[toc:ul]
1. Tác giả
2. Tác phẩm
=> A-sin trong sử thi I-li-át là người anh hùng xuất chúng, biểu tượng cho sức mạnh thể chất còn Uy-lít-xơ trong sử thi Ô-đi-xê là người anh hùng biểu tượng cho sức mạnh trí tuệ của con người Hi Lạp.
Trả lời:
Có thể chia văn bản trên thành hai đoạn:
=> Cuộc đối thoại giữa bốn nhân vật nhũ mẫu, Ơ-ri-clê, con trai Tê-lê-mác, Pê-nê-lốp và Uy-lít-xơ, sự thận trọng của Pê-nê-lốp khi nhận chồng và thái độ của Pê-lê-mác đối với hành động, thái độ của mẹ.
=> Pê-nê-lốp thử thách Uy-lít-xơ và vợ chồng đoàn tụ
Trả lời:
=> Lời nói và hành động của Uy-lít-xơ cho thấy chàng rất bình tĩnh, thấu hiểu được sự lo lắng, thận trọng, tính cách của vợ mình. Đồng thời cũng thể hiện một niềm tin mãnh liệt của chàng đối với Pê-nê-lốp trong tình cảm vợ chồng.
=> Dù rất muốn vợ chồng đoàn tụ song Uy-lít-xơ vẫn tỉnh táo để nhận ra những nguy hiểm trước mắt và chàng biết phải giải quyết nó trước để giữ sự bình yên cho gia đình mình. Điều này thể hiện trí tuệ và sự sáng suốt của người anh hùng.
=> Chàng là người rất giàu tình cảm và đặc biệt là tình yêu mà chàng dành cho người vợ hiền thảo, thông minh, thủy chung của mình chưa bao giờ thay đổi.
Trả lời:
Trả lời
Tôi trở về nhà trong sự háo hức và hồi hộp. Trong trang phục của người hành khất, tôi đã được vào căn nhà của mình. Gặp lại Pê-nê-lốp, người vợ hiền tôi mong nhớ đã bao lâu, trái tim tôi thổn thức không nói nên lời. Căn nhà vẫn như lúc tôi rời đi, có chăng chỉ là thay đổi chút ít. Pê-nê-lốp vẫn xinh đẹp và cao quý như trong trí nhớ của tôi. Tôi và con trai đã bàn kế để tiêu diệt kẻ thù - những kẻ đến để cầu hôn vợ tôi. Pê-nê-lốp đã tổ chức cuộc thi bắn cung để lựa chọn người tài giỏi nhất để nàng sẽ lấy làm chồng. Cây cung trong tay tôi lao vun vút, tiêu diệt hết những tên cầu hôn đầu sỏ, đánh đuổi hết chúng ra khỏi nhà, trừng trị lũ đầy tớ phản bội. Làm xong từng ấy việc, tôi vào trong sảnh chính ngồi dưới chiếc cột đá, ngả đầu nghỉ ngơi trong lúc đợi nhũ mẫu Ơ-ri-clê lên thông báo lại cho Pê-nê-lốp.
Một lát sau, Pê-nê-lốp cùng nhũ mẫu từ trên lầu bước xuống. Dáng đi của nàng vẫn nhẹ nhàng và thanh thoát. Ánh mắt tôi dõi theo từng bước chân của nàng từ lúc nàng bước xuống cho đến khi dừng lại, ngồi cách tôi thật xa. Tôi thấy thật ngỡ ngàng và cũng có chút gì đó hụt hẫng. Tôi cứ nghĩ, nhìn thấy tôi, người chồng đã xa cách hơn 20 năm, nàng sẽ nhào vào lòng, ôm lấy tôi mà âu yếm, mà giãi bày lòng mình. Nhưng không, nàng có vẻ thận trọng và đề phòng với tôi. Tê-lê-mác đã lên tiếng trách mẹ nó gay gắt:
- Mẹ ơi, mẹ thật tàn nhẫn, và lòng mẹ độc ác quá chừng! Sao mẹ lại ngồi xa cha con như thế, sao mẹ không đến bên cha, vồn vã hỏi han cha? Không, không một người đàn bà nào sắt đá đến mức chồng đi biền biệt hai mươi năm nay, trải qua bao nỗi gian lao, bây giờ mới trở về xứ sở, mà lại có thể ngồi cách xa chống như vậy. Nhưng mẹ thì bao giờ lòng dạ cũng rắn hơn cả đá.
Pê-nê-lốp nhìn Tê-lê-mác rồi thận trọng nói với con:
- Con ạ, lòng mẹ kinh ngạc quá chừng, mẹ không sao nói được một lời, mẹ không thể hỏi han, cũng không thể nhìn thẳng mặt người. Nếu quả thực đây chính là Uy-lít-xơ, bây giờ đã trở về, thì con có thể tin chắc rằng thế nào cha con và mẹ cũng sẽ nhận được nhau một cách dễ dàng, vì cha và mẹ có những dấu hiệu riêng, chỉ hai người biết với nhau, còn người ngoài không ai biết hết.
Nghe nàng nói, tôi nhận ra rằng nàng vẫn chưa hoàn toàn tin tưởng tôi là Uy-lít-xơ, là người chồng xa cách bấy lâu nay của nàng. Chắc tôi sẽ phải cần thời gian để chứng minh thân phận với nàng hoặc sẽ phải trải qua một vài thử thách nho nhỏ của người vợ thông minh này. Tôi mỉm cười quay sang nói với đứa con trai:
- Tê-lê-mác, con! Đừng làm rầy mẹ, mẹ con muốn thử thách cha ở tại căn nhà này. Thế nào rồi mẹ con cũng sẽ nhận ra thôi. Hiện giờ cha con bẩn thỉu, quần áo rách rưới nên mẹ con khinh cha, chưa nói "đích thị là chàng rồi!". Nhưng trước hết cha con ta phải bàn xem nên xử trí thế nào cho ổn thỏa nhất để không gây thêm thù oán và chiến tranh sẽ không xảy ra.
Tê-lê-mác chậm rãi đáp lại lời của tôi. Con trai nói tin tưởng tôi tuyệt đối vì với con, tôi là một người thông minh và khéo léo và con sẽ làm theo tất cả những gì tôi bảo. Tôi gật đầu rồi bảo mọi người đi tắm rửa, mặc quần áo ca múa cho người ngoài tưởng rằng trong nhà đang làm lễ cưới và dặn ai nấy giữ kín chuyện này để khi quay về trang trại của bố tôi sẽ bàn tính sau. Tôi cũng đi tắm. Trút bỏ bộ dạng nhem nhuốc bẩn thỉu, bộ quần áo rách rưới, tôi lại trở về là Uy-lít-xơ. Tôi vẫn tin rằng, Pê-nê-lốp khi nhìn thấy bộ dạng này của tôi, nàng sẽ nhận ra tôi ngay và không ngần ngại thêm nữa mà sẽ ôm tôi, nhìn tôi bằng đôi mắt đầy âu yếm. Nhưng kìa, nàng vẫn ngồi cách tôi rất xa, vẫn giữ vẻ xa cách, thờ ơ nhìn tôi bằng đôi mắt phức tạp: lúc yêu thương, khi thì nghi ngờ, lạnh lùng. Lúc ấy, tôi đã rất giận Pê-nê-lốp. Nàng có một trái tim sao mà sắt đá hơn ai hết trong đám đàn bà yếu đuối. Tôi đã bảo với nhũ mẫu kê một cái giường để tôi ngủ một mình như bấy lâu nay tôi vẫn ngủ. Còn về nàng, tôi vẫn không hiểu sao vẫn không chịu nhận. Vẫn bằng vẻ bình tĩnh và từ tốn ấy, Pê-nê-lốp thận trọng đáp lại lời nói có vẻ giận dỗi, không bằng lòng của tôi về thái độ của nàng. Nàng dặn dò nhũ mẫu Ơ-ri-clê mang chiếc giường trong phòng của nàng, cũng là phòng của hai vợ chồng tôi trước đây, lấy da cừu, chăn và vải đẹp trải lên giường cho tôi nằm.
Tôi vô cùng ngạc nhiên, giật mình vì lời dặn của nàng với nhũ mẫu. Chiếc giường mà nàng nói, là chiếc giường tôi đã làm cho hai vợ chồng. Ai có thể xê dịch được chiếc giường kiên cố ấy nếu không phải là các vị thần linh cơ chứ? Vì một chân của chiếc giường ấy chính là thân của cây ô-liu lá dài trong sân nhà tôi. Rễ của nó bám chắc vào lòng đất, và nếu là người thường thì không thể nào có thể xê dịch được chiếc giường ấy. Tôi băn khoăn và chột dạ, tôi đã nói với nàng tất cả những điều ấy và hỏi nàng đầy lo lắng:
- Nàng ơi, tôi muốn biết cái giường ấy hiện còn ở nguyên chỗ cũ hay đã có người chặt gốc cây ô-liu mà dời nó đi nơi khác?
Pê-nê-lốp nghe những điều ấy, nàng đã chạy ngay lại, nước mắt chan hòa, ôm lấy cổ tôi, hôn lên trán tôi và nghẹn ngào nói rằng tôi không nên trách nàng vì nàng sợ có người đến đây, dùng lời đường mật đánh lừa, vì đời chẳng thiếu người xảo quyệt, chỉ làm điều tai ác. Và giờ thì nàng đã nhận ra tôi vì chỉ có tôi và nàng, cùng mới người thị tì mà cha nàng cho khi nàng về làm vợ tôi biết mà thôi. Bấy giờ tôi mới hiểu ra tấm lòng chung thủy của vợ cùng khó khăn mà nàng phải gánh vác lúc tôi không ở nhà. Tôi ôm lấy vợ, nghe vợ nói mà càng thêm muốn khóc.