[toc:ul]
Nghệ thuật cấu tứ của bài thơ này rất độc đáo. Chỉ trong 28 chữ nhưng đã vẽ nên hai bức tranh tâm trạng của người khuê phụ: một là ở câu đầu với tâm trạng “bất tri sầu” (chẳng biết sầu) và hai là ở câu cuối với tâm trạng “hối” (hối hận). Và bản lề của quá trình chuyển biến tâm trạng ấy chính là câu thứ ba “Hốt kiến mạch đầu dương liễu sắc” (Chợt thấy sắc [xuân] của cây dương liễu bên đường). Từ câu bản lề này mà tâm trạng của người khuê phụ chuyển biến. Hai bức tranh hoàn chỉnh và chuyển tải một cách trọn vẹn dụng ý của nhà thơ.
Màu dương liễu vừa là màu của mùa xuân, của tuổi trẻ, vừa là "màu li biệt", vì thế khi nhìn thấy "màu dương liễu" tâm trạng người khuê phụ lập tức đổi thay ngay: từ vô tư, nàng bắt đầu hối hận vì để chàng đi tìm kiếm tước hầuv; từ hối hận, nàng chuyển sang oán thán cái ấn phong hầu, oán ghét chiến tranh phi nghĩa. Khuê phụ giờ mới hiểu hết giá trị của chia li và sự phi lí của chiến tranh.
Chỉ trong 28 chữ nhưng bài thơ này đã vẽ nên được những hậu quả do chiến tranh phi nghĩa sinh ra, đó là gia đình bị chia lìa, chồng xa vợ, cha xa con và những người ở nhà chờ đợi người ra đi mà không biết đến ngày nào sẽ trở lại. Hạnh phúc của con người trở thành một bóng dáng xa xôi… và cái khát khao hạnh phúc của người khuê phụ trẻ tuổi kia làm mủi lòng người, bài thơ trở thành một bản cáo trạng tố cáo chiến tranh phi nghĩa của những con người thời đại bấy giờ.