Đề văn 8: Phân tích hình tượng con hổ trong bài thơ Nhớ rừng của Thế Lữ

Đề văn 8: Phân tích hình tượng con hổ trong bài thơ Nhớ rừng của Thế Lữ. Theo đó, Baivan gửi đến các bạn 3 dàn bài + bài văn mẫu để các bạn có thể tham khảo. Từ đó, giúp các bạn có những bài văn hay nhất cho riêng mình.

[toc:ul]

Bài mẫu 1: Phân tích hình tượng con hổ trong bài thơ Nhớ rừng của Thế Lữ

Đề văn 8: Phân tích hình tượng con hổ trong bài thơ Nhớ rừng của Thế Lữ

Dàn ý

1. Mở bài

  • Giới thiệu tác giả, tác phẩm: “Nhớ rừng” là bài thơ tiêu biểu của Thế Lữ - một trong những nhà thơ lớn của phong trào Thơ mới.
  • Khái quát tâm trạng: Trong tác phẩm, trung tâm chính là tâm trạng con hổ trước thực tại tầm thường và quá khứ vàng son, qua đó nói về chính những con người Việt Nam đang trong hoàn cảnh mất nước.

2. Thân bài

  • Hoàn cảnh con hổ
  • Trước đây: là chúa sơn lâm oai hùng của rừng thẳm.
  • Bây giờ: bị bắt giam vào lồng ở vườn bách thú.

=> Cuộc sống bị giam cầm, tù hãm.

  • Cảm nhận về tâm trạng tủi nhục, phẫn uất, chán ghét khung cảnh thực tại.
  • Tâm trạng phẫn uất, chán ghét đến tột đỉnh khi bị giam cầm, bị coi làm trò đùa cho lũ người nhỏ bé tầm thường của con hổ - biểu tượng của rừng xanh oai linh.
  • Nhớ về quá khứ, con hổ nhớ về những kỉ niệm chốn rừng xanh với tâm trạng nuối tiếc.
  • Sống trong cũi sắt, chứng kiến những điều chán ghét tầm thường, con hổ khao khát được trở về với đại ngàn sâu thẳm, trở về với tự do, với thân phận đáng có của nó. Dù chỉ là trong giấc mộng, con hổ cũng muốn đưa hồn mình trở về với núi non
  • Đó là nỗi nhớ, niềm tự hào về quá khứ, về độc lập dân tộc, và là khao khát tự do, phá nát cái gọng kìm của bọn thực dân.

3. Kết bài

  • Khái quát lại tâm trạng con hổ: Nỗi chán ghét thực tại tầm thường, tù túng và niềm khao khát tự do mãnh liệt.
  • Liên hệ, đánh giá nghệ thuật miêu tả tâm trạng nhân vật của Thế Lữ.

Bài làm

Với nhân vật con hổ trong vườn thú được miêu tả như một tính cách dữ dội, lớn lao, đầy dằn vặt và khát vọng, Nhớ rừng ít nhiều đã hòa vào cái mạch đã từng đem lại cho thi ca biết bao nhiêu danh tác. Lẽ dĩ nhiên, không ai dám đặt con hổ của bài thơ bên cạnh những tầm cỡ như Prômêtê bị xiềng hay Hamlet hay Người tù xứ Capcadơ. Nhớ rừng mới chỉ là tiếng nói đớn đau của một kẻ đã mất hết niềm tin được tự do, mất hết ước mơ chiến thắng. Con hổ ở đây đã không thể làm được gì hơn là “nằm dài” trong cũi sắt, để “trông ngày tháng dần qua”, và nói về cái thuở oanh liệt vẫy vùng như những tháng ngày không bao giờ trở lại. Cũng không có trong nó cái khát khao tương truyền đã được người anh hùng Nguyễn Hữu cầu diễn tả trong những vần thơ lồng lộng ngợp say:

Bay thẳng cánh, muôn trùng Tiêu, Hán
Phá vòng vây, bạn với kim ô.

Có lẽ sẽ không là khiên cưỡng: nếu nói rằng Nhớ rừng với hình tượng con hổ nằm dài ấy, đã tạo nên tư thế của những con người đã thôi nghĩ đến hành động, những con người mà nhiệt tình làm cách mạng, mà hoài bão muốn góp phần mình vào một sự đổi thay đã không còn.

Thế nhưng, con hổ, hình tượng trung tâm của bài thơ, dù có chịu mất tự do, nhưng cũng không chịu mất đi niềm kiêu hãnh. Trong khổ đau, trong cảnh “tù hãm”, trong nỗi “nhục nhằn”, nó vẫn biết tự phân biệt mình với những kẻ đã đi hoàn toàn tầm thường đồng hoá đến cả tinh thần, ở đây, vấn đề không phải là xem xét “tác phong quần chúng” của con hổ, phê bình nó “không một chút ưu ái gì đối với những con vật như con gấu, con báo cùng số phận như nó và nằm sát ngay cạnh chuồng nó” như ai đó đã bàn. Ở đây, cũng như chim ở trong lồng, ở cả Prômêtê bị xiềng và Hamlet nữa, sự đối lập giữa hai hạng người, hai cách sống là cách thức nghệ thuật vẫn thường dùng để làm nổi bật lên cái kích thước cao cả và tô đậm thêm cảm hứng đầy tính bi kịch của một tâm hồn bị khổ đau chứ nhất quyết không chịu hạ mình trong bất hạnh.

Thế Lữ, ít nhất là một lần trong một đời thơ, đã cố gắng xây dựng cho mình một hình tượng thơ như thế. Con hổ ở Nhớ rừng biết mình chiến bại nhưng vẫn chưa chịu làm tôi tớ cho sự “tầm thường, giả dối” của cảnh ngục tù. Nó bất lực, nhưng không hoàn toàn khuất phục và thoả hiệp. Nó vẫn “ghét những cảnh không đời nào thay đổi”, nghĩa là còn ước ao những sự đổi thay. Bị giam thân trong lồng sắt chật, nó vẫn tha thiết vươn tới những chân trời rộng rãi của thế gian với “giấc mộng càng to lớn”, và của thời gian với “niềm uất hận ngàn thâu”. Bài thơ, cho tới cùng, vẫn thể hiện một tinh thần, chối từ thực tại, dẫu mới chỉ là sự chối từ trong mộng tưởng mà thôi

Sự xung đột, chống đối quyết liệt, thường xuyên, không thể dung hòa giữa hoàn cảnh và tính cách, giữa ngoại vật với nội tâm, giữa thấp hèn với cao thượng chính là cơ sở để kết cấu nên toàn bộ bài thơ. Có cảm giác như nghe được từ Nhớ rừng một bản xô nát bốn chương với sự luân chuyển, đan xen của hai nhạc đề tương phản, trong đó, chủ đề chính, chủ đề “nhớ rừng” bỗng đột ngột chuyển vút lên sau những nốt nhạc đã ngày càng chậm chạp, buồn nản ở chương đầu, và cứ vang to mãi, dào dạt mãi, dâng mãi đến cao trào với tất cả niềm phấn hứng của tâm linh để rồi chợt tắt lặng đi nặng nề, uất nghẹn. Và cuối cùng trong sự quật khởi chủ đề chính lại quay trở lại không còn hùng tráng được như trên, những thiết tha, những nuối tiếc. Bài thơ kết thúc trong tiếng gọi tha thiết với rừng già của một kẻ biết mình đã sắp phải chấm dứt cuộc vượt tù trong tâm tưởng. Như thế bằng việc luôn luôn chuyển đổi tình cảm và giọng điệu thơ sang phía đối lập với nó, nhà thơ đã tìm đúng cái cách thức hữu hiệu để diễn tả hết các cung bậc cảm xúc của một tâm trạng cô đơn và đầy day dứt.

Bài mẫu 2: Phân tích hình tượng con hổ trong "Nhớ rừng" của thi sĩ Thế Lữ

Đề văn 8: Phân tích hình tượng con hổ trong bài thơ Nhớ rừng của Thế Lữ

Bài làm

Nhà thơ Thế Lữ, được biết đến là một nhà thơ tiêu biểu nhất trong phong trào Thơ mới buổi đầu. Thơ của Thế Lữ được nhận xét là một hồn thơ dồi dào và đầy trong nó sự lãng mạn. Đến với bài thơ "Nhớ rừng" của ông, bạn đọc thấu hiểu được một tình yêu nước sâu sắc, qua hình tượng "con hổ", tác giả đã mượn nó để nói đến sự chán ghét thực tại tầm thường, và gửi gắm trong đó tình yêu dân tộc thầm kín. Có thể nói, hình ảnh con hổ trong bài thơ là một sáng tạo đặc biệt, mà qua nó, tác giả đã gửi gắm được những tâm sự thầm kín, mang đầy tính nhân văn.

Mở đầu bài thơ, hình ảnh một con hổ hiện ta với sự kìm kẹp, tù hãm, bởi nó vốn xuất phát điểm là chúa tể muôn loài, mà giờ đây lại đang bị giam hãm trong một khối sắt lạnh lẽo, mà trong con hổ đang dâng tràn một sự căm hờn chẳng nguôi ngoai:

"Gậm một khối căm hờn trong cũi sắt
Ta nằm dài trông ngày tháng dần qua"

"Cũi sắt" được nhắc đến, thể hiện sự giam cầm tự do, một không gian giam hãm nhỏ bé, bức bí, khiến con hổ "căm hờn". Những ngày tháng trôi qua trong giam hãm, chúa sơn lâm mang trong mình sự uy nghiêm ngày nào giờ lại phải tồn tại trong một không gian nhỏ hẹp, "sa cơ" lỡ vận. Con hổ mang trong mình bản chất của chúa sơn lâm, vốn quen vùng vẫy ở một không gian rừng thiêng rộng lớn, cho nên khi phải bị cảnh giam cầm, nó sống mà như chốn địa ngục, cảm giác "nhục nhằn" dâng cao, cảm thấy mình tầm thường khi bị đem ra làm trò chơi, làm thú mua vui cho những kẻ "Giương mắt bé giễu oai linh rừng thẳm".

Con hổ khi phải sống trong sự giam cầm tưởng như không lối thoát như vậy, nó vẫn luôn hướng về quá khứ oai hùng, đầy uy nghiêm. Đại từ nhân xưng "ta" được tác giả sử dụng ở lối xưng của con hổ, càng thể hiện rõ bản lĩnh, sự uy nghiêm, oai hùng của chúa sơn lâm một thời. Con hổ luôn nhớ về thời oanh liệt, vàng son của mình, đó là khi "tung hoành hống hách", là khi những cảnh quen thuộc là "bóng cả, cây già". Sự uy nghiêm ngày ấy thể hiện rõ qua những tiếng gầm thét núi, những tiếng gào dữ tợn vang xa đại ngàn. Con hổ nhớ về uy thế lẫm liệt của mình, chẳng xa lạ gì với cái tên mà người ta vẫn gọi về nó: chúa sơn lâm. Sự suy nghĩ ngày ấy còn toát lên cả ở những bước đi lẫm liệt, đường hoàng, tất cả mọi con vật đều phải nhún nhường, khiếp sợ. Hình ảnh quá khứ của con hổ hiện lên với bao nỗi nhớ chất chồng, vừa là thương nhớ, vừa là hoài niệm, về một thời oanh liệt, vẫy vùng.

Sự nuối tiếc về quá khứ vàng son luôn thường trực trong nỗi nhớ của con hổ, nhớ cả về núi rừng đại ngàn, nhớ cả về những đêm trăng, con hổ "say mồi đứng uống ánh trăng tan". Một khung cảnh lãng mạn hiện lên: chúa sơn lâm sau một ngày no say những con mồi, đang cúi xuống uống dòng nước lấp lánh ánh trăng. Và cả những ngày tháng rừng mưa rả rích, cây cối như bừng tỉnh sau cơn mưa, con hổ-với ca ngợi là "chúa tể muôn loài", cũng có những khoảng lặng, ngắm nhìn 'giang sơn đổi mới". Và cả những khung cảnh lãng mạn, tiếng chim hót líu lo đón ánh nắng, hình ảnh con hổ đôi mắt lim dim lặng im cảm nhận những hơi thở riêng của thiên nhiên, đất trời. Và, nỗi nhớ về cả những buổi hoàng hôn, mặt trời dần tắt, một khoảng không gian chuyển giao ngày và đêm, để con hổ tiếp tục một cuộc hành trình săn mồi đầy bí hiểm và say sưa. Tất cả gói gọn trong nỗi nhớ da diết của con hổ với rừng thiêng, với một nơi được gọi là nhà của chúa sơn lâm. Nhưng than ôi, những khung cảnh trong nỗi nhớ đó, giờ chỉ còn được gọi là "thời oanh liệt", vì nó đã qua mất rồi, vì hiện thực quá đối lập với những gì của quá khứ gọi tên. Giờ đây, con hổ phải sống trong một không gian đầy sắp xếp tầm thường, giả dối:

"Ghét những cảnh không đời nào thay đổi
Những cảnh sửa sang,tầm thường, giả dối..."

Sự chán ghét thực tại của con hổ được thể hiện rõ ràng, chân thực. Dưới con mắt của chúa sơn lâm, cảnh suối, nước, hoa, cây, mô gò được làm để giống với cảnh rừng thiêng đều mang sự giả dối, vì nó chỉ là sự sao chép sáo rỗng, đơn điệu, nhàm chán. Con hổ vẫn luôn đau đáu và nhớ về thời kì oai nghiêm của mình, vẫn là cảnh rừng thiêng "của ta", như một sự khẳng định, như một sự sở hữu, thể hiện bản lĩnh và vị thế của một chúa sơn lâm, tuy đã bị sa cơ lỡ vận.

Mượn hình ảnh con hổ, nhà thơ Thế Lữ muốn gửi gắm nỗi chán ghét thực tại tầm thường, đơn điệu, đồng thời thể hiện niềm khao khát tự do mãnh liệt, qua đó, thể hiện một tấm lòng yêu nước thầm kín mà không kém phần sâu sắc.

Bài mẫu 3: Phân tích hình tượng nhân vật con hổ trong bài thơ Nhớ rừng

Đề văn 8: Phân tích hình tượng con hổ trong bài thơ Nhớ rừng của Thế Lữ

Bài làm

Nhớ rừng của Thế Lữ ra đời năm 1934, đó là lúc mà đất nước ta vẫn chìm trong nỗi nhục của những kiếp nô lệ lầm than. Nỗi đau mất nước trong suốt một thời gian dài trở thành chủ đề nhớ tiếc căm hờn của biết bao thi sĩ. Cảm nhận sâu sắc nỗi niềm dân tộc ấy, Thế Lữ đã mượn lời con hổ bị giam cầm trong vườn bách thú mà nói lên niềm tâm sự u uất, căm hờn và niềm khát khao tự do mãnh liệt của những kiếp nô lệ lầm than.

Bài thơ được tác giả ngắt thành năm đoạn trong đó đoạn một hợp với đoạn bốn, đoạn hai hợp với đoạn ba tạo thành một cặp ý đối lập nhau: cảnh vườn bách thú nhỏ hẹp và tù hãm với cảnh núi rừng hùng vĩ nơi con hổ ngự trị, tung hoành những “ngày xưa”.

Bài thơ mở đầu đầy căm hờn nhưng cũng đầy bất lực của con hổ. Sự căm hờn ấy là kết quả của sự dồn nén lâu ngày trong chật chội và ngột ngạt. Nó bứt rứt, khó chịu và u uất vô cùng. Khổ thơ là sự chán ngán cái thực tại, chán ngán “lũ người kia ngạo mạn, ngẩn ngơ” dám “giương mắt bé giễu oai linh rừng thẳm”. Cảnh tù đầy “nhàn hạ” như một thứ đồ chơi thực sự đã trở thành một nỗi nhục nhã đối với chúa tể của rừng già. Khổ bốn tiếp tục mở ra “niềm uất hận” khi chúa sơn lâm hàng ngày phải chứng kiến những sự đổi thay tầm thường và giả dối. Đó là “những cảnh sửa sang” giả làm “bí hiểm” nhưng chỉ là sự bắt chước một cách vụng về cái chốn hoang vu và cao cả của sơn lâm.

Đối lập với cảnh ở vườn bách thú là cảnh chốn âm u và hùng tráng của rừng già được mở ra ở khổ hai, ba. Ở cái nơi sơn cùng thủy tận ấy, hổ dõng dạc, đường hoàng trong vai chúa sơn lâm. Đó là chốn hoang vu mà thảo hoa nhiều đến nỗi không ai nhớ hết tên và tuổi. Chốn thiên đưòng của chúa tể muôn loài chứa chan những kỷ niệm, những chiến tích oai hùng của cái thủa được tự do. Nhưng đau đớn thay với hổ, những chiến tích ấy giờ đây chỉ còn là chuyện của “ngày xưa”. Chính vì thế mà cái ước muốn và niềm khao khát được tự do của chúa sơn lâm mới cuộn dâng trong những dòng thơ cuối. Đó là cái ước muốn được trở về với cái uy danh thực sự, trở về với cuộc sống tự do của rừng già.

Như vậy bài thơ chính là tâm trạng đầy bi kịch của chúa rừng khi bị sa cơ, bị thất thế, bị giam cầm. Bài thơ đặt trong hoàn cảnh lịch sử đất nước những năm 30 thì nỗi tủi nhục, cay đắng căm hờn của con hổ cũng đồng điệu với bi kịch của đồng bào ta trong cái cảnh gông xiềng của cuộc đời nô lệ.

Bài thơ là minh chứng cho một thực tế sáng tác khá phổ biến trong tầng lớp văn nghệ sĩ và cũng là một nét tâm trạng của tầng lớp tiểu tư sản ở nước ta lúc đó. Trí thức văn nghệ sĩ lãng mạn giàu lòng yêu nước nhưng sự o ép nhiều khi đến dã man của bọn thực dân đã làm cho cái tinh thần dân tộc của họ dù rất muốn được thể hiện nhưng cũng chỉ tìm cách nào đó mà phản kháng gián tiếp thôi. Nhớ rừng chọn lời con hổ để thể hiện lòng yêu nước và tinh thần dân tộc là vì như vậy. Chọn lời con hổ, Thế Lữ ít phải dè dặt hơn trong nội dung cảm xúc. Bằng cách này tác giả có thể phô bày tất cả những “nhố nhăng” của hiện thực từ đó mà thể hiện sự phản kháng hiện thực và niềm khát khao mãnh liệt cuộc sống tự do của đồng bào ta.

       Nhớ rừng có cách thể hiện nội dung cảm xúc giống với Thề non nước hay Muốn làm thằng Cuội. Nội dung tư tưởng của bài thơ được thể hiện gián tiếp mà sắc sảo. Hình tượng chúa sơn lâm với nỗi nhớ rừng, nỗi đau sa cơ, thất thế cũng chính là bi kịch của dân tộc, là tình yêu quê hương tha thiết và là khát vọng tự do.

Tìm kiếm google:

Xem thêm các môn học

Bài văn mẫu 8


Đia chỉ: Tòa nhà TH Office, 90 Khuất Duy Tiến, Thanh Xuân, Hà Nội
Điện thoại hỗ trợ: Fidutech - click vào đây
Chúng tôi trên Yotube
Cùng hệ thống: baivan.net - Kenhgiaovien.com - tech12h.com