[toc:ul]
Tác giả:
Tác phẩm:
Hai câu thơ này nói lên quy luật hóa sinh của tự nhiên. Hoa cũng như người, không thể mãi đứng yên, bất biến. Tất cả đều vận động theo một quy luật biến đổi tuần hoàn, có sinh rồi có diệt. Đó là lẽ tự nhiên của mọi vật trong trời đất. Nếu ta đảo câu thơ 2 lên vị trí câu thơ đầu thì ý thơ sẽ thay đổi. Ở đây tác giả nhìn nhận tự nhiên theo quy luật: xuân qua rồi thì xuân sẽ tới, hoa rụng rồi sẽ có hoa tươi. Một cái nhìn hết sức lạc quan. Theo cách nhìn này thì vòng đời cứ thế mở ra, cái sau tiếp nối cái trước. Bánh xe luân hồi không ngừng chuyển động. Vong sau tươi đẹp hơn vòng trước. Nếu đảo câu 2 lên vị trí của câu đầu thì quy luật tự nhiên ở đây được nhìn nhận theo cách nhìn hoàn toàn khác: xuân tới rồi xuân qua, hoa tươi rồi hoa rụng. Cách nhìn này đi theo chiều hướng khác, một cái nhìn bi quan. Vòng luân hồi như bị khép lại.
Câu ba và câu bốn nói lên quy luật của đời người - quy luật: sinh, lão, bệnh, tử theo quan niệm của đạo Phật. Con người cùng với thời gian trôi thì tuổi trẻ sẽ qua đi và tuổi già ắt đến. Tuổi già đến trên đầu mà thời gian thì không ngừng trôi chảy (trước mắt việc đi mãi). Vì thế cuộc đời con người trong khoảnh khắc có khác gì ảo ảnh. Hai câu thơ có chút bâng khuâng nuối tiếc vì thời gian của vũ trụ thì vô thuỷ vô chung còn thời gian của đời người thì ngắn ngủi.
Trong hai câu thơ cuối, tác giả mượn việc miêu tả thiên nhiên mà nói đến một quan niệm triết lí trong Phật giáo; khi con người đã giác ngộ đạo (hiểu được chân lí và quy luật) thì có sức mạnh lớn lao, vượt lên trên cả lẽ sinh diệt thông thường. Thiền sư đắc đạo trở về với bản thể vĩnh hằng, không sinh, không diệt như nhành mai kia cứ tươi bất kể xuân tàn. Theo cách giải thích này nội dung ý tức của hai câu thơ cuối không hề có chút gì mâu thuẫn với nhau.
(Cần xâu chuỗi phần trả lời ở những câu hỏi trên, chú ý:
Bài thơ toát lên niềm yêu đời, lạc quan và tràn đầy niềm tin vào cuộc sống của mãn giác thiền sư. Từ sự hiểu được những quy luật hóa sinh đến việc chấp nhận nó, thuận theo tự nhiên và sống lạc quan an nhiên và tự tại. Hai câu cuối khái quát nên nội dung của toàn bài. Những từ ngữ mạnh, mang nặng tính khẳng định như “chớ bảo”, “một cành mai” khiến thời thơ cô đọng. Từ việc nhìn thấy cái lẽ sinh – tử của đời người, cất lên những tiếng thở dài cho đến cái nhìn phóng khoáng, thông tuệ, tràn ngập ánh sáng của một ngày mới chứng tỏ ở Mãn Giác thiền sư đã có sự giác ngộ sâu sắc. Cành mai cuối bài hiện ra như sự tiếp nối cho vòng xoay của bánh xe luân hồi: điểm khởi đầu của bài thơ là “xuân tàn” và kết thúc là một hình ảnh đầy sức gợi – “cành mai” hiện ra thể hiện một lối tư duy, một cái nhìn mang đậm tinh thần lạc quan của tác giả.