[toc:ul]
1. CÂU HỎI TRƯỚC KHI ĐỌC
Câu hỏi: Theo bạn, thế nào là " người đẹp trong tranh" hay " người đẹp như tranh"? Hãy thử chia sẻ tưởng tượng của bạn về hình ảnh người đẹp bước ra từ bức tranh.
2. CÂU HỎI ĐỌC VĂN BẢN
Câu 1: Bạn có nhận xét gì tình cảm của chàng Tú Uyên trong đoạn này?
Câu 2: Hãy hình dung sự thay đổi của khung cảnh trước và sau khi nàng tiên Giáng Kiều làm phép.
3. CÂU HỎI SAU KHI ĐỌCCâu 1: Dựa vào tóm tắt, cho biết cốt truyện của Bích Câu kì ngộ được xây dựng theo mô hình nào?
Câu 2: Chỉ ra chi tiết có vai trò quan trọng trong việc thể hiện nội dung văn bản.
Câu 3: Phân tích đặc điểm của nhân vật Tú Uyên và Giáng Kiều thể hiện qua văn bản.
Câu 4: Nhận xét về cách thể hiện thái độ, tình cảm của nhân vật Giáng Kiều qua lời thoại dưới đây:
Thưa rằng: “Túc trái tiền nhân
Không dưng dễ xuống cõi trần làm chi
Song còn mấy bạn tương tri
Bấy lâu chưa có chút gì là đâu
Trước xin từ biệt cùng nhau
Chữ duyên này trở về sau còn dài”?
Câu 5: Dấu hiệu nào trong đoạn trích cho thấy đây là truyện thơ Nôm bác học?
Câu 6: Thông điệp mà tác giả muốn gửi đến người đọc là gì?
Bài tập sáng tạo: Hãy diễn xuôi đoạn trích này và nhận xét sự khác biệt giữa đoạn trích và đoạn diễn xuôi về hiệu quả thể hiện nội dung của tác phẩm.
1. CÂU HỎI TRƯỚC KHI ĐỌC
"Người đẹp trong tranh" hay " người đẹp như tranh" nghĩa là: Là người đẹp nghiêng nước nghiêng thành, rất đẹp bởi những người trong tranh là người do mình tưởng tượng ra nên rất đẹp so với ngoài đời.
2. CÂU HỎI ĐỌC VĂN BẢN
Câu 1: Nhận xét về tình cảm của chàng Tú Uyên trong đoạn này: Chàng Tú Uyên trong đoạn này rất si tình, nguyện làm tất cả để có thể nhìn thấy mặt, được đổi lấy trận cười của nàng ấy.
Câu 2: Hình dung sự thay đổi của khung cảnh trước và sau khi nàng tiên Giáng Kiều làm phép: Khung cảnh trước nàng tiên Giáng Kiều làm phép thì khung cảnh cô đơn chỉ một mình chàng ngẩn ngơ, sinh ốm tương tư. Suốt ngày chỉ thẫn thờ nhớ tiếc người đẹp, quên ăn uống. Sau khi nàng tiên Giáng Kiều xuống thì khung cảnh trở nên vui vẻ, đông đúc nhộn nhịp.
3. CÂU HỎI SAU KHI ĐỌC
Câu 1: Cốt truyện của Bích Câu kì ngộ được xây dựng theo mô hình: gặp gỡ( hội ngộ) - Tai viến ( Lưu lạc) - Đoàn tụ ( Đoàn viên)
Câu 2: Chi tiết có vai trò quan trọng trong việc thể hiện nội dung văn bản là: Chi tiết Tú Uyên định tự tử nhưng Giáng Kiều hiện ra và tha thứ cho Tú Uyên. Bộc lộ một quan niệm nhân sinh muốn thoát ly thế giới thực tại. Mặc dù mang màu sắc hoang đường nhuungw Tư tưởng yếm thế này ít nhiều cũng đã thể hiện cái nhìn phê phán xã hội của tác giả trong hoàn cảnh một đất nước loạn lạc, chiến tranh, đầy dẫy bất trắc. Mặt khác, ở đây cũng là một xu hướng giải tỏa tâm thức của những con người lúc bấy giờ: muốn rời bỏ đạo Nho mà tìm đến Phật giáo và Đạo giáo.
Câu 3: Đặc điểm của nhân vật Tú Uyên và Giáng Kiều thể hiện qua văn bản:
- Tú Uyên mặc dù thường cùng các bạn đi viếng những danh lam thắng cảnh nhưng lại tỏ ra không tin là có thần tiên. Để cho đến khi gặp được Giáng Kiều nhưng lại không biết trân trọng để đến khi mất đi thì mới hối hận mà định tự tử.
- Giáng Kiều là người có tầm lòng bao dung, tha thứ và chấp nhận làm lại với người đã làm mình tổn thương, thể hiện sự bao dung, dịu dàng.
Câu 4: Nhận xét về cách thể hiện thái độ, tình cảm của nhân vật Giáng Kiều qua lời thoại: Tình cảm của hai người đã là nhân duyên tiền kiếp, tính cảm của Giáng Kiều trước sau như một với Tú Uyên, không thay đổi cho dù có nhiều chuyện xảy ra, những chuyện tưởng chừng không thể tha thứ nhưng Giáng Kiều có tấm long bao dung, tình yêu vô bờ với Tú Uyên nên duyên này nối lại mong rằng tình cảm này sẽ tiếp tục.
Câu 5: Dấu hiệu trong đoạn trích cho thấy đây là truyện thơ Nôm bác học: Xuất xứ của truyện thơ Bích Câu kì ngộ là các sự tích, đầu tiên là truyền thuyết Vua Lý Thái Tổ nằm mộng được Phật Quan Âm ban cho 8 cành sen trắng. Khi tỉnh dậy hỏi quần thần thì được các cao tăng trong triều tâu lên rằng ở hồ Tảo Liên, phường Bích Câu, cửa thành Nam có loại sen trắng hương thơm nức mà rất đẹp. Vua liền cho xây chùa Đắc Quốc thờ Quan Âm tại Bích Câu. Lại có sự tích vua Lê Thánh Tông gặp tiên nữ ở chùa Ngọc Hồ (nơi Tú Uyên gặp Giáng Kiều - nay ở số 128 phố Nguyễn Khuyến, phường Văn Miếu, Hà Nội). Truyện viết bằng thể thơ lục bát diễn lại một sự tích lịch sử lưu truyền trong dân gian nước Việt. Do đó truyện thuộc truyện Nôm bác học
Câu 6: Thông điệp mà tác giả muốn gửi đến người đọc là: cần biết trân trọng những thứ có hiện tại. Dù để đạt được điều gì đó rất khó, khi đạt được có thể thỏa mãn với thành tựu của mình nhưng không nên buông thả bản thân để mất đi những gì đáng quý để rồi đến khi mất đi mới biết trân trọn.
Bài tập sáng tạo
Chàng tưởng có người nào đó ở trên lầu cao ném xuống rồi nấp vào một chỗ. Nhưng ngước nhìn mọi nơi, chẳng thấy gì cả. Đương lúc ngơ ngác, Tú Uyên bỗng thấy một đám người từ trong chùa đi ra, trong đó có một cô gái rất đẹp. Thấy nàng liếc mắt nhìn, chàng lại bắt chuyện. Hai người vừa đi vừa chuyện trò vui vẻ. Lòng Tú Uyên như nở hoa. Nhưng khi sắp đến đình Quảng Văn thì người con gái bỗng nhiên biến mất. Tú Uyên đứng ngẩn ra rất lâu, mãi đến tối mới trở về nhà.
Từ đấy, Tú Uyên đêm mơ ngày tưởng, không thiết gì ăn uống, học hành. Nghe tin đền Bạch Mã rất thiêng, chàng đến xin quẻ, rồi ngủ đêm tại đền cầu mộng.
Hôm sau, chàng y hẹn đến cầu Đông. Đợi mãi mới gặp một ông già bán tranh, đưa tới mời chàng mua một bức tố nữ. Chàng mở ra xem thì hình dạng người tố nữ trong tranh chẳng khác gì người mà mình mong đợi. Chàng mua ngay, đem về treo bên cạnh chỗ ngồi. Đến bữa ăn chàng dọn ra hai đôi đũa, hai cái bát mời người đẹp trong tranh cùng ăn như mời người thật. Chàng hơi ngạc nhiên, cảm thấy tố nữ trong tranh hai má đỏ bừng như có ý thẹn.
Một hôm, Tú Uyên đi học về thì thấy giữa giường đã sẵn sàng một mâm cơm có thức ăn ngon, khác với cơm rau thường ngày. Tuy chưa hiểu có ai cho, nhưng đói bụng, chàng cũng ngồi vào ăn. Tiếp mấy hôm sau, mâm cơm đều dọn như thế. Chàng nửa ngờ nửa mừng không hiểu ra làm sao.
Hôm khác, chàng giả tảng đi học, nửa đường lộn về, nấp ngoài cửa sổ dòm vào. Chàng thấy người đẹp trong tranh bước ra dọn dẹp nhà cửa và xuống bếp làm cơm. Chàng đột ngột xô cửa bước vào, nắm chặt tay nàng mà rằng:
- Để tôi bấy lâu trông đợi mòn mỏi con mắt! Thôi, bây giờ nhất định không cho nàng ra khỏi đây đâu.
Rồi nàng cho biết tên mình là Giáng Kiều, vốn có duyên nợ với chàng nên được xuống trần cùng kết làm đôi lứa. Tú Uyên tưởng không có gì sung sướng hơn thế nữa. Chàng giơ tay lên trời thề bồi. Hai người chuyện trò hồi lâu.
Nhưng từ ngày được vợ đẹp, Tú Uyên không buồn giở đến sách nữa. Suốt ngày chàng ở bên vợ và đặc biệt một điều là chàng thích uống rượu và ăn ngon. Giáng Kiều khuyên can mãi nhưng Tú Uyên vẫn chứng nào tật ấy. Ba năm trôi qua, chàng không lai vãng đến học hành. Dần dà trở nên nghiện rượu. Đã uống là uống đến say. Khi say không còn biết trời đất là gì. Thậm chí nhiều lần mắng chửi vợ.
Giáng Kiều giận lắm. Một hôm chồng từ tửu quán khật khưỡng bước về nhà, nàng vực vào giường, rồi nhân lúc chồng ngủ thiếp đi, nàng bay về trời.
Tỉnh rượu, Tú Uyên không thấy vợ đâu, rất lấy làm hối hận. Suốt một tháng, chàng bỏ ăn bỏ ngủ, kêu khóc thảm thiết. Bạn bè hết lời khuyên dỗ nhưng chàng không sao giảm được ưu sầu. Giận thân, chàng chỉ muốn tự vẫn cho xong đời. Nhưng khăn vừa vắt lên xà thì bỗng có trận gió thoảng đưa mùi hương đến. Giáng Kiều đã hiện ra trước mặt. Chàng vừa mừng vừa thẹn, thề xin trừ hẳn rượu. Từ đó, hai vợ chồng lại vui vẻ như xưa.
Chẳng bao lâu, Giáng Kiều sinh được một bé trai. Đứa bé lớn lên rất thông minh, học ngày một giỏi.
Một đêm nọ, bỗng có hai con hạc đến đón ở sân. Hai vợ chồng dặn con ở lại rồi cưỡi hạc bay lên trời. Kể từ đó, trong dân gian lưu truyền câu chuyện về sự tích Tú Uyên – Giáng Kiều.
-> Đoạn trích thì lời nói sống động, ngôn từ trữ tình thể hiện được sự ẩn dụ nhưng người đọc khó hiểu và theo dõi văn bản còn đoạn diễn xuôi có thể hiểu dễ dàng hơn, dễ theo dõi nội dung hơn tuy nhiên thì lời nói không được trau chuốt bằng đoạn trích.
1. CÂU HỎI TRƯỚC KHI ĐỌC
Là người đẹp nghiêng nước nghiêng thành, rất đẹp bởi những người trong tranh là người do mình tưởng tượng ra nên rất đẹp so với ngoài đời.
2. CÂU HỎI ĐỌC VĂN BẢN
Câu 1: Chàng Tú Uyên trong đoạn này rất si tình, nguyện làm tất cả để có thể nhìn thấy mặt, được đổi lấy trận cười của nàng ấy.
Câu 2: Trước nàng tiên Giáng Kiều làm phép thì khung cảnh cô đơn chỉ một mình chàng ngẩn ngơ, sinh ốm tương tư. Suốt ngày chỉ thẫn thờ nhớ tiếc người đẹp, quên ăn uống. Sau khi nàng tiên Giáng Kiều xuống thì khung cảnh trở nên vui vẻ, đông đúc nhộn nhịp.
3. CÂU HỎI SAU KHI ĐỌC
Câu 1: Theo mô hình gặp gỡ( hội ngộ) - Tai viến ( Lưu lạc) - Đoàn tụ ( Đoàn viên)
Câu 2: Đó là chi tiết Tú Uyên định tự tử nhưng Giáng Kiều hiện ra và tha thứ cho Tú Uyên. Bộc lộ một quan niệm nhân sinh muốn thoát ly thế giới thực tại.
Câu 3:
- Tú Uyên mặc dù thường cùng các bạn đi viếng những danh lam thắng cảnh nhưng lại tỏ ra không tin là có thần tiên.
- Giáng Kiều là người có tầm lòng bao dung, tha thứ và chấp nhận làm lại với người đã làm mình tổn thương, thể hiện sự bao dung, dịu dàng.
Câu 4: Tình cảm của hai người đã là nhân duyên tiền kiếp, tính cảm của Giáng Kiều trước sau như một với Tú Uyên, không thay đổi cho dù có nhiều chuyện xảy ra.
Câu 5:
- Xuất xứ của truyện thơ Bích Câu kì ngộ là các sự tích
- Truyện viết bằng thể thơ lục bát diễn lại một sự tích lịch sử lưu truyền trong dân gian nước Việt.
-> Do đó truyện thuộc truyện Nôm bác học
Câu 6: Cần biết trân trọng những thứ có hiện tại. Dù để đạt được điều gì đó rất khó, khi đạt được có thể thỏa mãn với thành tựu của mình nhưng không nên buông thả bản thân để mất đi những gì đáng quý để rồi đến khi mất đi mới biết trân trọn.
Bài tập sáng tạo
Chàng tưởng có người nào đó ở trên lầu cao ném xuống rồi nấp vào một chỗ. Nhưng ngước nhìn mọi nơi, chẳng thấy gì cả. Đương lúc ngơ ngác, Tú Uyên bỗng thấy một đám người từ trong chùa đi ra, trong đó có một cô gái rất đẹp. Thấy nàng liếc mắt nhìn, chàng lại bắt chuyện. Hai người vừa đi vừa chuyện trò vui vẻ. Lòng Tú Uyên như nở hoa. Nhưng khi sắp đến đình Quảng Văn thì người con gái bỗng nhiên biến mất. Tú Uyên đứng ngẩn ra rất lâu, mãi đến tối mới trở về nhà.
Từ đấy, Tú Uyên đêm mơ ngày tưởng, không thiết gì ăn uống, học hành. Nghe tin đền Bạch Mã rất thiêng, chàng đến xin quẻ, rồi ngủ đêm tại đền cầu mộng.
Hôm sau, chàng y hẹn đến cầu Đông. Đợi mãi mới gặp một ông già bán tranh, đưa tới mời chàng mua một bức tố nữ. Chàng mở ra xem thì hình dạng người tố nữ trong tranh chẳng khác gì người mà mình mong đợi. Chàng mua ngay, đem về treo bên cạnh chỗ ngồi. Đến bữa ăn chàng dọn ra hai đôi đũa, hai cái bát mời người đẹp trong tranh cùng ăn như mời người thật. Chàng hơi ngạc nhiên, cảm thấy tố nữ trong tranh hai má đỏ bừng như có ý thẹn.
Một hôm, Tú Uyên đi học về thì thấy giữa giường đã sẵn sàng một mâm cơm có thức ăn ngon, khác với cơm rau thường ngày. Tuy chưa hiểu có ai cho, nhưng đói bụng, chàng cũng ngồi vào ăn. Tiếp mấy hôm sau, mâm cơm đều dọn như thế. Chàng nửa ngờ nửa mừng không hiểu ra làm sao.
Hôm khác, chàng giả tảng đi học, nửa đường lộn về, nấp ngoài cửa sổ dòm vào. Chàng thấy người đẹp trong tranh bước ra dọn dẹp nhà cửa và xuống bếp làm cơm. Chàng đột ngột xô cửa bước vào, nắm chặt tay nàng mà rằng:
- Để tôi bấy lâu trông đợi mòn mỏi con mắt! Thôi, bây giờ nhất định không cho nàng ra khỏi đây đâu.
Rồi nàng cho biết tên mình là Giáng Kiều, vốn có duyên nợ với chàng nên được xuống trần cùng kết làm đôi lứa. Tú Uyên tưởng không có gì sung sướng hơn thế nữa. Chàng giơ tay lên trời thề bồi. Hai người chuyện trò hồi lâu.
Nhưng từ ngày được vợ đẹp, Tú Uyên không buồn giở đến sách nữa. Suốt ngày chàng ở bên vợ và đặc biệt một điều là chàng thích uống rượu và ăn ngon. Giáng Kiều khuyên can mãi nhưng Tú Uyên vẫn chứng nào tật ấy. Ba năm trôi qua, chàng không lai vãng đến học hành. Dần dà trở nên nghiện rượu. Đã uống là uống đến say. Khi say không còn biết trời đất là gì. Thậm chí nhiều lần mắng chửi vợ.
Giáng Kiều giận lắm. Một hôm chồng từ tửu quán khật khưỡng bước về nhà, nàng vực vào giường, rồi nhân lúc chồng ngủ thiếp đi, nàng bay về trời.
Tỉnh rượu, Tú Uyên không thấy vợ đâu, rất lấy làm hối hận. Suốt một tháng, chàng bỏ ăn bỏ ngủ, kêu khóc thảm thiết. Bạn bè hết lời khuyên dỗ nhưng chàng không sao giảm được ưu sầu. Giận thân, chàng chỉ muốn tự vẫn cho xong đời. Nhưng khăn vừa vắt lên xà thì bỗng có trận gió thoảng đưa mùi hương đến. Giáng Kiều đã hiện ra trước mặt. Chàng vừa mừng vừa thẹn, thề xin trừ hẳn rượu. Từ đó, hai vợ chồng lại vui vẻ như xưa.
Chẳng bao lâu, Giáng Kiều sinh được một bé trai. Đứa bé lớn lên rất thông minh, học ngày một giỏi.
Một đêm nọ, bỗng có hai con hạc đến đón ở sân. Hai vợ chồng dặn con ở lại rồi cưỡi hạc bay lên trời. Kể từ đó, trong dân gian lưu truyền câu chuyện về sự tích Tú Uyên – Giáng Kiều.
-> Đoạn trích thì lời nói sống động, ngôn từ trữ tình thể hiện được sự ẩn dụ nhưng người đọc khó hiểu và theo dõi văn bản còn đoạn diễn xuôi có thể hiểu dễ dàng hơn, dễ theo dõi nội dung hơn tuy nhiên thì lời nói không được trau chuốt bằng đoạn trích.
1. CÂU HỎI TRƯỚC KHI ĐỌC
Là người đẹp nghiêng nước nghiêng thành.
2. CÂU HỎI ĐỌC VĂN BẢN
Câu 1: Chàng Tú Uyên trong đoạn này rất si tình.
Câu 2: Trước nàng tiên Giáng Kiều làm phép thì khung cảnh cô đơn. Sau khi nàng tiên Giáng Kiều xuống thì khung cảnh trở nên vui vẻ, đông đúc nhộn nhịp.
3. CÂU HỎI SAU KHI ĐỌC
Câu 1: Theo mô hình gặp gỡ( hội ngộ) - Tai viến ( Lưu lạc) - Đoàn tụ ( Đoàn viên)
Câu 2: Đó là chi tiết Tú Uyên định tự tử nhưng Giáng Kiều hiện ra và tha thứ cho Tú Uyên.
Câu 3:
- Tú Uyên mặc dù thường cùng các bạn đi viếng những danh lam thắng cảnh nhưng lại tỏ ra không tin là có thần tiên.
- Giáng Kiều là người có tầm lòng bao dung, tha thứ.
Câu 4: Tình cảm của hai người đã là nhân duyên tiền kiếp, tính cảm của Giáng Kiều trước sau như một với Tú Uyên.
Câu 5:
- Xuất xứ của truyện thơ Bích Câu kì ngộ là các sự tích
- Truyện viết bằng thể thơ lục bát diễn lại một sự tích lịch sử lưu truyền trong dân gian nước Việt.
Câu 6: Cần biết trân trọng những thứ có hiện tại.
Bài tập sáng tạo
Chàng tưởng có người nào đó ở trên lầu cao ném xuống rồi nấp vào một chỗ. Nhưng ngước nhìn mọi nơi, chẳng thấy gì cả. Đương lúc ngơ ngác, Tú Uyên bỗng thấy một đám người từ trong chùa đi ra, trong đó có một cô gái rất đẹp. Thấy nàng liếc mắt nhìn, chàng lại bắt chuyện. Hai người vừa đi vừa chuyện trò vui vẻ. Lòng Tú Uyên như nở hoa. Nhưng khi sắp đến đình Quảng Văn thì người con gái bỗng nhiên biến mất. Tú Uyên đứng ngẩn ra rất lâu, mãi đến tối mới trở về nhà.
Từ đấy, Tú Uyên đêm mơ ngày tưởng, không thiết gì ăn uống, học hành. Nghe tin đền Bạch Mã rất thiêng, chàng đến xin quẻ, rồi ngủ đêm tại đền cầu mộng.
Hôm sau, chàng y hẹn đến cầu Đông. Đợi mãi mới gặp một ông già bán tranh, đưa tới mời chàng mua một bức tố nữ. Chàng mở ra xem thì hình dạng người tố nữ trong tranh chẳng khác gì người mà mình mong đợi. Chàng mua ngay, đem về treo bên cạnh chỗ ngồi. Đến bữa ăn chàng dọn ra hai đôi đũa, hai cái bát mời người đẹp trong tranh cùng ăn như mời người thật. Chàng hơi ngạc nhiên, cảm thấy tố nữ trong tranh hai má đỏ bừng như có ý thẹn.
Một hôm, Tú Uyên đi học về thì thấy giữa giường đã sẵn sàng một mâm cơm có thức ăn ngon, khác với cơm rau thường ngày. Tuy chưa hiểu có ai cho, nhưng đói bụng, chàng cũng ngồi vào ăn. Tiếp mấy hôm sau, mâm cơm đều dọn như thế. Chàng nửa ngờ nửa mừng không hiểu ra làm sao.
Hôm khác, chàng giả tảng đi học, nửa đường lộn về, nấp ngoài cửa sổ dòm vào. Chàng thấy người đẹp trong tranh bước ra dọn dẹp nhà cửa và xuống bếp làm cơm. Chàng đột ngột xô cửa bước vào, nắm chặt tay nàng mà rằng:
- Để tôi bấy lâu trông đợi mòn mỏi con mắt! Thôi, bây giờ nhất định không cho nàng ra khỏi đây đâu.
Rồi nàng cho biết tên mình là Giáng Kiều, vốn có duyên nợ với chàng nên được xuống trần cùng kết làm đôi lứa. Tú Uyên tưởng không có gì sung sướng hơn thế nữa. Chàng giơ tay lên trời thề bồi. Hai người chuyện trò hồi lâu.
Nhưng từ ngày được vợ đẹp, Tú Uyên không buồn giở đến sách nữa. Suốt ngày chàng ở bên vợ và đặc biệt một điều là chàng thích uống rượu và ăn ngon. Giáng Kiều khuyên can mãi nhưng Tú Uyên vẫn chứng nào tật ấy. Ba năm trôi qua, chàng không lai vãng đến học hành. Dần dà trở nên nghiện rượu. Đã uống là uống đến say. Khi say không còn biết trời đất là gì. Thậm chí nhiều lần mắng chửi vợ.
Giáng Kiều giận lắm. Một hôm chồng từ tửu quán khật khưỡng bước về nhà, nàng vực vào giường, rồi nhân lúc chồng ngủ thiếp đi, nàng bay về trời.
Tỉnh rượu, Tú Uyên không thấy vợ đâu, rất lấy làm hối hận. Suốt một tháng, chàng bỏ ăn bỏ ngủ, kêu khóc thảm thiết. Bạn bè hết lời khuyên dỗ nhưng chàng không sao giảm được ưu sầu. Giận thân, chàng chỉ muốn tự vẫn cho xong đời. Nhưng khăn vừa vắt lên xà thì bỗng có trận gió thoảng đưa mùi hương đến. Giáng Kiều đã hiện ra trước mặt. Chàng vừa mừng vừa thẹn, thề xin trừ hẳn rượu. Từ đó, hai vợ chồng lại vui vẻ như xưa.
Chẳng bao lâu, Giáng Kiều sinh được một bé trai. Đứa bé lớn lên rất thông minh, học ngày một giỏi.
Một đêm nọ, bỗng có hai con hạc đến đón ở sân. Hai vợ chồng dặn con ở lại rồi cưỡi hạc bay lên trời. Kể từ đó, trong dân gian lưu truyền câu chuyện về sự tích Tú Uyên – Giáng Kiều.
-> Đoạn trích thì lời nói sống động, ngôn từ trữ tình thể hiện được sự ẩn dụ nhưng người đọc khó hiểu và theo dõi văn bản còn đoạn diễn xuôi có thể hiểu dễ dàng hơn, dễ theo dõi nội dung hơn tuy nhiên thì lời nói không được trau chuốt bằng đoạn trích.