I. Bài thơ
Bài 1
Đất khách mười mùa sương
về thăm quê ngoảnh lại
Ê-đô là cố hương.
Bài 2
Chim đỗ quyên hót
ở Kinh đô
mà nhớ Kinh đô.
Bài 3:
Lệ tràn nóng hổi
tan trên tay tóc mẹ
làn sương thu
Bài 4:
Tiếng vượn hú não nề
hay tiếng trẻ bị bỏ rơi than khóc?
gió mùa thu tái tê.
Bài 5
Mưa đông giăng đầy trời
chú khỉ con thầm ước
có một chiếc áo tơi.
Bài 6
Từ bốn phương trời xa
cánh hoa đào lả tả
gợn sóng hồ Bi-oa.
Bài 7
Vắng lặng u trầm
thấm sâu vào đá
tiếng ve ngâm.
Bài 8
Nằm bệnh giữa cuộc lãng du
mộng hồn còn phiêu bọt
những cánh đồng hoang vu
II. Nghĩa của bài thơ
Nội dung:
- Bài 1: là nỗi nhớ về Ê-đô (Ê-đô là Tô-ki-ô ngày nay). Đã mười mùa sương xa quên, tức là mười năm đằng đẵng nhà thơ sông ở E-đô. Có một lần trở về quê cha đất tổ ông không thể nào quên được Ê-đô. Mười mùa sương gợi lòng lạnh giá của kẻ xa quê. Vậy mà về quê lại nhó E-đô. Tình yêu quê hương đất nước đã hòa làm một.
- Bài 2: Ki-ô-tô là nơi Ba-sô sống thời trẻ (1666 - 1672). Sau đó ông chuyển đến Ê-đô. Hai mươi năm sau trở lại Ki-ô-tô nghe tiếng chim đỗ quyên hót ông đã làm bài thơ này. Bài thơ là sự hoài cảm qua tiếng chim đỗ quyên, loài chim báo mùa hè, tiếng khắc khoải gọi lại kỉ niệm một thời tuổi trẻ. Đó là tiếng lòng da diết xen lẫn buồn, vui mơ hồ về một thời xa xăm. Thơ Ba-sô đã gây ấn tượng đầy lãng mạn. Câu thơ cũng bồng bềnh trong khẳng định thầm lặng của nỗi nhớ, sự hoài cảm.
- Bài 3: Bài thơ mơ hồ, đa nghĩa, ghi dấu khoảnh khắc thiêng liêng của tình mẫu tử, nối kết giữa mất - còn, hữu hạn - vô hạn. Từng câu chữ thấm đượm xót xa tình mẫu tử, đặc biệt đó là nỗi lòng của đứa con xa xứ, đã không chăm sóc được mẹ già, lại không được nhìn thấy mẹ lần cuối. Nỗi xót xa đau đớn của nhà thơ được thể hiện ở giọt lệ nóng hổi rơi xuống bàn tay đang cầm mớ tóc của người mẹ đã khuất không khỏi khiến người đọc cảm động xót xa
- Bài 4: Bài thơ trong hoàn cảnh đặc biệt: Ba sô kể chuyện từng đi ngang qua cánh rừng ông bỗng nghe thấy tiếng vượn hú, tiếng kêu ấy gợi lên tiếng khóc của em bé bỏ rơi trong rừng. Âm thanh tiếng vượn hay Gió mùa thu cũng gợi lên nhiều nỗi đau thương, sự mơ hồ, mờ ảo của bài thơ, điều đó gợi ra sự đồng cảm của người đọc. Bài thơ gợi nhắc lại những năm tháng đau thương của nước Nhật: những năm mất mùa, đói kém, có những nhà không nuôi nổi con phải bỏ con vào rừng
- Bài 5: Bài thơ này Ba-Sô sáng tác khi đi du hành ngang qua một cánh rừng, ông thấy một chú khỉ nhỏ đang lạnh run lên trong cơn mưa mùa đông. Nhà thơ tưởng tượng thấy chú khỉ đang thầm ước có một chiếc áo tơi để che mưa, che lạnh. Hình ảnh chú khỉ đơn độc trong bài thơ gợi lên hình ảnh người nông dân Nhật Bản, gợi hình ảnh những em bé nghèo đang co ro trong cơn lạnh. Bài thơ thể hiện tình thương yêu sâu sắc của nhà thơ đối với những kiếp người nghèo khổ.
- Bài 6: Gợi nỗi buồn man mác trước sự rơi rụng của cái Đẹp trong mùa xuân. Tác giả liên tưởng cánh hoa đào phớt hồng, mỏng manh như giấy, lả tả bay, rụng xuống hồ và làm mặt nước gợn sóng. Hình ảnh đẹp đẽ chứa đựng triết lí sâu sắc : sự tương giao mọi vật trong vũ trụ, mọi vật trong thế giới tác động qua lại lẫn nhau, không thể tồn tại độc lập
- Bài 7: Bài thơ ra đời trong một lần Ba-sô leo lên núi đá để thăm chính điện chùa Riu-sa-ku-ji. Tiếng ve là thanh, đá là vật. Nhưng trong cảnh u tịch, vắng lặng của chiều tà, khi tất cả đều im ắng hết lại có thể nghe được tiếng ve rền rĩ như nhiễm vào, như thấm vào đá.
- Bài 8: Bài thơ ra đời trong những tháng ngày cuối đời của tác giả. Nằm trên giường bệnh, ông nhớ lại những tháng ngày lang thang, lãng du, phiêu bồng. Vì vậy, ngay khi sắp lìa cõi đời, ông vỗn còn lưu luyến, muốn tiếp tục cuộc viễn du bằng linh hồn của mình. Và rồi ta như thấy hồn Ba-sô lang thang trên khăp những cánh đồng hoang vu, vô tận
Ý nghĩa: