảm được kết hợp chặt chẽ với nhau. Các sự kiện, con số nêu lên một cách chính xác, những hình ảnh xác thực, sinh động, giàu tính thuyết phục. Hình ảnh được xây dựng mang tính biểu cảm cao.
B. Hoạt động hình thành kiến thức
1. Đọc văn bản “Thuế máu”
2. Tìm hiểu văn bản
a) Nhan đề Thuế máu gợi cho em suy nghĩ gì?
Bài tham khảo
“Thuế” vốn là một khái niệm đã quen thuộc. Nhưng tại sao lại gọi là “Thuế máu”? Cách đặt nhan đề tạo nên sự tò mò, mang đến sự chú ý, ấn tượng mạnh mẽ và gợi ra trong lòng độc giả nhiều suy nghĩ. Phải chăng chế chộ của thực dân xâm lược tàn bạo và hà khắc đến mức nhân dân ta phải đóng thuế bằng “máu”. Chữ “Máu” ở đây có lẽ Nguyễn Ái Quốc dùng với ngụ ý là sức lực, sức khỏe, hay chính là tính mạng của chính người dân.
Phần tham khảo mở rộng
Bài tập 1: Viết đoạn văn về kết quả sự hi sinh của những người dân các nước thuộc địa được Hồ Chí Minh nhắc đến qua văn bản Thuế máu
Bài tham khảo
Sau khi chiến tranh kết thúc, cũng là lúc những lời hứa của những người cầm quyền chấm dứt. Bằng giọng văn châm biếm, đả kích, Hồ Chí Minh đã nêu ra sự “đãi ngộ” mà những người dân xứ thuộc địa được nhận: lột hết của của họ, bị giao cho bọn súc sinh kiểm soát và đánh đập, cho ăn đồ ăn và ngủ trong hầm tầu ẩm ướt như lợn…. Và rồi sau khi cống hiến công sức, chiến đấu hết mình cho thắng lợi của chúng, những người dân thuộc địa trở về quê hương với “lời biết ơn” nồng nhiệt: Các anh đã bảo vệ Tổ quốc, thế là tốt. Bây giờ, chúng tôi không cần đến các anh nữa, cút đi!” . Bằng hàng loạt những cây hỏi nghi vấn nhưng không hề có mục đích hỏi, tác giả đang muốn khẳng định sự tráo trở, tàn nhẫn, xảo trá, vô nhân đạo, bỉ ổi của bọn thực dân Pháp. Vô nhân tính hơn, với vợ con của những thương binh người Pháp, còn được nhận “đặc ân” là được cấp môn bài bán thuốc phiện. Chúng không chỉ khiến gia đình họ tan vỡ, mất đi người chồng người cha trụ cột trong gia đình mà còn gieo rắc vào đất nước ta những tệ nạn chết người. Than ôi! Đó là cách mà những con người tự nhận mình đến khai sáng văn minh cho các nước thuộc địa đó sao? Cách “báo ơn” ấy càng làm cho những người Pháp nhục nhã hơn, lật tẩy bộ mặt gian trá và xảo quyệt của họ. Ta càng thêm đau xót khi nghĩ lại quá khứ tăm tối của dân tộc, khi sống dưới cảnh nô lệ và đầy rẫy những áp bức bất công của chế độ thực dân tàn ác.
Bài tập 2: Cảm nhận của em về tội ác của thực dân Pháp qua văn bản Thuế máu của Nguyễn Ái Quốc
Bài tham khảo
Dân tộc ta đã trải qua những tháng ngày sống dưới ách nô lệ và xiềng xích của thực dân Pháp. Trong gần trăm năm tăm tối ấy, chúng đã gây ra biết bao tội ác cho những người dân lao động. Văn bản Thuế máu của Nguyễn Ái Quốc đã vạch trần bộ mặt gian xảo, tráo trở và đê mạt của bè lũ thực dân Pháp.
Trước chiến tranh, bọn thực dân xem những người dân thuộc địa là những người bẩn thỉu, chỉ biết kéo xe tay và bị đánh đập. Thế nhưng khi chiến tranh xảy ra, họ xem những người dân như “con yêu, “bạn hiền”, “chiến sĩ bảo vệ công lí tự do”. Những mĩ từ đó được tác giả miêu tả với sự châm biếm , hài hước bởi đó chỉ là bộ mặt giả dối, gian xảo của các nhà cầm quyền. Bởi có được vinh dự ấy, người dân xứ thuộc địa ấy đã phải đem thân mình đi chinh chiến khắp các chiến trường cho những cuộc chiến vô nghĩa, rời xa gia đình và quê hương. Họ vô tình trở vật thí thân và là tấm lá chắn cho những tham vọng của bè lũ thực dân: phơi thây trên các bãi chiến trường châu Âu, bỏ xác tại những miền hoang vu thơ mộng, trở thành mồi cho cá mập, vùi xác dưới những đáy biển lạnh lẻo,.... Những người không trực tiếp ra trận thì cũng bị vắt kiệt sức trong các xưởng thuốc súng ghê tởm hoặc bị nhiễm bệnh bởi muôn vàn các chất độc hại khác mà chết. Những thống kê số liệu về sự hi sinh của những người dân đen tội nghiệp ấy càng khắc sâu thêm tình cảnh bi thảm của họ: Tổng cộng có bảy mươi vạn người bản xứ đặt chân lên đất Pháp; và trong số ấy, tám vạn người không bao giờ còn trông thấy mặt trời trên quê hương đất nước mình nữa. Những con số đã nói lên sự man rợ, tàn nhẫn của bè lũ thực dân.
Và tội ác của chúng còn được thể hiện qua việc bắt lính, mà chúng gọi là “chế độ lính tình nguyện”. Bọn thực dân Pháp giao nhiệm vụ cao cả này cho những tên cầm quyền ở Đông Dương phải nộp đủ số người bằng mọi cách. Bằng những thủ đoạn đê hèn nhất, Chúng mở cuộc lùng ráp, vây bắt và cưỡng chế bằng vũ lực để ép người dân đi lính. Không chỉ vậy, chúng còn dùng mánh khóe để trấn lột của cải của những người dân bằng luận điệu: không đi lính thì xì tiền ra. Khi bị bắt, chúng trói, xích, đánh đập như súc vật, sẵn sàng đàn áp dã man nếu họ chống đối. Đó là những hành đông vô nhân đạo, mất hết nhân tính, chúng coi mạng người như cỏ rác. Và trong hoàn cảnh đó, người dân tìm mọi cách để trốn thoát khỏi vòng vây của bọn thực dân, họ sẵn sàng làm cho mình bị nhiễm những căn bện năng nhất. Họ không hề tự nguyện, “tấp nập đầu quân” hay “không ngần ngại rời bỏ quê hương” như giọng điệu lừa bịp của bè lũ thực dân vẫn rao giảng trước toàn thế giới. Ta như thấy được thái độ căm phẫn của tác giả trước những tội ác man rợ của chúng với đồng bào ta trong những ngày tháng tăm tối của lịch sử dân tộc.
Và rồi, sau bao hi sinh, vùi da nướng thịt trên các chiến trường để đem lại của cải, đất đai và chiến thắng cho các nhà cầm quyền thực dân Pháp. Những người dân xứ thuộc địa được “trả ơn” thật xứng đáng: bị lột sạch tất cả của cải, họ cho ăn và ở như loài lợn… Thậm chí, chúng thẳng thường tuyên bố: “Các anh đã bảo về Tổ quốc, thế là tốt. Bây giờ chúng tôi không cần các anh nữa, cút đi.” Chúng còn “ban ơn” cho những gia đình mất đi người thân là tấm môn bài bán lẻ thuộc phiện. Không chỉ khiến gia đình người dân tan nát họ còn sẵn sàng đầu độc cả dân tộc thuộc địa, để họ suy giảm sức khỏe và suy kiệt giống nòi. Hàng loạt câu hỏi nghi vấn như những lời tố cáo thẳng thắn, quyết liệt của tác giả trước tội ác của bọn thực dân gây ra. Sự châm biếm, mỉa mai đến cực độ của tác giả được thể hiện qua từng câu chữ trước sự gian xảo, độc ác của chúng.
Với ngòi bút sắc sảo, tác giả đã đưa ra những luận điểm, luận cứ rõ ràng, chân thực, những hình ảnh tiêu biểu, giàu giá trị biểu cảm đã nói lên tội ác tày trời của thực dân Pháp. Tác giả đã thể hiện thái độ căm phẫn với bè lũ thực dân đồng thời cũng bộc lộ tình yêu thương, đồng cảm với những khốn khổ mà đồng bào ta phải trải qua trong đêm trường lịch sử.
Văn bản “Thuế máu” chính là nhát dao sắc bén của Nguyễn Ái Quốc, đâm thẳng vào “tim đen” của bọn thực dân và sự đau khổ của người dân các nước thuộc địa. Đó cũng là tiếng nói chung của bao lớp người khổ cực khi sống dưới sự đàn áp, áp bức của bè lũ thực dân