[toc:ul]
Dàn bài
1. Mở bài:
2. Thân bài:
3. Kết bài:
Bài văn
Những người đi xa quê hương thường nhớ về hình ảnh cây đa, bến nước, sân đình ,..những hình ảnh quen thuộc của quê hương. Trong số ấy không thể thiếu lũy tre đầu làng. Đúng vậy, cây tre đã từ lâu trở thành một loài cây thân thuộc với người dân Việt Nam.
Không ai biết cây tre có từ bao giờ, chỉ biết rằng lũy tre đã đứng vững trãi như vậy từ hàng ngàn năm trước từ thuở vua Hùng dựng nước đến các cuộc khánh chiến chống xâm lăng. Tre đã cùng con người bảo vệ từng tấc đất của dân tộc. Tre vốn là loài cây thuộc họ thảo mộc, có rễ chùm, thân thẳng vững trãi. Những cây tre nhỏ thì cao khoảng từ hai đến ba mét còn những cây tre trưởng thành có thể cao hơn năm mét. Thân tre hình ống trụ dài, bên trong rỗng. Trên thân tre thường được chia thành các đốt dài bằng gang tay người trưởng thành. Ở mỗi đốt ấy đều có một mấu nối gọi là mắt tre, nơi mà các cành tre mọc ra. Cành tre nhỏ mảnh khảnh không to như càng cây bàng hay bằng lăng nhưng dại dẻo dai. Những cành cây mọc ra theo nhiều hướng khác nhau, cành này đan vào cành kia tạo thành một tấm áo giáp bảo vệ cho những búp măng nhỏ bé đang ẩn náu sâu trong lũy tre. Măng tre hình búp, khoác lên mình một màu xanh pha nâu của đất. Những lớp áo của măng tre là từng bẹ lá úp vào nhau, đợi đến khi trưởng thành thì những bẹ lá ấy cứ tách dần ra cho măng tre mạnh mẽ vươn lên như một cây giáo đâm thẳng lên bầu trời. Lá tre nhỏ, thon và dẹp thuôn nhọc vè phía đầu và sắc. Những chiếc lá mới đầu có màu xanh nhưng khi già thì nó chuyển sang màu vàng. Tre cũng là loài thực vật có hoa nhưng chỉ nở một lần vào cuối đời vào thời gian nở là từ năm mươi đến sáu mươi năm. Hoa tre có mùi hương hơi nồng và có màu vàng nhạt như màu đất. Có thể thấy, tre là loài cây dễ sống, chúng thích nghi với mọi hoàn cành mọi loại đất dù là đất bạc màu hay đất chua, vì vậy mà đi đến bất cứ nơi nào trên đất nước Việt Nam ta cũng thấy cái dáng cao cao nghiêng nghiêng của lũy tre.
Nói đến tre Việt Nam thì làm sao kể cho xiết, từ Bắc vào Nam không biết có bao nhiêu là loài tre: tre Việt bắc, trúc Lam sơn, ...Từ lâu tre đã trở thành người bạn của người nông dân đặc biệt là măng tre được coi như một món ăn đặc sản của người nông dân. Dưới bàn tay khéo léo của người phụ nữ, măng tre được chế biến thành nhiều món ăn như tre luộc, măng khô nấu canh, măng tươi...Lá tre khô còn là một vật liệu đốt dễ kiếm cho các bà các mẹ. Cành tre có gai nhọn thường được người nông dân xưa làm hàng rào quanh nhà. Đặc biệt nhất là thân tre, chúng trở thành những đòn gánh theo bước chân người nông dân ra đồng, thành cối xay giúp người nông dân xay lúa. Thân tre còn được vót mỏng thành những lạt mỏng dùng để gói bánh hay buộc mái nhà của người dân xưa hay được đôi bàn tay tài hoa của người nghệ nhân biến hóa thành những chiếc rổ giá hay hình thù con cò, con vạc ...những món đồ lưu niệm cho khách du lịch. Trong những ngày lễ Cổ truyền, thân tre còn được dùng làm cây nêu cầu may trong nhà. Những lũy tre còn đi sâu vào tâm trí của những đứa trẻ em vùng quê khi vào những buổi trưa hè nóng bức mà được ngồi dưới gốc tre mà hát những bài ca đồng quê, thả những con thuyền tre. Chính những kí ước đó là hành trang cho bất cứ người con xa quê sau này đều nhớ về quê hương. Không những vậy, hình ảnh dáng tre vững trãi đã đi vào những cuộc kháng chiến từ thời vua Hùng, Thánh Gióng lấy lũy tre làm vũ khí đánh tan quân thù, đến hai cuộc kháng chiến chống pháp và mĩ những dụng cụ làm từ tre: cày, cuốc... cũng được Bác nhắc đến trong bài kêu gọi toàn dân kháng chiến...Chính vì những điều đó mà cây tre từ lúc nào đã trở thành biểu tượng cho làng quê Việt Nam.
Dàn bài
1. Mở bài:
2. Thân bài:
3. Kết bài:
Bài văn
Trên khắp mọi miền của Tổ quốc thân yêu, nơi đâu cũng có những loài cây đặc trưng cho xứ sở của mình. Hà Nội thoang thoảng hương hoa sữa, miền Tây nức tiếng cây trái miệt vườn. Nông thôn bình dị quê tôi lại không thể vắng bóng hình ảnh cây chuối.
Nhắc đến nông thôn Việt Nam không thể không nhắc đến cây chuối. Trên khắp mọi miền quê, nơi đâu ta cũng thấy màu xanh những tàu lá chuối mong manh nhưng căng tràn sức sống. Cây chuối là một loại cây ăn trái đã được thuần hóa từ bao đời nay, nó có nguồn gốc ở vùng Đông Nam Á, phổ biến ở các khu rừng nhiệt đới. Cho đến nay đã có khoảng 300 giống chuối được trồng và sử dụng trên khắp thế giới được trồng ít nhất trên 107 quốc gia. Chuối ở Việt Nam lại có nguồn gốc từ các giống chuối dại và có số lượng lớn. Nổi tiếng là chuối tiêu, chuối ngự... Sau đó, người Pháp mang vào nước ta vài giống chuối mới, quả to và năng suất cao hơn.
Họ hàng nhà chuối rất đông đúc, phong phú bao gồm chuối lấy quả, chuối chỉ để lấy lá. Ở nước ta các loại chuối phổ biến là chuối tiêu, chuối sứ, chuối tây, chuối bom...và một số giống nhập ngoại khác. Mỗi giống lại có đặc điểm hình dáng, hương vị khác nhau.
Về cơ bản, đặc điểm sinh thái của chuối giống nhau. Chuối là loại cây thân ngầm có sinh trưởng tốt ở môi trường ẩm ướt. Chúng có chiều cao trung bình khoảng 3 – 5 m. Tuy nhiên lại có giống chuối sáp cao tới 10 m. Phần thân chính ẩn mình dưới mặt đất gọi là củ chuối, phần thân trên là thân giả do các bẹ chuối ghép lại. Thân chuối hình tròn thẳng đứng và nhẵn thín như những chiếc cột nhà bóng loáng. Lá khi mới mọc ra cuộn tròn như chiếc hoa loa kèn xanh non, khi lớn lên thì xanh mướt và rộng như một tấm phản. Mặt trên của lá màu xanh thẫm, mặt dưới màu xanh nhạt và có phấn trắng. Mỗi chiếc là chuối có 1 đường gân lá nằm ở giữa, 2 bên có hai dải mềm mại rủ xuống. Khi già lá rũ xuống bám chặt lấy thân. Ban đầu vàng tươi rồi khô dần dần thành màu nâu nhạt, chúng nhường chỗ cho những lá non đang chuẩn bị chồi ra ngoài.
Nõn chuối giống như một bức thư thuở xưa được phong còn kín. Bắp chuối hay còn gọi hoa chuối màu đỏ tươi, trông như một búp sen khổng lồ treo. Chuối trưởng thành sẽ ra hoa, trổ buồng. Buồng chuối được bung ra từ hoa, lớn dần thành những nải chuối to xếp lại, quây quần bên nhau. Quả chuối ra thành nải treo thành từng tầng. Mỗi tầng (gọi là nải) khoảng hai mươi quả. Các nải kết dính quanh một trục gọi là một buồng. Quả chuối lớn rất nhanh, càng lớn chúng càng cong hình lưỡi liềm, khi xanh có có màu xanh, khi chín có màu vàng bắt mắt.
Chuối rất dễ sống và nhanh lớn, nhưng vòng đời lại rất ngắn. Nên trồng chuối ở những nơi có nhiều ánh sáng để chúng phát triển. Vào mùa gió bão, nếu chuối có buồng cần phải chống để cây khỏi đổ. Khi thu hoạch thì phải nhẹ nhàng tránh rơi gẫy quả.
Cây chuối gắn bó thân thiết với cuộc sống người dân quê tôi và người dân Việt Nam. vốn gần gũi trong đời sống của người nông dân Việt Nam. Chỉ một loài cây bình dị nhưng ẩn chứa rất nhiều công dụng. Cùng với các loại hoa quả, lương thực, chuối cũng là loại quả được xuất nhập khẩu nhiều ở các quốc gia. Quả chuối có giá trị dinh dưỡng cao. Chuối chín có rất nhiều vitamin tốt cho sức khỏe, người giả và người trẻ đều yêu thích. Xưa kia chuối là loại quả quí để tiến vua, ngày nay chuối được coi là món ăn dân giã, quen thuộc. Người ta còn làm thành mứt chuối, chuối sấy rất ngon. Chuối xanh là một món ăn kèm không thể thiếu trong ẩm thực với thịt dê, gỏi, cá kho hay nấu ốc, nấu ếch. Thân chuối còn dùng làm thức ăn chăn nuôi. Lá chuối dùng gói xôi, gói bánh, gói giò tạo mùi thơm dịu nhẹ. Lá chuối khô để đốt. Người ta dùng cả dây chuối khô từ cuống lá chuối để buộc, rất dai và bền. Củ chuối thái nhỏ làm nộm, nấu lươn rất ngon. Chuối còn được dùng trong Đông y chữa bệnh.
Trong đời sống tinh thần dân tộc, cây chuối đi vào thơ ca, hội họa tạo nên nét đẹp dịu dàng, bình dị vùng quê Việt Nam mộc mạc, thanh bình từ bao đời nay. Hình ảnh buồng chuối trĩu nặng giống như biểu tượng của người mẹ thiên nhiên bao dung, cần mẫn và yêu thương đàn con. Những ngày rằm, ngày lễ trên mâm bàn thờ tổ tiên luôn có những quả chuối thơm ngon nhằm cầu mong phúc lành, sự sum vầy, trù phú và thịnh vượng trong cuộc sống.
Từ bao đời nay, chuối đã gắn bó và dâng hiến cho cuộc sống con người Việt Nam, cả về vật chất và tinh thần. Cây chuối cũng chính là loài cây biểu tượng cho quê hương thân yêu mà mỗi lần đi xa tôi luôn ghi nhớ.
Dàn bài
1. Mở bài: Dẫn dắt để giới thiệu cây xoài ở quê hương em
2. Thân bài: Thuyết minh cây xoài
3. Kết bài:
Bài văn
Đất nước Việt Nam với khí hậu nóng ẩm là nơi thích hợp cho nhiều loài cây sinh sống, mỗi mùa lại cho ta những thức quả khác nhau. Nếu xuân là hồng xiêm thơm nức, thu là quả ổi dân dã, đông là lê thanh mát thì hạ là những trái xoài lúc lắc trên cây. Xoài vừa là loại trái cây quen thuộc, vừa là hình ảnh gắn liền với tuổi thơ của những đứa trẻ thôn quê.
Người ta không biết xoài có nguồn gốc từ đâu, nhưng nhiều phát hiện chỉ ra xoài có nguồn gốc ở Nam Á và Đông Nam Á, từ đó nó đã được phân bố trên rộng khắp thế giới và trở thành loài cây quen thuộc tại các vùng đất nhiệt đới.
Xoài là cây thân gỗ lớn, khỏe và chắc, một cây trưởng thành có thể cao từ mười đến hai mươi mét. Để có thể giúp cây cao lớn và vững chắc như vậy không thể không kể đến bộ rễ của cây. Rễ cây xoài là rễ cọc có thể dễ dàng ăn sâu xuống dưới đất, hút nước và các chất khoáng để nuôi dưỡng sự sống cho cây. Không chỉ là một loài cây cho trái, xoài, cũng như bàng, phượng hay bằng lăng, được trồng để lấy bóng mát. Tán của xoài rất rộng bởi cành lá xum xuê, nhìn từ xa trông như chiếc dù xanh mát rộng lớn rợp bóng râm cả một khoảng sân, che mát trong những ngày hè nóng nực. Khác với phượng, xoài là cây lá đơn với những phiến lá thuôn dài, bề mặt nhẵn và có mùi thơm riêng biệt độc đáo. Khi còn non, lá xoài có màu tím pha đỏ; khi lá đã trưởng thành thì có màu xanh nhạt; còn lúc đã về ”xế chiều” thì lá lại mang sắc xanh đậm đà.
Xoài cho bóng mát, cho lá, cho cành còn cho cả hoa. Hoa xoài nhỏ xíu như ngôi sao trên bầu trời rộng lớn nhưng không đứng riêng lẻ mà mọc thành chùm ở ngọn cành, mỗi chùm hoa dài tầm ba mươi centimet, cứ mỗi chùm như thế là xoài đơm nở cho ta hai trăm đến bốn trăm bông hoa. Cũng như nhiều loài cây cho trái khác, có hoa xoài rồi mới có quả. Khi hoa già, rụng xuống đất cũng là lúc xoài kết trái. Trái xoài thon ở hai đầu và phình to hơn ở giữa. Khi mới còn là trái non thì xoài có màu xanh đậm, nhưng khi đã chín và có thể thu hoạch thì thường mang sắc vàng hoặc xanh pha vàng. Chính màu vàng ươm như màu nắng hạ này khiến cho trái xoài trở thành loại hoa quả được ưa chuộng mỗi khi hè về, với vị chua và ngọt rất hài hòa, không ngọt sắc như mía hay chua gắt như quất, như chanh. Vẻ ngoài đẹp mắt cùng vị thơm ngon hài hòa, kết hợp với mùi hương dịu nhẹ nhưng đầy hấp dẫn, đã khiến cho loại trái cây này như một đặc sản không thể thiếu mỗi khi hè về.
Xoài có thể được chia ra thành nhiều loại như xoài Cát, xoài Tượng, xoài Thái,… với nhiều hương vị khác nhau phù hợp với sở thích và gu ăn uống của từng người.
Được trồng phổ biến không chỉ ở Việt Nam mà còn ở nhiều quốc gia khác, xoài là một loài cây có nhiều giá trị sử dụng. Tán rộng nên được trồng để lấy bóng mát. Nhưng chiều hè nắng chói, được ngồi dưới gốc xoài, nhìn nhưng quả xoài mới nảy lúc lắc trên cây khi gió thổi qua cũng là thú vui của nhiều người muốn yên tĩnh sau những giờ làm việc căng thẳng. Những ai đã đi qua thời học sinh la cà quán ăn vặt cổng trường hẳn cũng không thể nào quên hương vị của những túi xoài muối ớt, ăn vừa cay vừa chua mà vẫn rất nghiền. Xoài cũng được trồng như một loại cây xanh đô thị bởi không cần phải quan tâm nhiều đến việc chăm bón. Nhưng giá trị nhất ở xoài là lấy trái, ăn rất ngọn và bổ. Bởi vậy mà không chỉ được yêu thích trong nước mà xoài còn là loại trái cây được xuất khẩu, đóng góp một phần không nhỏ cho nguồn thu ngoại tệ của đất nước. Người dân không chỉ ăn xoài khi đã chín mà còn lấy xoài xanh để ăn sống, nhai rồn rột và có vị chua không quá gắt, chấm với mắm đường ăn rất ngon và có hương vị độc đáo. Chưa có loại quả nào được ăn với loại nước chấm như vậy cả. Bên cạnh đó, với thân to và chắc, gỗ xoài cũng được dùng làm bàn ghế, tủ giường,…
"Một vườn xoài rung rinh lá sáng
Một vườn xoài chạy dài thăm thẳm
Một vườn xoài rợp mát tuổi thơ ngây
Một vườn xoài xanh biếc dưới mây bay"
Đó là những câu thơ Lưu Quang Vũ viết trong “Mùa xoài chín”. Xoài từ lâu đã trở thành loài cây quen thuộc với người dân Việt Nam, là dấu hiệu mỗi khi hè về và cành lá rung rinh trong gió cũng gọi về cả một miền kí ức tuổi thơ tươi đẹp