[toc:ul]
Tác giả:
Tác phẩm:
Có thể chia bài thơ thành hai phần (4 câu trên và 4 câu dưới)
Ở bốn câu thơ đầu, tầm nhìn của tác giả mở rộng, bao quát không gian từ rừng phong, vu sơn, vu giáp, lưng trời, rồi đến dòng sông, mặt đất. Từ không gian tĩnh đến không gian động miêu tả sương, núi Vu núi Kẽm hiu hắt rồi đến hình ảnh sóng vọt lên tận trời và mây sà xuống mặt đất. Bốn câu không gian tầm nhìn được thu hẹp, cảnh vật trước mặt (khóm cúc và con thuyền lẻ loi). Sự thay đổi tầm nhìn ở bài thơ thể hiện tâm trạng của tác giả, tạo nên nỗi buồn trong cảm hứng của tác giả, tác giả trở về với tầm nhìn hẹp hơn là quay về với hiện thực buồn bã, một mình cảm thấy lẻ loi.
Mối quan hệ giữa bốn câu thơ đầu với bốn câu thơ cuối là cả hai cùng tạo nên một bức tranh mùa thu hiu hắt, đìu hiu gợi nên nỗi buồn man mác. Bốn câu thơ đầu miêu tả cảnh thu trong không gian rộng lớn, bốn câu sau là miêu tả cảnh thu trong một không gian hẹp hơn, thể hiện quan hệ tuần tự từ cảnh đến tình, ẩn trong cảnh là tình, đan xen hòa quyện. Nhan đề bài thơ là Thu hứng nghĩa là cảm xúc mùa thu đã nói lên được nội dung của cả bài thông qua hình ảnh mùa thu. Đó là tâm trạng cảm nhận của thu nhân trước cảnh mùa thu là nỗi lòng u uất, là nỗi buồn man mác của nhà thơ bai trùm lên cả cảnh vật: " Người buồn cảnh có vui bao giờ"
Bản dịch nghĩa của Nguyễn Công Trứ sát nghĩa hơn tuy nhiên có nhiều chỗ chưa được sát nghĩa so với bản phiên âm. Trong câu đầu, bản dịch thơ chưa chuyển tải được ý nghĩa của từ "điêu thương" vốn là một tính từ đã được động từ hóa nghĩa là làm tiêu điều. Vì vậy ở trong bản phiên âm nó mang nghĩa rất mạnh - chỉ sự tàn phá khắc nghiệt của sương móc đối với rừng phong. Chữ "thẳm" trong câu ba (bản dịch) chưa thật sát nghĩa. Đồng thời nó còn làm cho âm hưởng thơ trầm xuống.
Câu 5 của bài thơ là chỉ nước mắt của nhà thơ vì đây là những tâm sự thầm kín của tác giả về một đất nước đang bị đô hộ.