[toc:ul]
Tác giả:
Tác phẩm:
Trong câu thơ đầu, nhà thơ đã mượn hình tượng thiên nhiên để nói về vận nước (vận nước như dây leo quấn quýt). Nghệ thuật so sánh ấy vừa nói lên sự bền chặt, lại nói lên sự dài lâu, sự phát triển thịnh vượng của nước mình. Câu thơ vừa khẳng định vận may của đất nước (Quốc tộ là vận may của quốc gia) đồng thời nói lên niềm thin của tác giả vào vận nước.
Hoàn cảnh đất nước: Sau nhiều năm chiến tranh loạn lạc (loạn mười hai sứ quân và sự xâm lược của nhà Tống năm 981) đất nước ta bắt đầu bước vào thời kì ổn định. Nhà vua (Lê Đại Hành) muốn xây dựng một vương triều phong kiến vững mạnh, một quốc gia hùng cường. Trong khí thế đi lên của dân tộc, mọt vận hội mới như đang mở ra trước mắt.
Tâm trạng tác giả: Rất tin tưởng vào tương lai của đất nước. Hai câu thơ phản ánh một tâm trạng phơi phới vui tươi, đầy lạc quan và tự hào của tác giả.
Hai câu thơ này nói về đường lối trị nước, cô đọng lại ở hai chữ “vô vi”. Theo thuật ngữ trong sách Đạo đức kinh của Lão Tử nhằm chỉ một thái độ sống thuận theo tự nhiên, không làm điều trái tự nhiên. Trong bài thơ này vô vi cần được hiểu theo tinh thần của Nho giáo, một học thuyết chính trị - đạo đức. Người lãnh đạo (cụ thể ở đây là vua) dùng đức của bản thân để cảm hóa nhân dân, hòa hợp với lòng người và không làm gì trái với đạo lí khiến cho dân tin phục. Khi nhân dân tin phục thì xã hội sẽ đạt được cảnh thái bình, vua không cần phải làm gì hơn. Tác giả khẳng định như vậy nhằm khuyên nhà vua trong việc điều hành chính sự nên thuận theo lẽ tự nhiên, dùng đức để trị, lấy đức mà giáo hóa dân. Có làm được như thế thì đất nước mới thái bình, thịnh trị, không còn họa chiến tranh.
Điểm then chốt của bài thơ là hai chữ “thái bình”. Vận nước xoay quanh hai chữ “thái bình” mà đường lối trị nước cũng hướng tới hai chữ ấy. Nguyện vọng của con người thời đại bấy giờ là mơ ước một nền “thái bình muôn thủa”. Hai câu thơ cuối phản ánh một truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam ta. Đó là truyền thống yêu chuộng hoà bình.