[toc:ul]
1. Thể loại
- Tuồng (hay còn gọi là luông tuồng, hát bộ, hát bội) là một loại hình kịch nhạc phát triển mạnh dưới triều Nguyễn ở vùng Nam Trung Bộ.
- Phân loại:
- Tuồng dân gian (tuồng hài) thường được xây dựng trên các tích kể về sinh hoạt đời thương, giàu yếu tố hài, châm biếm, các yếu tố hóa trang, phục trang, đạo cụ, động tác thường đơn giản.
2. Đọc văn bản
- Thể loại: tuồng
- Bố cục: 3 phần
- Nội dung: Đoạn trích kể về các âm mưu, toan tính của những kẻ đại diện cho công quyền (tri huyện, đề lại và các lính lệ) nhằm “tróc tiền” của những người thưa kiện (gồm lí trưởng và trùm Sò)
3. Tác phẩm
a. Tuồng Nghêu, Sò, Ốc, Hến
- Nghêu, Sò, Ốc, Hến thuộc loại tuồng đồ (tuồng hài), châm biếm sâu sắc nhiều thói hư tật xấu trong xã hội và lật tẩy bộ mặt xấu xa của một số kẻ thuộc bộ máy cai trị ở địa phương trong xã hội xưa.
- Đây là tác phẩm tiêu biểu trong di sản tuồng truyền thống và là vở tuồng đồ thuộc loại đặc sắc nhất
- Tích tuồng Nghêu, Sò, Ốc, Hến có một số dị bản, kể khác nhau ở một vài chỗ, trong đó có tình tiết đánh ghen cuối vở
- Văn bản Nghêu, Sò, Ốc, Hến do Hoàng Châu Ký chỉnh lí (1957) gồm có tất cả ba hồi.
b. Văn bản Huyện đường
Trích từ vở tuồng Nghêu, Sò, Ốc, Hến, thuộc cảnh I của hồi thứ II, thể hiện cảnh tri huyện và đề lại bàn bạc với nhau về cách nhũng nhiễu người kêu kiện.
1. Hình ảnh những kẻ đại diện cho bộ máy công quyền
- Nhân vật Tri huyện:
- Phô trương uy quyền, một kẻ thuộc loại “ăn trên ngồi trốc”, hưởng đủ mùi phú quý và quen sống phóng đãng
- Cậy quyền cậy thế để tự tung tự tác, bất chấp công lí, đạo lí, miễn sao vơ vét được nhiều
=> đặc điểm chung của tầng lớp thống trị
- Nhân vật Đề lại
- Lính lệ
-Giữa ba nhân vật, tuy có chức phận, tính cách và hành động khác nhau nhưng hoàn toàn “gặp gỡ” nhau ở bản chất tham lam và mánh khoé đục khoét người dân “thấp cổ bé họng”. Sự “phối hợp hoạt động” của cả ba có thể làm bộ máy chính quyền trở nên thối nát, gây ra nhiều tai hoạ cho xã hội.
- Việc tri huyện và đề lại không cần phải giữ ý với nhau là việc hoàn toàn tự nhiên, dễ hiểu vì hai nhân vật này có sự tương đồng về bản chất (như trên đã nói), lại có quá trình cấu kết với nhau lâu dài trong việc tróc nã, chiếm đoạt tiền bạc từ người thưa kiện.
=> Thể hiện cách đánh giá của nhân dân trong xã hội phong kiến chưa: “cửa quan” là chốn đày những kẻ đục khoét, mưu mô, luôn tìm cơ hội vơ vét “cho đầy túi tham” và những người dân luôn ở thế yếu, “thấp cổ bé họng”.
2. Giá trị nổi bật của màn tuồng
- Giá trị nội dung:
- Nghệ thuật:
1. Nội dung
- Giá trị hiện thực:
- Giá trị nhân đạo: Bộc lộ niềm cảm thông, thương xót đối với những người dân thấp cổ bé họng bị lợi dụng
2. Nghệ thuật
- Đoạn trích châm biếm và vạch trần bộ mặt của xấu xa của những kẻ thuộc bộ máy cai trị như tri huyện và đề lại
- Phần nào cho thấy xã hội phong kiến xưa với những góc khuất, những kẻ tham lam dựa vào quan chức để nhũng nhiễu dân chúng
- Bộc lộ niềm cảm thông, thương xót đối với những người dân thấp cổ bé họng bị lợi dụng