[toc:ul]
1. CÂU HỎI TRƯỚC KHI ĐỌC
Câu 1: Bạn đã biết gì về Huế? Hãy chia sẻ với các bạn về điều đó.
Câu 2: Dựa vào nhan đề và hình ảnh minh họa, bạn dự đoán gì về nội dung của văn bản?
2. CÂU HỎI ĐỌC VĂN BẢNCâu 1: Đoạn văn này miêu tả khúc sông nào của dòng sông Hương? Nét đẹp riêng của khúc sông này là gì?
Câu 2: Bạn hình dung như thế nào về hình ảnh sông Hương qua đoạn văn này?
Câu 3: Nêu tình cảm, cảm xúc của tác giả thể hiện qua đoạn văn này.
Câu 4: Bạn hiểu gì về mối quan hệ giữa sông Hương với Huế qua câu văn : " Quả đúng như vậy .... của những mái chèo khuya"?
Câu 5: Bạn hiểu như thế nào về hình ảnh" Sử thi viết giữa màu cỏ lá xanh biếc" trong đoạn này?
3. CÂU HỎI SAU KHI ĐỌCCâu 1: Thực hiện các yêu cầu dưới đây:
a, Nêu một số chi tiết cho thấy hình tượng sông Hương trong văn bản được miêu tả từ nhiều góc nhìn khác nhau ( thiên nhiên, lịch sử, văn hóa, ...)
b, Liệt kê một số từ ngữ, câu văn cho thấy sự hiện diện của cái " tôi" của tác giả trong văn bản.
c, Phân tích vẻ đẹp của sông Hương được miêu tả của một đoạn văn trong văn bản.
Câu 2: Chỉ ra yếu tố tự sự, yếu tố trữ tình và tác dụng của việc kết hợp hai yếu tố đó trong đoạn văn: " Từ đây, như đã tìm được đúng đường về, sông Hương vui tươi hẳn lên .... chao nhẹ trên mặt nước như những vấn vương của một nỗi lòng". Tìm và phân tích một vài đoạn khác trong văn bản có đặc điểm tương tự.
Câu 3: Phân tích tác dụng của một số biện pháp tu từ được sử dụng trong văn bản.
Câu 4: Nhận xét về cách thể hiện cảm hứng chủ đạo trong tác phẩm.
Câu 5: Theo bạn, vai trò của sông Hương trong tư cách " người mẹ phù xa của một vùng văn hóa xử sở" được nói đến trong đoạn đầu có được thể hiện trong phần còn lại của văn bản hay không? Dựa vào đâu để khẳng định như vậy?
Câu 6: Việc tác giả có những phát hiện đặc biệt về sông Hương đã đem đến cho bạn bài học gì về cách quan sát, cảm nhận cuộc sống xung quanh.
Bài tập sáng tạo: Sáng tác một bài thơ, vẽ một bức tranh, ... về hình tượng sông Hương ( hoặc về sông núi quê hương của bạn)
1. CÂU HỎI TRƯỚC KHI ĐỌC
Câu 1: Một số thông tin về Huế mà em biết:
Câu 2: Dựa vào nhan đề và hình ảnh minh họa, em dự đoán: Văn bản sẽ viết về dòng sông Hương và cảnh vật trong bức tranh.
2. CÂU HỎI ĐỌC VĂN BẢN
Câu 1: Đoạn văn này miêu tả khúc sông thượng nguồn của dòng sông Hương.
Nét đẹp riêng của khúc sông này là:
- Vẻ hùng vĩ với hình ảnh những đoạn sông “rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn, mãnh liệt qua những ghềnh thác, cuộn xoáy như cơn lốc…”.
- Vẻ đẹp rất thơ mộng và trữ tình khiến người ta không khỏi say mê, cảm thán bằng “vẻ dịu dàng, say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng”.
=> Tính chí dương hùng tráng và nét dịu dàng, đắm say, trữ tình chí âm của dòng sông đã dung hợp, bổ khuyết cho nhau để tạo nên một Hương giang kỳ vĩ, cá tính và gây ấn tượng mạnh mẽ với người đọc.
- “phóng khoáng và hoang dại” thật quyến rũ, bí ẩn, cùng với “bản lĩnh gan dạ tâm hồn tự do và trong sáng”.
- Làm nổi bật lên cái vẻ sôi nổi tràn đầy sức sống của dòng sông, mang đến cả những hình dung về một dòng chảy lắt léo, ưa khám phá, ưa tự do được rừng già Trường Sơn hun đúc.
- Rũ bỏ cái cá tính mạnh mẽ, hoang dại để trở mình biến thành một người phụ nữ dịu dàng, một người mẹ bao dung, ngàn đời nuôi dưỡng những đứa con trong Huế bằng dòng sữa phù sa ngọt ngào, bằng hương thơm thân thuộc, bằng vẻ đẹp “dịu dàng và trí tuệ”.
- Nhắc nhở con người nhớ lại sự hy sinh to lớn của bà mẹ Hương giang ngàn đời.
=> Mối quan hệ diệu kỳ, gắn bó sâu sắc của dòng sông với mảnh đất cố đô bao đời nay.
Câu 2: Hình ảnh sông Hương qua đoạn văn này: Sông Hương như người con gái lần đầu đến với tình yêu vừa e lệ ngại ngùng, vừa táo bạo chủ động. Sông Hương như một người cô gái trẻ đầy sức sống, nàng đang cố gắng vươn mình, thay đổi diện mạo mới để chạy thật nhanh để tìm đến với người tình "thành phố tương lai" của mình "như một cuộc tìm kiếm có ý thức".
Câu 3: Tình cảm, cảm xúc của tác giả thể hiện qua đoạn văn này:
Cuối cùng sông Hương đã đến được với thành phố của mình, con sông mang một vẻ đẹp độc. Sông Hương như một điệu slow tình cảm của Huế. Lưu tốc của con sông khác hẳn với dòng sông khác. Phải chăng vì quá yêu thành phố của mình, con sông Hương muốn nhìn ngắm thành phố của mình lâu hơn trước khi rời xa nó. Đó là tình cảm của dòng sông hương với Huế hay chính là tình cảm đặc biệt mà Hoàng Phủ Ngọc Tường dành cho sông Hương và xứ Huế. Sông Hương như người tài nữ đánh đàn trong đêm khuya.
Viết về sông Hương giữa lòng thành phố Huế tác giả không quên những nét đẹp văn hóa gắn liền với dòng sông thơ mộng. Ở góc độ âm nhạc tác giả gọi sông Hương là người tài nữ đánh đàn. Sông Hương được ví như người tình dịu dàng và thủy chung. Ngòi bút của tác giả đã thực sự thăng hoa khi vẽ nên những hình ảnh đầy ấn tượng, những cảm nhận tinh tế, những liên tưởng, so sánh đẹp đến bất ngờ, lí thú, thể hiện tình yêu say đắm với con sông.
Câu 4: Mối quan hệ giữa sông Hương với Huế qua câu văn : " Quả đúng như vậy .... của những mái chèo khuya"?: Sông Hương trong mối quan hệ với thành phố Huế khăng khít với Huế như một người tình. Nhà văn đã đưa ra một minh chứng rằng: “Toàn bộ nền âm nhạc cổ điển Huế được sinh thành trên mặt nước của dòng sông này trong một khoang thuyền nào đó giữa tiếng nước rơi bán âm của những mái chèo khuya”. • Nền âm nhạc cổ điển Huế: “được sinh thành trên mặt nước của dòng sông này”. Sông Hương gắn với lịch sử âm nhạc lâu đồi của Huế, là cái nôi hình thành nền âm nhạc truyền thống. gợi nhắc đến sông Nile, sông Hắng, sông Hoàng Hà - cũng là những cái nôi hình thành những nền văn hóa lớn trên thế giới ->nhà văn cảm nhận dòng sông ở góc độ văn hóa.
Câu 5: Sông Hương đâu chỉ có vẻ đẹp mềm mại đầy nữ tính, mà còn tiềm tàng, trong chiểu sâu lịch sử của nó, một sức mạnh quật cường của dân tộc từ những ngày khai sơn, phá thạch, mở nước, dựng thành Hoá Châu hàng nghìn năm về trước. Sau này nó sẽ tiếp tục soi bóng kinh thành Phú Xuân của người anh hùng Nguyễn Huệ, chứng kiến Cách mạng tháng Tám, chiến dịch Mậu Thân, và cuộc Tổng tiến công hoàn toàn giải phóng dân tộc mùa xuân 1975. Nhưng nó xứng dáng được gọi là một thiên sử thi, trước hết vì đã từng kiên cường chận đứng những đội quân xâm lược đến từ phía nam, oai hùng không kém gì Bạch Đằng, Như Nguyệt sau này từng tiêu diệt hàng vạn quân thù đến từ phía bắc.
Tác giả gọi sông Hương là thiên "sử thi viết giữa màu cỏ lá xanh biếc". Ông muốn nói, cùng với người dân đất Hoá Châu, nó sẵn sàng hiến mình để làm nên những chiến công hiển hách, nhưng sau đó lại muốn trở về với sinh hoạt đời thường, làm người con gái dịu dàng của Huế. Nghĩa là sử thi mà vần rất đỗi trữ tình.
3. CÂU HỎI SAU KHI ĐỌC
Câu 1: a, Trên phương diện cảnh sắc thiên nhiên, sông Hương cho thấy vẻ đẹp phong phú, đa dạng của nó: Sông Hương khi hùng vĩ ở thượng nguồn, khi lại êm đềm, mơ mộng ở kinh thành Huế. Sông Hương ở thượng nguồn vô cùng dữ dội, mãnh liệt, được tác giả ví như một cô gái Di gan, man dại và phóng khoáng. Khi về đến kinh thành Huế, sông Hương lại mang một khuôn mặt khác hẳn, nếu như thượng nguồn cuộn xoáy, mãnh liệt thì tới đây lại dịu dàng, tha thướt, đầy chất mộng mơ đặc trưng của xứ Huế. Dòng sông Hương, mềm hẳn đi khi bước chân vào kinh thành, những khúc uốn mình, những đường tròn của sông Hương bao quanh Huế đã khiến lòng sông thực sự mềm mại như một tấm lụa để ôm ấp lấy thành phố thân yêu của mình. Màu sắc của sông Hương thay đổi theo từng địa hình mà nó chảy qua: khi chảy qua lòng vực dưới chân núi Ngọc Tản, nước sông trở nên xanh thẳm, còn nhìn phản quang những màu sắc của ngọn đồi phía Tây Nam thành phố thì: sớm xanh, trưa vàng, chiều tím. Sự biến đổi đó cho thấy sông Hương như một tấm gương, đồng thời cũng cho thấy vẻ đẹp biến ảo của dòng sông. Không chỉ dừng lại ở vẻ đẹp hình dạng, màu sắc, vẻ đẹp của sông Hương còn thể hiện qua sắc thái, với hai sắc thái chính là hung bạo và trữ tình. Khi sông Hương sôi nổi, trẻ trung, chủ động, lúc lại trầm mặc, cổ kính như triết lí, như cổ thi. Vẻ đẹp của sông Hương hiện lên muôn hình muôn vẻ, đa dạng màu sắc. Trên phương diện cảnh sắc thiên nhiên dù ở thượng nguồn hay khi chảy trong lòng thành phố Huế, sông Hương đều chứng tỏ nó là sự sáng tạo hoàn mĩ của tạo hóa, một món quà vô giá mà thiên nhiên đã ban tặng riêng cho đất Huế.
- Vẻ đẹp trong chiều sâu văn hóa: Trước hết sông Hương mang đặc điểm tâm hồn của con người xứ Huế. Bằng quá trình nghiên cứu, tìm hiểu vô cùng nghiêm túc tác giả đã nhận thấy một điều rất đặc biệt: “có một cái gì rất lạ với tự nhiên và giống với con người nơi đây”. Sông Hương không đơn thuần chỉ là vẻ đẹp tự nhiên mà nó còn là kết đọng rõ nét và đầy đủ của tất cả vẻ đẹp con người xứ Huế. Dòng chảy cuộn chảy cũng như con người khỏe khoắn của xứ Huế, còn dòng chảy dịu êm lại là vẻ đẹp đằm thắm, dịu dàng của con người nơi đây. Chỉ với con sông này nhưng ta thấy đầy đủ tính cách, tâm hồn Huế, vừa mạnh mẽ táo bạo, vừa dịu dàng, sôi nổi, trẻ trung.
- Sau vẻ đẹp cốt cách, tâm hồn con người đất Huế, tác giả tiếp tục chứng minh chiều sâu văn hóa trên phương diện âm nhạc và thi ca. Dòng sông Hương trong lòng thành phố với tốc độ chậm rãi, khoan thai như một điệu slow tình cảm, chính nhịp điệu này đã nói lên cái thần, cái hồn rất riêng của nhã nhạc cung đình Huế, đó là sự khoan thai, dìu dặt, trang trọng. Không chỉ dừng lại ở đó, tác giả còn khai thác dòng sông Hương ở phương diện thi ca. Bằng vốn hiểu biết phong phú, sâu rộng, tác giả đã chứng minh vô cùng thuyết phục, sông Hương đã tạo nên dòng thi ca riêng cho văn học. Từ dòng sông lung linh biến ảo màu sắc tác giả đưa người đọc đến dòng sông sức mạnh khí thế trong thơ Cao Bá Quát. Từ không khí bảng lảng trong thơ Bà Huyện Thanh Quan tác giả lại đưa người đọc đến với dòng sông ân tình, thắm thiết trong thơ Tố Hữu. Bằng những dẫn chứng thuyết phục, đa dạng tác giả đã cho thấy vẻ đẹp đa chiều của sông Hương.
Sông Hương ở bề dày lịch sử: Sông Hương ghi tên mình từ thuở sơ khai, từ thời đại các vua Hùng nó được coi là dòng biên thùy xa xôi của đất nước. Trong thời kì trung đại, sông Hương mang tên Linh Giang, có nhiệm vụ bảo vệ biên giới tổ quốc. Trong cuộc cách mạng tháng Tám, Huế là một trong ba nơi giành thắng lợi vẻ vang nhất, cách mạng tháng Tám đã phủ lên sông Hương một lớp hào quang chói lọi với chiến công lật đổ thành trì chế độ phong kiến và sự đô hộ của Pháp... Điểm nhanh các mốc lịch sử theo chiều thời gian đã cho thấy bề dày lịch sử của dòng sông song hành với vận mệnh phát triển của đất nước. Nhìn vào những mốc son cũng như những đau thương mất mát của dòng sông này ta thấy lịch sử Huế và con người Huế: đau thương nhưng quật khởi, bi tráng nhưng cũng vô cùng hào hùng, hiển hách.
b, Một số từ ngữ, câu văn cho thấy sự hiện diện của cái " tôi" của tác giả trong văn bản: "Tôi thích nhất một huyền thoại kể rằng vì yêu quý con sông xinh đẹp của quê hương, con người ở hai bờ đã nấu nước của trăm loại hoa đổ xuống dòng sông để làn nước thơm tho mãi mãi".
c, Trong đoạn 1: Con sông Hương ở thượng nguồn được Hoàng Phủ Ngọc Tường khắc họa với hai nét đẹp: mãnh liệt hoang dại nhưng cũng đầy dịu dàng và say đắm. Hành trình của Hương giang cũng giống như mọi con sông khác - bắt đầu từ thượng nguồn - nơi mà trong cảm nhận của nhà văn, giống như “bản trường ca của rừng già”. Quả là như vậy, con sông ở đây đã gắn liền với dãy núi Trường Sơn hùng vĩ. Nó mang trong mình vẻ đẹp mạnh mẽ với sức mạnh nguyên sơ bản năng: “rầm rộ giữa những bóng cây đại ngàn, mãnh liệt qua những ghềnh thác, cuộn xoáy như những cơn lốc vào những đáy vực bí ẩn”. Phép tu từ so sánh kết hợp với động từ mạnh và lối điệp cấu trúc đã khiến con sông hiện lên giống như một bản nhạc giàu cung bậc của thiên nhiên. Nhưng bản trường ca ấy không chỉ hào hùng, mà vẫn mang nét trữ tình sâu lắng. Sau những “rầm rộ”, “cuộn xoáy”, con sống đã dần trở nên “dịu dàng” hơn, đằm thắm hơn để rồi có thể làm “say đắm” bất cứ chàng trai nào khi chiêm ngưỡng vẻ đẹp của nó “giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng”. Đặc sắc nhất đó là vẻ đẹp nguyên sơ, hoang dã của rừng già đã đem đến cho nó một vẻ đẹp mà trong suy cảm của nhà văn giống như một “cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại”. Chúng ta đã biết đến những cô gái Di-gan là những người thích sống lang thang, tự do và yêu ca hát. Họ là những người thiếu nữ có vẻ đẹp man dại đầy quyến rũ. Khi so sánh con sông với những cô gái Di-gan, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã khắc vào tâm trí người đọc một ấn tượng mạnh về vẻ đẹp hoang dại nhưng cũng rất thiếu nữ, rất tình tứ của con sông. Một vẻ đẹp tự do, phóng khoáng và đầy hấp dẫn.
Câu 2: Yếu tố tự sự: Khi giáp mặt với thành Huế liền uốn một cánh cung rất nhẹ sang đến Cồn Hến, đường cong ấy làm cho dòng sông mềm hẳn đi, như một tiếng “vâng” không nói ra của tình yêu;
Yếu tố trữ tình: Tặng cho Huế điệu chảy lặng lờ, điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế; dòng chảy ngập ngừng như muốn đi muốn ở…vấn vương của một nỗi lòng; Khi ra khỏi kinh thành còn quyến luyến quay trở lại gặp thành phố một lần nữa ở thị trấn Bao Vinh.
-> Tác dụng của việc kết hợp hai biện pháp đó: Góp phần khắc họa vẻ đẹp của sông Hương một cách chân thực, sinh động nhất. Cách miêu tả sông Hương khi vào đến thành phố Huế cho thấy sự gắn bó, am hiểu và tình yêu mãnh liệt, bền chặt mà tác giả dành cho Huế, cho dòng sông.
Trong đoạn 1:
- Yếu tố tự sự: Sông Hương vùng thượng lưu được đặt trong mối quan hệ mật thiết với dãy Trường Sơn hùng vĩ. Ở đây, sông Hương có một thủy trình gian truân nhưng từ đó nó bộc lộ vẻ đẹp phóng khoáng, man dại, tràn đầy sức sống: "là một bản trường ca của rừng già, rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn, mãnh liệt qua những ghềnh thác, cuộn xoáy như cơn lốc vào những đáy vực bí ẩn"
Yếu tố trữ tình: "như một cô gái Di gan phóng khoáng và man dại", "bản lĩnh gan dạ, một tâm hồn tự do và trong sáng"
-> Đặc sắc trong lối viết ký của tác giả khi viết về sông Hương ở thượng lưu: hình ảnh hùng vĩ tuyệt đẹp, liên tưởng độc đáo, lối so sánh ví von độc đáo, sáng tạo và bất ngờ.
Câu 3:
- Các biện pháp tu từ trong văn bản là: đối lập (tương phản), so sánh, nhân hóa.
- Tác dụng của những biện pháp nghệ thuật ấy là:
+ Nghệ thuật đối lập (tương phản) nhằm làm nổi bật vẻ độc đáo của dòng sông.
+ Nghệ thuật so sánh, nhân hóa khiến sông Hương trở nên sinh động, có hồn, dòng sông gần với tâm hồn của con người xứ Huế.
Câu 4: Sự kết hợp hài hòa giữa tình yêu quê hương đất nước và tâm hồn phóng khoáng, tài hoa của người nghệ sĩ khiến con sông Hương hiện lên qua giọng điệu mềm mại, ngọt ngào, đậm chất Huế.
Sự liên tưởng đa dạng, phong phú với vốn kiến thức được tổng hợp trên nhiều lĩnh vực khiến sông Hương như một sinh thể trữ tình với tâm hồn nhạy cảm, với hành trình từ thượng nguồn trở về với Huế mà mỗi bước đi là một bước trưởng thành để từ một cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại đã trở thành một người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở.
Ngôn ngữ rất tinh tế, tài hoa với những hình ảnh được chọn lọc, giàu sức gợi hình, gợi cảm, giàu sức liên tưởng làm ngợi ca vẻ đẹp hùng vĩ, thơ mộng của con sông Hương từ khi ở thượng nguồn đến khi về với thành phố Huế - con sông của lịch sử, văn hóa, thi ca của mảnh đất cố đô
Câu 5: Theo em, vai trò của sông Hương trong tư cách " người mẹ phù xa của một vùng văn hóa xử sở" được nói đến trong đoạn đầu có được thể hiện trong phần còn lại của văn bản. Dựa vào việc nhà văn đã nhắc lại vai trò của sông Hương, điều đó thể hiện qua hai đoạn văn sau: “Hình như trong khoảnh khắc trùng lại của sông nước…tứ đại cảnh” và “Có một dòng thi ca…tác giả “Từ ấy”
- Hình ảnh sông Hương là “người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở” được thể hiện ở việc sông Hương là dòng sông gắn liền với những nét văn hóa Huế ta có thể cảm nhận được trong hai đoạn trích: “Hình như trong khoảnh khắc trùng lại của sông nước…tứ đại cảnh” và “Có một dòng thi ca…tác giả “Từ ấy””. Trước hết, dòng sông Hương hiền hòa, nên thơ gắn liền với nền âm nhạc cổ điển của miền Huế thơ.
- Qua đoạn trích, ta cảm nhận được với Hoàng Phủ Ngọc Tường, không gian sông nước êm đềm, thơ mộng ấy cơ hồ chính là nguồn cảm hứng bất tận để “toàn bộ nền âm nhạc cổ điển Huế được sinh thành trên mặt nước của dòng sông này”. Sinh thành và đắp bồi, nuôi dưỡng văn hóa nghệ thuật, mà ở đây là âm nhạc Huế, đó phải chăng chính là vai trò của “người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở” theo cách nghĩ, cách cảm và cách nói của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Cùng với sự so sánh mang nặng nỗi lòng, tâm tư ấy, Hoàng Phủ Ngọc Tường đưa người đọc đến với không gian màn đêm trên sông nước xứ Huế mà “trong một khoang thuyền nào đó, giữa tiếng nước rơi bán âm của một mái chèo khuya”. Nhà văn dẫn đưa tâm hồn người đọc đến với “tiếng nước rơi bán âm”, một âm thanh trong trẻo gợi về một đêm khuya tĩnh mịch, thanh vắng trên dòng sông Hương. “Người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở” ấy đã đắp bồi nên một nền âm nhạc cổ điển đáng trân quý giữa cái không gian trầm mặc của kinh thành lăng tẩm.
- Đâu chỉ với âm nhạc, dáng hình “người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở” còn được nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường thể hiện ở chỗ dòng sông đã khơi nguồn cảm hứng thi ca nghệ thuật ở biết bao tâm hồn nghệ sĩ. Liên tưởng đến “Nguyễn Du đã bao năm lênh đênh trên quãng sông này, với một phiến trăng sầu”, nhà văn nhắc đến “những bản đàn đã đi suốt đời Kiều”. Trong đoạn trích viết về những hình ảnh này, nhà văn còn nhắc đến một nghệ nhân già sau nửa thế kỷ chơi đàn đã chợt nhận ra khúc nhạc Huế trong những trang Kiều của cụ Nguyễn Du: “Trong như tiếng hạc bay qua/ Đục như tiếng suối mới sa nửa vời”. Những âm thanh, nhạc điệu đong đầy xúc cảm ấy lại tiếp tục gợi nhắc về “Tứ đại cảnh” – bản nhạc cổ Huế, theo tương truyền là do vua Tự Đức sáng tác.
Câu 6: Nếu đôi mắt là cửa sổ tâm hồn, thì quan sát là chìa khóa mở cánh cửa tâm hồn ấy từ bên trong để nhìn ra ngoài một cách trọn vẹn. Sáng mai thức dậy, hãy thôi nhìn mà thay vào đó là quan sát. Quan sát để lắng nghe, quan sát để cảm nhận, quan sát để thưởng thức những hương vị mà bạn đã lãng quên bấy lâu nay. Quan sát bằng cả tấm lòng, bằng tình yêu thương đối với cảnh vật, con người xung quanh.
Bài tập sáng tạo: Sáng tác thơ về sông núi quê em.
Quê hương em có con sông xanh biếc
Có núi non với một bầu trời xanh.
Lũy tre làng cùng đàn chim ca hát
Rợp bóng trời cây lắng nghe tiếng sáo chiều.
1. CÂU HỎI TRƯỚC KHI ĐỌC
Câu 1: Một số thông tin về Huế mà em biết:
Câu 2: Dựa vào nhan đề và hình ảnh minh họa, em dự đoán: Văn bản sẽ viết về dòng sông Hương và cảnh vật trong bức tranh.
2. CÂU HỎI ĐỌC VĂN BẢN
Câu 1: Đoạn văn này miêu tả khúc sông thượng nguồn của dòng sông Hương.
Nét đẹp riêng của khúc sông này là:
- Vẻ hùng vĩ với hình ảnh những đoạn sông “rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn, mãnh liệt qua những ghềnh thác, cuộn xoáy như cơn lốc…”.
- Vẻ đẹp rất thơ mộng và trữ tình khiến người ta không khỏi say mê, cảm thán bằng “vẻ dịu dàng, say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng”.
=> Tính chí dương hùng tráng và nét dịu dàng, đắm say, trữ tình chí âm của dòng sông đã dung hợp, bổ khuyết cho nhau để tạo nên một Hương giang kỳ vĩ, cá tính và gây ấn tượng mạnh mẽ với người đọc.
- “phóng khoáng và hoang dại” thật quyến rũ, bí ẩn, cùng với “bản lĩnh gan dạ tâm hồn tự do và trong sáng”.
- Làm nổi bật lên cái vẻ sôi nổi tràn đầy sức sống của dòng sông, mang đến cả những hình dung về một dòng chảy lắt léo, ưa khám phá, ưa tự do được rừng già Trường Sơn hun đúc.
- Rũ bỏ cái cá tính mạnh mẽ, hoang dại để trở mình biến thành một người phụ nữ dịu dàng, một người mẹ bao dung, ngàn đời nuôi dưỡng những đứa con trong Huế bằng dòng sữa phù sa ngọt ngào, bằng hương thơm thân thuộc, bằng vẻ đẹp “dịu dàng và trí tuệ”.
- Nhắc nhở con người nhớ lại sự hy sinh to lớn của bà mẹ Hương giang ngàn đời.
=> Mối quan hệ diệu kỳ, gắn bó sâu sắc của dòng sông với mảnh đất cố đô bao đời nay.
Câu 2: Hình ảnh sông Hương qua đoạn văn này: Sông Hương như người con gái lần đầu đến với tình yêu vừa e lệ ngại ngùng, vừa táo bạo chủ động. Sông Hương như một người cô gái trẻ đầy sức sống, nàng đang cố gắng vươn mình, thay đổi diện mạo mới để chạy thật nhanh để tìm đến với người tình "thành phố tương lai" của mình "như một cuộc tìm kiếm có ý thức".
Câu 3: Tình cảm, cảm xúc của tác giả thể hiện qua đoạn văn này:
Cuối cùng sông Hương đã đến được với thành phố của mình, con sông mang một vẻ đẹp độc. Sông Hương như một điệu slow tình cảm của Huế. Lưu tốc của con sông khác hẳn với dòng sông khác. Phải chăng vì quá yêu thành phố của mình, con sông Hương muốn nhìn ngắm thành phố của mình lâu hơn trước khi rời xa nó. Đó là tình cảm của dòng sông hương với Huế hay chính là tình cảm đặc biệt mà Hoàng Phủ Ngọc Tường dành cho sông Hương và xứ Huế. Sông Hương như người tài nữ đánh đàn trong đêm khuya.
Viết về sông Hương giữa lòng thành phố Huế tác giả không quên những nét đẹp văn hóa gắn liền với dòng sông thơ mộng. Ở góc độ âm nhạc tác giả gọi sông Hương là người tài nữ đánh đàn. Sông Hương được ví như người tình dịu dàng và thủy chung. Ngòi bút của tác giả đã thực sự thăng hoa khi vẽ nên những hình ảnh đầy ấn tượng, những cảm nhận tinh tế, những liên tưởng, so sánh đẹp đến bất ngờ, lí thú, thể hiện tình yêu say đắm với con sông.
Câu 4: Mối quan hệ giữa sông Hương với Huế qua câu văn : " Quả đúng như vậy .... của những mái chèo khuya"?: Sông Hương trong mối quan hệ với thành phố Huế khăng khít với Huế như một người tình. Nhà văn đã đưa ra một minh chứng rằng: “Toàn bộ nền âm nhạc cổ điển Huế được sinh thành trên mặt nước của dòng sông này trong một khoang thuyền nào đó giữa tiếng nước rơi bán âm của những mái chèo khuya”. • Nền âm nhạc cổ điển Huế: “được sinh thành trên mặt nước của dòng sông này”. Sông Hương gắn với lịch sử âm nhạc lâu đồi của Huế, là cái nôi hình thành nền âm nhạc truyền thống. gợi nhắc đến sông Nile, sông Hắng, sông Hoàng Hà - cũng là những cái nôi hình thành những nền văn hóa lớn trên thế giới ->nhà văn cảm nhận dòng sông ở góc độ văn hóa.
Câu 5: Sông Hương đâu chỉ có vẻ đẹp mềm mại đầy nữ tính, mà còn tiềm tàng, trong chiểu sâu lịch sử của nó, một sức mạnh quật cường của dân tộc từ những ngày khai sơn, phá thạch, mở nước, dựng thành Hoá Châu hàng nghìn năm về trước. Sau này nó sẽ tiếp tục soi bóng kinh thành Phú Xuân của người anh hùng Nguyễn Huệ, chứng kiến Cách mạng tháng Tám, chiến dịch Mậu Thân, và cuộc Tổng tiến công hoàn toàn giải phóng dân tộc mùa xuân 1975. Nhưng nó xứng dáng được gọi là một thiên sử thi, trước hết vì đã từng kiên cường chận đứng những đội quân xâm lược đến từ phía nam, oai hùng không kém gì Bạch Đằng, Như Nguyệt sau này từng tiêu diệt hàng vạn quân thù đến từ phía bắc.
Tác giả gọi sông Hương là thiên "sử thi viết giữa màu cỏ lá xanh biếc". Ông muốn nói, cùng với người dân đất Hoá Châu, nó sẵn sàng hiến mình để làm nên những chiến công hiển hách, nhưng sau đó lại muốn trở về với sinh hoạt đời thường, làm người con gái dịu dàng của Huế. Nghĩa là sử thi mà vần rất đỗi trữ tình.
3. CÂU HỎI SAU KHI ĐỌC
Câu 1: a, Trên phương diện cảnh sắc thiên nhiên, sông Hương cho thấy vẻ đẹp phong phú, đa dạng của nó: Sông Hương khi hùng vĩ ở thượng nguồn, khi lại êm đềm, mơ mộng ở kinh thành Huế. Sông Hương ở thượng nguồn vô cùng dữ dội, mãnh liệt, được tác giả ví như một cô gái Di gan, man dại và phóng khoáng. Khi về đến kinh thành Huế, sông Hương lại mang một khuôn mặt khác hẳn, nếu như thượng nguồn cuộn xoáy, mãnh liệt thì tới đây lại dịu dàng, tha thướt, đầy chất mộng mơ đặc trưng của xứ Huế. Dòng sông Hương, mềm hẳn đi khi bước chân vào kinh thành, những khúc uốn mình, những đường tròn của sông Hương bao quanh Huế đã khiến lòng sông thực sự mềm mại như một tấm lụa để ôm ấp lấy thành phố thân yêu của mình. Màu sắc của sông Hương thay đổi theo từng địa hình mà nó chảy qua: khi chảy qua lòng vực dưới chân núi Ngọc Tản, nước sông trở nên xanh thẳm, còn nhìn phản quang những màu sắc của ngọn đồi phía Tây Nam thành phố thì: sớm xanh, trưa vàng, chiều tím. Sự biến đổi đó cho thấy sông Hương như một tấm gương, đồng thời cũng cho thấy vẻ đẹp biến ảo của dòng sông. Không chỉ dừng lại ở vẻ đẹp hình dạng, màu sắc, vẻ đẹp của sông Hương còn thể hiện qua sắc thái, với hai sắc thái chính là hung bạo và trữ tình. Khi sông Hương sôi nổi, trẻ trung, chủ động, lúc lại trầm mặc, cổ kính như triết lí, như cổ thi. Vẻ đẹp của sông Hương hiện lên muôn hình muôn vẻ, đa dạng màu sắc. Trên phương diện cảnh sắc thiên nhiên dù ở thượng nguồn hay khi chảy trong lòng thành phố Huế, sông Hương đều chứng tỏ nó là sự sáng tạo hoàn mĩ của tạo hóa, một món quà vô giá mà thiên nhiên đã ban tặng riêng cho đất Huế.
- Vẻ đẹp trong chiều sâu văn hóa: Trước hết sông Hương mang đặc điểm tâm hồn của con người xứ Huế. Bằng quá trình nghiên cứu, tìm hiểu vô cùng nghiêm túc tác giả đã nhận thấy một điều rất đặc biệt: “có một cái gì rất lạ với tự nhiên và giống với con người nơi đây”. Sông Hương không đơn thuần chỉ là vẻ đẹp tự nhiên mà nó còn là kết đọng rõ nét và đầy đủ của tất cả vẻ đẹp con người xứ Huế. Dòng chảy cuộn chảy cũng như con người khỏe khoắn của xứ Huế, còn dòng chảy dịu êm lại là vẻ đẹp đằm thắm, dịu dàng của con người nơi đây. Chỉ với con sông này nhưng ta thấy đầy đủ tính cách, tâm hồn Huế, vừa mạnh mẽ táo bạo, vừa dịu dàng, sôi nổi, trẻ trung.
- Sau vẻ đẹp cốt cách, tâm hồn con người đất Huế, tác giả tiếp tục chứng minh chiều sâu văn hóa trên phương diện âm nhạc và thi ca. Dòng sông Hương trong lòng thành phố với tốc độ chậm rãi, khoan thai như một điệu slow tình cảm, chính nhịp điệu này đã nói lên cái thần, cái hồn rất riêng của nhã nhạc cung đình Huế, đó là sự khoan thai, dìu dặt, trang trọng. Không chỉ dừng lại ở đó, tác giả còn khai thác dòng sông Hương ở phương diện thi ca. Bằng vốn hiểu biết phong phú, sâu rộng, tác giả đã chứng minh vô cùng thuyết phục, sông Hương đã tạo nên dòng thi ca riêng cho văn học. Từ dòng sông lung linh biến ảo màu sắc tác giả đưa người đọc đến dòng sông sức mạnh khí thế trong thơ Cao Bá Quát. Từ không khí bảng lảng trong thơ Bà Huyện Thanh Quan tác giả lại đưa người đọc đến với dòng sông ân tình, thắm thiết trong thơ Tố Hữu. Bằng những dẫn chứng thuyết phục, đa dạng tác giả đã cho thấy vẻ đẹp đa chiều của sông Hương.
Sông Hương ở bề dày lịch sử: Sông Hương ghi tên mình từ thuở sơ khai, từ thời đại các vua Hùng nó được coi là dòng biên thùy xa xôi của đất nước. Trong thời kì trung đại, sông Hương mang tên Linh Giang, có nhiệm vụ bảo vệ biên giới tổ quốc. Trong cuộc cách mạng tháng Tám, Huế là một trong ba nơi giành thắng lợi vẻ vang nhất, cách mạng tháng Tám đã phủ lên sông Hương một lớp hào quang chói lọi với chiến công lật đổ thành trì chế độ phong kiến và sự đô hộ của Pháp... Điểm nhanh các mốc lịch sử theo chiều thời gian đã cho thấy bề dày lịch sử của dòng sông song hành với vận mệnh phát triển của đất nước. Nhìn vào những mốc son cũng như những đau thương mất mát của dòng sông này ta thấy lịch sử Huế và con người Huế: đau thương nhưng quật khởi, bi tráng nhưng cũng vô cùng hào hùng, hiển hách.
b, Một số từ ngữ, câu văn cho thấy sự hiện diện của cái " tôi" của tác giả trong văn bản: "Tôi thích nhất một huyền thoại kể rằng vì yêu quý con sông xinh đẹp của quê hương, con người ở hai bờ đã nấu nước của trăm loại hoa đổ xuống dòng sông để làn nước thơm tho mãi mãi".
c, Trong đoạn 1: Con sông Hương ở thượng nguồn được Hoàng Phủ Ngọc Tường khắc họa với hai nét đẹp: mãnh liệt hoang dại nhưng cũng đầy dịu dàng và say đắm. Hành trình của Hương giang cũng giống như mọi con sông khác - bắt đầu từ thượng nguồn - nơi mà trong cảm nhận của nhà văn, giống như “bản trường ca của rừng già”. Quả là như vậy, con sông ở đây đã gắn liền với dãy núi Trường Sơn hùng vĩ. Nó mang trong mình vẻ đẹp mạnh mẽ với sức mạnh nguyên sơ bản năng: “rầm rộ giữa những bóng cây đại ngàn, mãnh liệt qua những ghềnh thác, cuộn xoáy như những cơn lốc vào những đáy vực bí ẩn”. Phép tu từ so sánh kết hợp với động từ mạnh và lối điệp cấu trúc đã khiến con sông hiện lên giống như một bản nhạc giàu cung bậc của thiên nhiên. Nhưng bản trường ca ấy không chỉ hào hùng, mà vẫn mang nét trữ tình sâu lắng. Sau những “rầm rộ”, “cuộn xoáy”, con sống đã dần trở nên “dịu dàng” hơn, đằm thắm hơn để rồi có thể làm “say đắm” bất cứ chàng trai nào khi chiêm ngưỡng vẻ đẹp của nó “giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng”. Đặc sắc nhất đó là vẻ đẹp nguyên sơ, hoang dã của rừng già đã đem đến cho nó một vẻ đẹp mà trong suy cảm của nhà văn giống như một “cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại”. Chúng ta đã biết đến những cô gái Di-gan là những người thích sống lang thang, tự do và yêu ca hát. Họ là những người thiếu nữ có vẻ đẹp man dại đầy quyến rũ. Khi so sánh con sông với những cô gái Di-gan, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã khắc vào tâm trí người đọc một ấn tượng mạnh về vẻ đẹp hoang dại nhưng cũng rất thiếu nữ, rất tình tứ của con sông. Một vẻ đẹp tự do, phóng khoáng và đầy hấp dẫn.
Câu 2: Yếu tố tự sự: Khi giáp mặt với thành Huế liền uốn một cánh cung rất nhẹ sang đến Cồn Hến, đường cong ấy làm cho dòng sông mềm hẳn đi, như một tiếng “vâng” không nói ra của tình yêu;
Yếu tố trữ tình: Tặng cho Huế điệu chảy lặng lờ, điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế; dòng chảy ngập ngừng như muốn đi muốn ở…vấn vương của một nỗi lòng; Khi ra khỏi kinh thành còn quyến luyến quay trở lại gặp thành phố một lần nữa ở thị trấn Bao Vinh.
-> Tác dụng của việc kết hợp hai biện pháp đó: Góp phần khắc họa vẻ đẹp của sông Hương một cách chân thực, sinh động nhất. Cách miêu tả sông Hương khi vào đến thành phố Huế cho thấy sự gắn bó, am hiểu và tình yêu mãnh liệt, bền chặt mà tác giả dành cho Huế, cho dòng sông.
Trong đoạn 1:
- Yếu tố tự sự: Sông Hương vùng thượng lưu được đặt trong mối quan hệ mật thiết với dãy Trường Sơn hùng vĩ. Ở đây, sông Hương có một thủy trình gian truân nhưng từ đó nó bộc lộ vẻ đẹp phóng khoáng, man dại, tràn đầy sức sống: "là một bản trường ca của rừng già, rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn, mãnh liệt qua những ghềnh thác, cuộn xoáy như cơn lốc vào những đáy vực bí ẩn"
Yếu tố trữ tình: "như một cô gái Di gan phóng khoáng và man dại", "bản lĩnh gan dạ, một tâm hồn tự do và trong sáng"
-> Đặc sắc trong lối viết ký của tác giả khi viết về sông Hương ở thượng lưu: hình ảnh hùng vĩ tuyệt đẹp, liên tưởng độc đáo, lối so sánh ví von độc đáo, sáng tạo và bất ngờ.
Câu 3:
- Các biện pháp tu từ trong văn bản là: đối lập (tương phản), so sánh, nhân hóa.
- Tác dụng của những biện pháp nghệ thuật ấy là:
+ Nghệ thuật đối lập (tương phản) nhằm làm nổi bật vẻ độc đáo của dòng sông.
+ Nghệ thuật so sánh, nhân hóa khiến sông Hương trở nên sinh động, có hồn, dòng sông gần với tâm hồn của con người xứ Huế.
Câu 4: Sự kết hợp hài hòa giữa tình yêu quê hương đất nước và tâm hồn phóng khoáng, tài hoa của người nghệ sĩ khiến con sông Hương hiện lên qua giọng điệu mềm mại, ngọt ngào, đậm chất Huế.
Sự liên tưởng đa dạng, phong phú với vốn kiến thức được tổng hợp trên nhiều lĩnh vực khiến sông Hương như một sinh thể trữ tình với tâm hồn nhạy cảm, với hành trình từ thượng nguồn trở về với Huế mà mỗi bước đi là một bước trưởng thành để từ một cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại đã trở thành một người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở.
Ngôn ngữ rất tinh tế, tài hoa với những hình ảnh được chọn lọc, giàu sức gợi hình, gợi cảm, giàu sức liên tưởng làm ngợi ca vẻ đẹp hùng vĩ, thơ mộng của con sông Hương từ khi ở thượng nguồn đến khi về với thành phố Huế - con sông của lịch sử, văn hóa, thi ca của mảnh đất cố đô
Câu 5: Theo em, vai trò của sông Hương trong tư cách " người mẹ phù xa của một vùng văn hóa xử sở" được nói đến trong đoạn đầu có được thể hiện trong phần còn lại của văn bản. Dựa vào việc nhà văn đã nhắc lại vai trò của sông Hương, điều đó thể hiện qua hai đoạn văn sau: “Hình như trong khoảnh khắc trùng lại của sông nước…tứ đại cảnh” và “Có một dòng thi ca…tác giả “Từ ấy”
- Hình ảnh sông Hương là “người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở” được thể hiện ở việc sông Hương là dòng sông gắn liền với những nét văn hóa Huế ta có thể cảm nhận được trong hai đoạn trích: “Hình như trong khoảnh khắc trùng lại của sông nước…tứ đại cảnh” và “Có một dòng thi ca…tác giả “Từ ấy””. Trước hết, dòng sông Hương hiền hòa, nên thơ gắn liền với nền âm nhạc cổ điển của miền Huế thơ.
- Qua đoạn trích, ta cảm nhận được với Hoàng Phủ Ngọc Tường, không gian sông nước êm đềm, thơ mộng ấy cơ hồ chính là nguồn cảm hứng bất tận để “toàn bộ nền âm nhạc cổ điển Huế được sinh thành trên mặt nước của dòng sông này”. Sinh thành và đắp bồi, nuôi dưỡng văn hóa nghệ thuật, mà ở đây là âm nhạc Huế, đó phải chăng chính là vai trò của “người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở” theo cách nghĩ, cách cảm và cách nói của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Cùng với sự so sánh mang nặng nỗi lòng, tâm tư ấy, Hoàng Phủ Ngọc Tường đưa người đọc đến với không gian màn đêm trên sông nước xứ Huế mà “trong một khoang thuyền nào đó, giữa tiếng nước rơi bán âm của một mái chèo khuya”. Nhà văn dẫn đưa tâm hồn người đọc đến với “tiếng nước rơi bán âm”, một âm thanh trong trẻo gợi về một đêm khuya tĩnh mịch, thanh vắng trên dòng sông Hương. “Người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở” ấy đã đắp bồi nên một nền âm nhạc cổ điển đáng trân quý giữa cái không gian trầm mặc của kinh thành lăng tẩm.
- Đâu chỉ với âm nhạc, dáng hình “người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở” còn được nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường thể hiện ở chỗ dòng sông đã khơi nguồn cảm hứng thi ca nghệ thuật ở biết bao tâm hồn nghệ sĩ. Liên tưởng đến “Nguyễn Du đã bao năm lênh đênh trên quãng sông này, với một phiến trăng sầu”, nhà văn nhắc đến “những bản đàn đã đi suốt đời Kiều”. Trong đoạn trích viết về những hình ảnh này, nhà văn còn nhắc đến một nghệ nhân già sau nửa thế kỷ chơi đàn đã chợt nhận ra khúc nhạc Huế trong những trang Kiều của cụ Nguyễn Du: “Trong như tiếng hạc bay qua/ Đục như tiếng suối mới sa nửa vời”. Những âm thanh, nhạc điệu đong đầy xúc cảm ấy lại tiếp tục gợi nhắc về “Tứ đại cảnh” – bản nhạc cổ Huế, theo tương truyền là do vua Tự Đức sáng tác.
Câu 6: Nếu đôi mắt là cửa sổ tâm hồn, thì quan sát là chìa khóa mở cánh cửa tâm hồn ấy từ bên trong để nhìn ra ngoài một cách trọn vẹn. Sáng mai thức dậy, hãy thôi nhìn mà thay vào đó là quan sát. Quan sát để lắng nghe, quan sát để cảm nhận, quan sát để thưởng thức những hương vị mà bạn đã lãng quên bấy lâu nay. Quan sát bằng cả tấm lòng, bằng tình yêu thương đối với cảnh vật, con người xung quanh.
Bài tập sáng tạo: Sáng tác thơ về sông núi quê em.
Quê hương em có con sông xanh biếc
Có núi non với một bầu trời xanh.
Lũy tre làng cùng đàn chim ca hát
Rợp bóng trời cây lắng nghe tiếng sáo chiều.
1. CÂU HỎI TRƯỚC KHI ĐỌC
Câu 1: Một số thông tin về Huế mà em biết:
Câu 2: Dựa vào nhan đề và hình ảnh minh họa, em dự đoán: Văn bản sẽ viết về dòng sông Hương và cảnh vật trong bức tranh.
2. CÂU HỎI ĐỌC VĂN BẢN
Câu 1: Đoạn văn này miêu tả khúc sông thượng nguồn của dòng sông Hương.
Nét đẹp riêng của khúc sông này là:
- Vẻ hùng vĩ với hình ảnh những đoạn sông “rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn, mãnh liệt qua những ghềnh thác, cuộn xoáy như cơn lốc…”.
- Vẻ đẹp rất thơ mộng và trữ tình khiến người ta không khỏi say mê, cảm thán bằng “vẻ dịu dàng, say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng”.
=> Tính chí dương hùng tráng và nét dịu dàng, đắm say, trữ tình chí âm của dòng sông đã dung hợp, bổ khuyết cho nhau để tạo nên một Hương giang kỳ vĩ, cá tính và gây ấn tượng mạnh mẽ với người đọc.
- “phóng khoáng và hoang dại” thật quyến rũ, bí ẩn, cùng với “bản lĩnh gan dạ tâm hồn tự do và trong sáng”.
- Làm nổi bật lên cái vẻ sôi nổi tràn đầy sức sống của dòng sông, mang đến cả những hình dung về một dòng chảy lắt léo, ưa khám phá, ưa tự do được rừng già Trường Sơn hun đúc.
- Rũ bỏ cái cá tính mạnh mẽ, hoang dại để trở mình biến thành một người phụ nữ dịu dàng, một người mẹ bao dung, ngàn đời nuôi dưỡng những đứa con trong Huế bằng dòng sữa phù sa ngọt ngào, bằng hương thơm thân thuộc, bằng vẻ đẹp “dịu dàng và trí tuệ”.
- Nhắc nhở con người nhớ lại sự hy sinh to lớn của bà mẹ Hương giang ngàn đời.
=> Mối quan hệ diệu kỳ, gắn bó sâu sắc của dòng sông với mảnh đất cố đô bao đời nay.
Câu 2: Hình ảnh sông Hương qua đoạn văn này: Sông Hương như người con gái lần đầu đến với tình yêu vừa e lệ ngại ngùng, vừa táo bạo chủ động. Sông Hương như một người cô gái trẻ đầy sức sống, nàng đang cố gắng vươn mình, thay đổi diện mạo mới để chạy thật nhanh để tìm đến với người tình "thành phố tương lai" của mình "như một cuộc tìm kiếm có ý thức".
Câu 3: Tình cảm, cảm xúc của tác giả thể hiện qua đoạn văn này:
Cuối cùng sông Hương đã đến được với thành phố của mình, con sông mang một vẻ đẹp độc. Sông Hương như một điệu slow tình cảm của Huế. Lưu tốc của con sông khác hẳn với dòng sông khác. Phải chăng vì quá yêu thành phố của mình, con sông Hương muốn nhìn ngắm thành phố của mình lâu hơn trước khi rời xa nó. Đó là tình cảm của dòng sông hương với Huế hay chính là tình cảm đặc biệt mà Hoàng Phủ Ngọc Tường dành cho sông Hương và xứ Huế. Sông Hương như người tài nữ đánh đàn trong đêm khuya.
Viết về sông Hương giữa lòng thành phố Huế tác giả không quên những nét đẹp văn hóa gắn liền với dòng sông thơ mộng. Ở góc độ âm nhạc tác giả gọi sông Hương là người tài nữ đánh đàn. Sông Hương được ví như người tình dịu dàng và thủy chung. Ngòi bút của tác giả đã thực sự thăng hoa khi vẽ nên những hình ảnh đầy ấn tượng, những cảm nhận tinh tế, những liên tưởng, so sánh đẹp đến bất ngờ, lí thú, thể hiện tình yêu say đắm với con sông.
Câu 4: Mối quan hệ giữa sông Hương với Huế qua câu văn : " Quả đúng như vậy .... của những mái chèo khuya"?: Sông Hương trong mối quan hệ với thành phố Huế khăng khít với Huế như một người tình. Nhà văn đã đưa ra một minh chứng rằng: “Toàn bộ nền âm nhạc cổ điển Huế được sinh thành trên mặt nước của dòng sông này trong một khoang thuyền nào đó giữa tiếng nước rơi bán âm của những mái chèo khuya”. • Nền âm nhạc cổ điển Huế: “được sinh thành trên mặt nước của dòng sông này”. Sông Hương gắn với lịch sử âm nhạc lâu đồi của Huế, là cái nôi hình thành nền âm nhạc truyền thống. gợi nhắc đến sông Nile, sông Hắng, sông Hoàng Hà - cũng là những cái nôi hình thành những nền văn hóa lớn trên thế giới ->nhà văn cảm nhận dòng sông ở góc độ văn hóa.
Câu 5: Sông Hương đâu chỉ có vẻ đẹp mềm mại đầy nữ tính, mà còn tiềm tàng, trong chiểu sâu lịch sử của nó, một sức mạnh quật cường của dân tộc từ những ngày khai sơn, phá thạch, mở nước, dựng thành Hoá Châu hàng nghìn năm về trước. Sau này nó sẽ tiếp tục soi bóng kinh thành Phú Xuân của người anh hùng Nguyễn Huệ, chứng kiến Cách mạng tháng Tám, chiến dịch Mậu Thân, và cuộc Tổng tiến công hoàn toàn giải phóng dân tộc mùa xuân 1975. Nhưng nó xứng dáng được gọi là một thiên sử thi, trước hết vì đã từng kiên cường chận đứng những đội quân xâm lược đến từ phía nam, oai hùng không kém gì Bạch Đằng, Như Nguyệt sau này từng tiêu diệt hàng vạn quân thù đến từ phía bắc.
Tác giả gọi sông Hương là thiên "sử thi viết giữa màu cỏ lá xanh biếc". Ông muốn nói, cùng với người dân đất Hoá Châu, nó sẵn sàng hiến mình để làm nên những chiến công hiển hách, nhưng sau đó lại muốn trở về với sinh hoạt đời thường, làm người con gái dịu dàng của Huế. Nghĩa là sử thi mà vần rất đỗi trữ tình.
3. CÂU HỎI SAU KHI ĐỌC
Câu 1: a, Trên phương diện cảnh sắc thiên nhiên, sông Hương cho thấy vẻ đẹp phong phú, đa dạng của nó: Sông Hương khi hùng vĩ ở thượng nguồn, khi lại êm đềm, mơ mộng ở kinh thành Huế. Sông Hương ở thượng nguồn vô cùng dữ dội, mãnh liệt, được tác giả ví như một cô gái Di gan, man dại và phóng khoáng. Khi về đến kinh thành Huế, sông Hương lại mang một khuôn mặt khác hẳn, nếu như thượng nguồn cuộn xoáy, mãnh liệt thì tới đây lại dịu dàng, tha thướt, đầy chất mộng mơ đặc trưng của xứ Huế. Dòng sông Hương, mềm hẳn đi khi bước chân vào kinh thành, những khúc uốn mình, những đường tròn của sông Hương bao quanh Huế đã khiến lòng sông thực sự mềm mại như một tấm lụa để ôm ấp lấy thành phố thân yêu của mình. Màu sắc của sông Hương thay đổi theo từng địa hình mà nó chảy qua: khi chảy qua lòng vực dưới chân núi Ngọc Tản, nước sông trở nên xanh thẳm, còn nhìn phản quang những màu sắc của ngọn đồi phía Tây Nam thành phố thì: sớm xanh, trưa vàng, chiều tím. Sự biến đổi đó cho thấy sông Hương như một tấm gương, đồng thời cũng cho thấy vẻ đẹp biến ảo của dòng sông. Không chỉ dừng lại ở vẻ đẹp hình dạng, màu sắc, vẻ đẹp của sông Hương còn thể hiện qua sắc thái, với hai sắc thái chính là hung bạo và trữ tình. Khi sông Hương sôi nổi, trẻ trung, chủ động, lúc lại trầm mặc, cổ kính như triết lí, như cổ thi. Vẻ đẹp của sông Hương hiện lên muôn hình muôn vẻ, đa dạng màu sắc. Trên phương diện cảnh sắc thiên nhiên dù ở thượng nguồn hay khi chảy trong lòng thành phố Huế, sông Hương đều chứng tỏ nó là sự sáng tạo hoàn mĩ của tạo hóa, một món quà vô giá mà thiên nhiên đã ban tặng riêng cho đất Huế.
- Vẻ đẹp trong chiều sâu văn hóa: Trước hết sông Hương mang đặc điểm tâm hồn của con người xứ Huế. Bằng quá trình nghiên cứu, tìm hiểu vô cùng nghiêm túc tác giả đã nhận thấy một điều rất đặc biệt: “có một cái gì rất lạ với tự nhiên và giống với con người nơi đây”. Sông Hương không đơn thuần chỉ là vẻ đẹp tự nhiên mà nó còn là kết đọng rõ nét và đầy đủ của tất cả vẻ đẹp con người xứ Huế. Dòng chảy cuộn chảy cũng như con người khỏe khoắn của xứ Huế, còn dòng chảy dịu êm lại là vẻ đẹp đằm thắm, dịu dàng của con người nơi đây. Chỉ với con sông này nhưng ta thấy đầy đủ tính cách, tâm hồn Huế, vừa mạnh mẽ táo bạo, vừa dịu dàng, sôi nổi, trẻ trung.
- Sau vẻ đẹp cốt cách, tâm hồn con người đất Huế, tác giả tiếp tục chứng minh chiều sâu văn hóa trên phương diện âm nhạc và thi ca. Dòng sông Hương trong lòng thành phố với tốc độ chậm rãi, khoan thai như một điệu slow tình cảm, chính nhịp điệu này đã nói lên cái thần, cái hồn rất riêng của nhã nhạc cung đình Huế, đó là sự khoan thai, dìu dặt, trang trọng. Không chỉ dừng lại ở đó, tác giả còn khai thác dòng sông Hương ở phương diện thi ca. Bằng vốn hiểu biết phong phú, sâu rộng, tác giả đã chứng minh vô cùng thuyết phục, sông Hương đã tạo nên dòng thi ca riêng cho văn học. Từ dòng sông lung linh biến ảo màu sắc tác giả đưa người đọc đến dòng sông sức mạnh khí thế trong thơ Cao Bá Quát. Từ không khí bảng lảng trong thơ Bà Huyện Thanh Quan tác giả lại đưa người đọc đến với dòng sông ân tình, thắm thiết trong thơ Tố Hữu. Bằng những dẫn chứng thuyết phục, đa dạng tác giả đã cho thấy vẻ đẹp đa chiều của sông Hương.
Sông Hương ở bề dày lịch sử: Sông Hương ghi tên mình từ thuở sơ khai, từ thời đại các vua Hùng nó được coi là dòng biên thùy xa xôi của đất nước. Trong thời kì trung đại, sông Hương mang tên Linh Giang, có nhiệm vụ bảo vệ biên giới tổ quốc. Trong cuộc cách mạng tháng Tám, Huế là một trong ba nơi giành thắng lợi vẻ vang nhất, cách mạng tháng Tám đã phủ lên sông Hương một lớp hào quang chói lọi với chiến công lật đổ thành trì chế độ phong kiến và sự đô hộ của Pháp... Điểm nhanh các mốc lịch sử theo chiều thời gian đã cho thấy bề dày lịch sử của dòng sông song hành với vận mệnh phát triển của đất nước. Nhìn vào những mốc son cũng như những đau thương mất mát của dòng sông này ta thấy lịch sử Huế và con người Huế: đau thương nhưng quật khởi, bi tráng nhưng cũng vô cùng hào hùng, hiển hách.
b, Một số từ ngữ, câu văn cho thấy sự hiện diện của cái " tôi" của tác giả trong văn bản: "Tôi thích nhất một huyền thoại kể rằng vì yêu quý con sông xinh đẹp của quê hương, con người ở hai bờ đã nấu nước của trăm loại hoa đổ xuống dòng sông để làn nước thơm tho mãi mãi".
c, Trong đoạn 1: Con sông Hương ở thượng nguồn được Hoàng Phủ Ngọc Tường khắc họa với hai nét đẹp: mãnh liệt hoang dại nhưng cũng đầy dịu dàng và say đắm. Hành trình của Hương giang cũng giống như mọi con sông khác - bắt đầu từ thượng nguồn - nơi mà trong cảm nhận của nhà văn, giống như “bản trường ca của rừng già”. Quả là như vậy, con sông ở đây đã gắn liền với dãy núi Trường Sơn hùng vĩ. Nó mang trong mình vẻ đẹp mạnh mẽ với sức mạnh nguyên sơ bản năng: “rầm rộ giữa những bóng cây đại ngàn, mãnh liệt qua những ghềnh thác, cuộn xoáy như những cơn lốc vào những đáy vực bí ẩn”. Phép tu từ so sánh kết hợp với động từ mạnh và lối điệp cấu trúc đã khiến con sông hiện lên giống như một bản nhạc giàu cung bậc của thiên nhiên. Nhưng bản trường ca ấy không chỉ hào hùng, mà vẫn mang nét trữ tình sâu lắng. Sau những “rầm rộ”, “cuộn xoáy”, con sống đã dần trở nên “dịu dàng” hơn, đằm thắm hơn để rồi có thể làm “say đắm” bất cứ chàng trai nào khi chiêm ngưỡng vẻ đẹp của nó “giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng”. Đặc sắc nhất đó là vẻ đẹp nguyên sơ, hoang dã của rừng già đã đem đến cho nó một vẻ đẹp mà trong suy cảm của nhà văn giống như một “cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại”. Chúng ta đã biết đến những cô gái Di-gan là những người thích sống lang thang, tự do và yêu ca hát. Họ là những người thiếu nữ có vẻ đẹp man dại đầy quyến rũ. Khi so sánh con sông với những cô gái Di-gan, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã khắc vào tâm trí người đọc một ấn tượng mạnh về vẻ đẹp hoang dại nhưng cũng rất thiếu nữ, rất tình tứ của con sông. Một vẻ đẹp tự do, phóng khoáng và đầy hấp dẫn.
Câu 2: Yếu tố tự sự: Khi giáp mặt với thành Huế liền uốn một cánh cung rất nhẹ sang đến Cồn Hến, đường cong ấy làm cho dòng sông mềm hẳn đi, như một tiếng “vâng” không nói ra của tình yêu;
Yếu tố trữ tình: Tặng cho Huế điệu chảy lặng lờ, điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế; dòng chảy ngập ngừng như muốn đi muốn ở…vấn vương của một nỗi lòng; Khi ra khỏi kinh thành còn quyến luyến quay trở lại gặp thành phố một lần nữa ở thị trấn Bao Vinh.
-> Tác dụng của việc kết hợp hai biện pháp đó: Góp phần khắc họa vẻ đẹp của sông Hương một cách chân thực, sinh động nhất. Cách miêu tả sông Hương khi vào đến thành phố Huế cho thấy sự gắn bó, am hiểu và tình yêu mãnh liệt, bền chặt mà tác giả dành cho Huế, cho dòng sông.
Trong đoạn 1:
- Yếu tố tự sự: Sông Hương vùng thượng lưu được đặt trong mối quan hệ mật thiết với dãy Trường Sơn hùng vĩ. Ở đây, sông Hương có một thủy trình gian truân nhưng từ đó nó bộc lộ vẻ đẹp phóng khoáng, man dại, tràn đầy sức sống: "là một bản trường ca của rừng già, rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn, mãnh liệt qua những ghềnh thác, cuộn xoáy như cơn lốc vào những đáy vực bí ẩn"
Yếu tố trữ tình: "như một cô gái Di gan phóng khoáng và man dại", "bản lĩnh gan dạ, một tâm hồn tự do và trong sáng"
-> Đặc sắc trong lối viết ký của tác giả khi viết về sông Hương ở thượng lưu: hình ảnh hùng vĩ tuyệt đẹp, liên tưởng độc đáo, lối so sánh ví von độc đáo, sáng tạo và bất ngờ.
Câu 3:
- Các biện pháp tu từ trong văn bản là: đối lập (tương phản), so sánh, nhân hóa.
- Tác dụng của những biện pháp nghệ thuật ấy là:
+ Nghệ thuật đối lập (tương phản) nhằm làm nổi bật vẻ độc đáo của dòng sông.
+ Nghệ thuật so sánh, nhân hóa khiến sông Hương trở nên sinh động, có hồn, dòng sông gần với tâm hồn của con người xứ Huế.
Câu 4: Sự kết hợp hài hòa giữa tình yêu quê hương đất nước và tâm hồn phóng khoáng, tài hoa của người nghệ sĩ khiến con sông Hương hiện lên qua giọng điệu mềm mại, ngọt ngào, đậm chất Huế.
Sự liên tưởng đa dạng, phong phú với vốn kiến thức được tổng hợp trên nhiều lĩnh vực khiến sông Hương như một sinh thể trữ tình với tâm hồn nhạy cảm, với hành trình từ thượng nguồn trở về với Huế mà mỗi bước đi là một bước trưởng thành để từ một cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại đã trở thành một người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở.
Ngôn ngữ rất tinh tế, tài hoa với những hình ảnh được chọn lọc, giàu sức gợi hình, gợi cảm, giàu sức liên tưởng làm ngợi ca vẻ đẹp hùng vĩ, thơ mộng của con sông Hương từ khi ở thượng nguồn đến khi về với thành phố Huế - con sông của lịch sử, văn hóa, thi ca của mảnh đất cố đô
Câu 5: Theo em, vai trò của sông Hương trong tư cách " người mẹ phù xa của một vùng văn hóa xử sở" được nói đến trong đoạn đầu có được thể hiện trong phần còn lại của văn bản. Dựa vào việc nhà văn đã nhắc lại vai trò của sông Hương, điều đó thể hiện qua hai đoạn văn sau: “Hình như trong khoảnh khắc trùng lại của sông nước…tứ đại cảnh” và “Có một dòng thi ca…tác giả “Từ ấy”
- Hình ảnh sông Hương là “người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở” được thể hiện ở việc sông Hương là dòng sông gắn liền với những nét văn hóa Huế ta có thể cảm nhận được trong hai đoạn trích: “Hình như trong khoảnh khắc trùng lại của sông nước…tứ đại cảnh” và “Có một dòng thi ca…tác giả “Từ ấy””. Trước hết, dòng sông Hương hiền hòa, nên thơ gắn liền với nền âm nhạc cổ điển của miền Huế thơ.
- Qua đoạn trích, ta cảm nhận được với Hoàng Phủ Ngọc Tường, không gian sông nước êm đềm, thơ mộng ấy cơ hồ chính là nguồn cảm hứng bất tận để “toàn bộ nền âm nhạc cổ điển Huế được sinh thành trên mặt nước của dòng sông này”. Sinh thành và đắp bồi, nuôi dưỡng văn hóa nghệ thuật, mà ở đây là âm nhạc Huế, đó phải chăng chính là vai trò của “người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở” theo cách nghĩ, cách cảm và cách nói của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Cùng với sự so sánh mang nặng nỗi lòng, tâm tư ấy, Hoàng Phủ Ngọc Tường đưa người đọc đến với không gian màn đêm trên sông nước xứ Huế mà “trong một khoang thuyền nào đó, giữa tiếng nước rơi bán âm của một mái chèo khuya”. Nhà văn dẫn đưa tâm hồn người đọc đến với “tiếng nước rơi bán âm”, một âm thanh trong trẻo gợi về một đêm khuya tĩnh mịch, thanh vắng trên dòng sông Hương. “Người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở” ấy đã đắp bồi nên một nền âm nhạc cổ điển đáng trân quý giữa cái không gian trầm mặc của kinh thành lăng tẩm.
- Đâu chỉ với âm nhạc, dáng hình “người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở” còn được nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường thể hiện ở chỗ dòng sông đã khơi nguồn cảm hứng thi ca nghệ thuật ở biết bao tâm hồn nghệ sĩ. Liên tưởng đến “Nguyễn Du đã bao năm lênh đênh trên quãng sông này, với một phiến trăng sầu”, nhà văn nhắc đến “những bản đàn đã đi suốt đời Kiều”. Trong đoạn trích viết về những hình ảnh này, nhà văn còn nhắc đến một nghệ nhân già sau nửa thế kỷ chơi đàn đã chợt nhận ra khúc nhạc Huế trong những trang Kiều của cụ Nguyễn Du: “Trong như tiếng hạc bay qua/ Đục như tiếng suối mới sa nửa vời”. Những âm thanh, nhạc điệu đong đầy xúc cảm ấy lại tiếp tục gợi nhắc về “Tứ đại cảnh” – bản nhạc cổ Huế, theo tương truyền là do vua Tự Đức sáng tác.
Câu 6: Nếu đôi mắt là cửa sổ tâm hồn, thì quan sát là chìa khóa mở cánh cửa tâm hồn ấy từ bên trong để nhìn ra ngoài một cách trọn vẹn. Sáng mai thức dậy, hãy thôi nhìn mà thay vào đó là quan sát. Quan sát để lắng nghe, quan sát để cảm nhận, quan sát để thưởng thức những hương vị mà bạn đã lãng quên bấy lâu nay. Quan sát bằng cả tấm lòng, bằng tình yêu thương đối với cảnh vật, con người xung quanh.
Bài tập sáng tạo: Sáng tác thơ về sông núi quê em.
Quê hương em có con sông xanh biếc
Có núi non với một bầu trời xanh.
Lũy tre làng cùng đàn chim ca hát
Rợp bóng trời cây lắng nghe tiếng sáo chiều.