[toc:ul]
Ví dụ: Đọc các đoạn thơ a, b, c và trả lời câu hỏi:
Nhận xét về số chữ trong mỗi dòng ở các đoạn thơ trên?
Tìm những chữ có chức năng gieo vần ở mỗi đoạn. Vận dụng kiến thức về vần chân, vần lưng, vần gián cách đã học để nhận xét cách gieo vần cho từng đoạn.
Nhận xét về cách ngắt nhịp ở mỗi đoạn thơ trên.
Trả lời:
| Ví dụ a | Ví dụ b | Ví dụ c |
Số chữ | 8 chữ | 8 chữ | 8 chữ |
Gieo vần | Tan – ngàn Mới – gội Bừng – rừng Gắt – mật ->vần chân, vần liền | Về - nghe Học – nhọc Bà – xa =>Vần chân, vần liền | Ngát – hát Non – son Đứng – dựng Tiên – nhiên =>Vần chân, vần cách |
Ngắt nhịp | 2/3/3; 3/2/3; 3/3/2; 4/4 =>Đa dạng, linh hoạt | 3/3/2; 4/2/2; 4/4; 3/5 =>đa dạng, linh hoạt | 3/5; 3/3/2; 3/2/3 =>đa dạng, linh hoạt. |
Ghi nhớ:
Đoạn thơ sau trích trong bài “Tháp đổ” của Tố Hữu. Hãy điền vào chỗ trống cuối các dòng thơ một trong các từ “ca hát, bát ngát, ngày qua, muôn hoa” cho phù hợp.
Hãy cắt đứt những dây đàn…
Những sắc tàn vị nhạt của…
Nâng đón lấy màu xanh hương…
Của ngày mai muôn thuở với…
Hoàn thành đoạn thơ ta được:
Hãy cắt đứt những dây đàn ca hát
Những sắc tàn vị nhạt của ngày qua
Nâng đón lấy màu xanh hương bát ngát
Của ngày mai muôn thuở với muôn hoa
Đoạn thơ sau trích trong bài “Vội vàng” của Xuân Diệu. Hãy điền vào chỗ trống cuối các dòng thơ một trong các chữ: "cũng mất, đất trời, tuần hoàn" sao cho đúng vần.
Xuân đương tới, nghĩa là xuân đương qua,
Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già,
Mà xuân hết, nghĩa là tôi /…/
Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật.
Không cho dài thời trẻ của nhân gian,
Nói làm chi ràng xuân vẫn /…/
Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại!
Còn trời đất nhưng chẳng còn tôi mãi,
Nên bâng khuâng nuối tiếc cả /…/
Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi,
Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt...
Hoàn thành đoạn trích trong bài “Vội vàng” của Xuân Diệu:
Xuân đương tới, nghĩa là xuân đương qua,
Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già,
Mà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất
Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật.
Không cho dài thời trẻ của nhân gian,
Nói làm chi ràng xuân vẫn tuần hoàn
Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm Lại!
Còn trời đất nhưng chẳng còn tôi mãi,
Nên bâng khuâng nuối tiếc cả đất trời
Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi
Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt...
Đoạn thơ sau trong bài “Tựu trường” của Huy Cận đã bị chép sai ở câu thứ ba. Hãy chỉ ra chỗ sai, nói lí do và thử tìm cách sửa lại cho đúng.
Giờ nao nức của một thời trẻ dại
Hỡi ngói nâu, hỡi tường trắng, cửa gương!
Những chàng trai mười lăm tuổi rộn rã,
Rương nho nhỏ với linh hồn bằng ngọc.
Câu thứ ba bị chép sai từ “rộn rã”. Vì khổ thơ được gieo vần chân gián cách, chữ cuối câu 3 phải hiệp vần với chữ cuối của câu 1
Câu thơ sửa lại:
Giờ nao nức của một thời trẻ dại
Hỡi ngói nâu, hỡi tường trắng, cửa gương!
Những chàng trai tuổi mới độ mười hai
Rương nho nhỏ với linh hồn bằng ngọc.
Sắp chia tay bạn ơi bạn có nhớ
Dưới cánh phượng, kỉ niệm chẳng phai mờ
Tình bạn kia nồng ấp trong năm tháng
Buồn cho người, người lặng bước lang thang
Thu đến thu đi rồi thu lại đến
Tôi nhớ tôi thương rồi tôi có quên ?
Thời học trò hồn nhiên, chiếc áo trắng
Để vào trong tim một khoảng vắng lặng...
Trời trong biếc không qua mây gạn trắng
Gió nồm nam lộng thổi cánh diều xa
Hoa lựu nở đầy một /…./ đỏ nắng
Lũ bướm vàng lơ đăng lướt bay /…. /
(Anh Thơ, Trưa hè)
Ta nhận thấy: Khổ thơ gieo vần gián cách: Tiếng “trắng” (câu 1) vần với tiếng “nắng” (câu 3). Vậy tiếng cuối cùng của câu 4 phải mang thanh bằng và chứa vần “a” để vần với “xa” ở câu 2. Tiếng thứ 6 câu 3 phải là thanh bằng để giữ nhịp (đổi thanh điệu so với câu 2).
Có thể điền từ thích hợp vào chỗ trống như sau:
Trời trong biếc không qua mây gạn trắng
Gió nồm nam lộng thổi cánh diều xa
Hoa lựu nở đầy vườn đỏ nắng
Lũ bướm vàng lơ đăng lướt bay qua
Khổ thơ còn thiếu một câu. Hãy làm thêm câu cuối sao cho đúng vần, hợp với nội dung cảm xúc từ ba câu trước.
Mỗi độ thu về lòng xao xuyến lạ
Nhớ nôn nao tiếng trống buổi tựu trường
Con đường nhỏ tiếng nói cười rộn rã
/……/
Mỗi độ thu về lòng xao xuyến lạ
Nhớ nôn nao tiếng trống buổi tựu trường
Con đường nhỏ tiếng nói cười rộn rã
Nay xa rồi, kỉ niệm vẫn còn vương