[toc:ul]
Dàn ý
1. Mở bài
2. Thân bài
⇒ Chàng thì ra nơi chiến trận hiểm nguy, thiếp trở về với tổ ấm hạnh phúc cô đơn, từ đó, nhấn mạnh sự xa cách khắc nghiệt và hiện thực chia li phũ phàng
⇒ Bốn câu thơ đầu vẽ nên không gian rộng lớn, vô cùng, vô tận gộ nỗi buồn chia li, nỗi xót xa cô đơn khi hạnh phúc bị chia cắt
⇒ Trong bốn câu thơ này, nỗi buồn được tô đậm thêm, nỗi buồn chia li đã trở thành nỗi sầu muộn dai dẳng.
⇒ Nỗi buồn biệt lí đã trở thành một nỗi sầu thương nặng trĩu trong tâm hồn người chinh phụ. Sự cách ngăn đã hoàn toàn mất hút vào ngàn dâu xanh tăng thêm không gian rộng, dài, đơn điệu và nỗi xót xa, chia lìa.
3. Kết bài
Bài làm
Chinh phụ ngâm khúc là khúc ngâm của người phụ nữ có chồng ra trận. Cả một khúc ngâm dài như thế mà mỗi dòng thơ đều ánh lên vẻ đẹp kì ảo của ngôn từ. Vẻ đẹp ấy đã lấp lánh toả ánh hào quang suốt mấy trăm năm.
Đoạn trích Sau phút chia li được coi là đoạn thơ tiêu biếu nhất của tác phẩm. Có thể nói, đoạn thơ thể hiện nghệ thuật ngôn từ điêu luyện bậc nhất trong lịch sử thi ca Việt Nam xưa nay.
Ta hãy đọc lại đoạn thơ một lần đế có cái nhìn khái quát về nghệ thuật ngôn từ của nó:
Chàng thì đi cõi xa mưa gió
Thiếp thì về buồng cũ chiếu chăn
Đoái trông theo đã cách ngăn
Tuôn màu mây biếc trải ngàn núi xanh.
Chốn Hàm Dương chàng còn ngoảnh lại
Bến Tiêu Tương thiếp hãy trông sang
Khói Tiêu Tương cách Hàm Đương
Cây Hàm Dương cách Tiêu Tương mấy trùng.
Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy
Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu
Ngàn dâu xanh ngắt một màu
Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai?
Để diễn tả nỗi sầu bi thương dằng dặc của người chinh phụ, tác giả đã chọn thể thơ song thất lục bát có nhạc tính rất phong phú. Cần phải có hình thức ấy, tình cảm ấy mới có thể mang hình thức một đợt sóng đi lên với hai câu thất, dừng lại ở câu lục ngắn gọn để toả ra trong câu bát dài nhất, rồi lại vươn lên trong một khổ mới, cứ thế đạt sóng tình cảm lên xuống ăn khớp với hình thức của ngôn ngữ (Phan Ngọc).
Tuy nhiên, chỉ thể thơ thôi chưa đủ để làm nên một kiệt tác. Chỉ có dưới ngòi bút tài hoa điêu luyện của người nghệ sĩ đã rất công dụng mài giũa ngôn từ mới làm nên giá trị đó.
Đoạn trích gồm ba khổ thơ tương đương với ba đợt sóng sầu thương của người chinh phụ.
Ngay ở khổ thơ đầu tiên, ta đã ngỡ ngàng trước sự tinh tế đến không ngờ của thi nhân:
Chàng thì đi cõi xa mưa gió
Thiếp thì về buồng cũ chiếu chăn
Đoái trông theo đã cách ngăn
Tuôn màu mây biếc trải ngàn núi xanh.
Mở đầu khổ thơ là một hình ảnh tương phản: Chàng thì đi cõi xa mưa gió - Thiếp thì về buồng cũ chiếu chăn đã tạo ngay được sự rung cảm của người đọc. Chàng thì đi - Thiếp thì về nghe sao nặng nề như chính tâm trạng nặng nề của cảnh chia li đau xót. Thêm vào đó là những từ ngữ cõi xa mưa gió - buồng cũ chiếu chăn đã gợi ra những cảnh tượng bi thương với bao cảm xúc và nỗi niềm. Chàng thì đi vào cõi xa vất vả, thiếp thì về với cảnh vò võ cô đơn. Sự cách ngăn đã là sự thật khắc nghiệt và nỗi sầu chia li nặng nề tưởng như đã bao trùm cả đất trời, cảnh vật. Để diễn tả cái mênh mông, cái tầm vũ trụ của nỗi sầu chia li, tác giả hạ tiếp một câu với những từ ngữ, hình ảnh thật gợi cảm: Tuôn màu mây biếc trải ngàn núi xanh.
Sang khổ thơ thứ hai, vẫn là những thủ pháp như khổ một mà người đọc không thấy nhàm chán, trái lại càng thấy hứng thú hơn. Hình ảnh đối Chàng còn ngoảnh lại - Thiếp hãy trông sang như chính cái nỗi oái oăm nghịch chướng của cảnh chia li. Đôi vợ chồng trẻ đâu có muốn xa nhau, cho nên hình bóng thân thương của người thân đã xa cách dằng dặc mà ánh mắt vẫn đau đáu dõi trông. Hình ảnh Chàng còn ngoảnh lại- Thiếp hãy trông sang được cộng hưởng thêm bởi những điệp ngữ rất độc đáo vô hình chung đã đưa nỗi sầu chia li đến độ tăng trưởng khôn cùng. Hình ảnh Chốn Hàm Dương- Bến Tiêu Tương là những hình ảnh ước lệ của văn chương cổ điển về khoảng cách không gian. Khoảng cách không gian ấy được điệp lại hai lần Chốn Hàm Dương - Bến Tiêu Tương, khói Tiêu Tương - Cây Hàm Dương với một hình thức .Thuyền đối táo bạo của thi nhân về cách nói địa danh (Chốn Hàm Dương thành Cây Hàm Dương, Bến Tiêu Tương thành Khói Tiêu Tương) tạo ra một giá trị diễn đạt thật đặc sắc. Mây trùng không gian như chính mấy trùng cách ngăn đau đớn, xót xa của đôi chinh phu - chinh phụ.
Đến khố thơ thứ ba người đọc càng thêm ngỡ ngàng trước nghệ thuật ngôn từ ngày càng sắc sảo, điêu luyện của thi nhân. Sự xa cách đã lên đến đỉnh điểm. Người vợ trở về vò võ nỗi đau sầu muộn. Các câu thơ như những đợt sóng tâm tình lan xa, lan xa. Nỗi sầu chia ly của người vợ đã đọng thành khối, đè nặng trái tim nàng.
Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy
Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu
Ngàn dâu xanh ngắt một màu
Lòng chàng ý thiếp ai sâu hơn ai
Người ra đi - người ở lại. Ai cũng mang một nỗi buồn nhưng: lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai? Câu hỏi xoáy vao tâm can người đọc và làm cho nỗi sầu thương như kéo dài mien man không dứt.
Đoạn trích thể hiện nỗi khát khao hạnh phúc của người chinh phụ một cách mãnh liệt. Bất cứ ai khi đọc: Sau phút chia ly đều thấy cảm thông sâu sắc. Và chỉ có tấm lòng đầy ắp tình yêu thương của nhà thơ mới có thể chia sẻ và diễn tả tâm trạng đặc sấc và xúc động đến thế.
Bài làm
Trong văn học Việt Nam, nỗi sầu chia li đã được nhiều tác giả quan tâm và phản ánh. Nguyễn Dữ có những dòng về sự ngóng trông của người vợ có chồng đi chinh chiến: Ngày qua tháng lại, thoát đã nửa năm, mỗi khi thấy bướm lượn ngoài vườn, mây che kín núi, thì nỗi buồn góc bể chân trời không sao ngăn được. (Người con gái Nam Xương).
Đại thi hào Nguyễn Du cũng đã viết rất cảm động về sự chia tay đau buồn của đôi vợ chồng trẻ:
Người lên ngựa, kẻ chia bào
Dừng phong thu đã nhuốm màu quan san
Người về chiếc bóng năm canh
Kẻ đi muôn dặm một mình xa xôi
Vầng trăng ai xẻ làm đôi
Nửa in gối chiếc, nửa soi dặm trường.
(Truyện Kiều)
Nhưng có lẽ, chưa có nỗi sầu nào bi thương bằng nỗi sầu chia li của người chinh phụ được diễn tả trong Chinh phụ ngâm khúc.
Chinh phụ ngâm khúc là một sáng tác văn chương xuất hiện vào khoảng nửa đầu thế kỉ XVIII. Cả khúc ngâm là nỗi sầu nhớ thương vời vợi của người vợ có chồng ra trận. Nỗi sầu ấy đậm đặc ngay từ sau phút chia li:
Chàng thì đi cõi xa mưa gió
Thiếp thì về buồng cũ chiếu chăn
Đoái trông theo đã cách ngăn
Tuôn màu mây biếc, trải ngàn núi xanh.
Chốn Hàm Dương chàng còn ngoảnh lại
Bên Tiêu Tương thiếp hãy trông sang
Khói Tiêu Tương cách Hàm Dương
Cây Hàm Dương cách Tiêu Tương mấy trùng.
Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy
Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu
Ngàn dâu xanh ngất một màu
Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai?
Người chồng chia tay vợ lên đường chinh chiến (một cuộc chinh chiến vô nghĩa đối với họ), người vợ trở về một mình trong cô đơn, buồn tủi:
Chàng thì đi cõi xa mưa gió
Thiếp thì về buồng cũ chiếu chăn.
Chao ôi, có sự chia tay nào xót thương hơn thế, có sự ngăn cách nào khắc nghiệt hơn thế. Cả một nỗi sầu chia li nặng nề đă phủ lên khí trời, sắc núi:
Đoái trông theo đã cách ngăn
Tuôn màu mây biếc, trải ngàn núi xanh.
Sự đoái trông của người vợ trẻ thật tội nghiệp. Nàng muốn níu giữ lại mà hình bóng người chồng cứ xa dần, để rồi chỉ còn lại là không gian xa thẳm. Giữa khung cảnh tuôn màu mây biếc, trải ngàn núi xanh, người vợ càng trở nên lẻ loi, cô quạnh. Sự chia li từ chỗ mới chỉ là cách ngăn, chẳng mấy chốc đã tăng lên nhanh chóng cả về không gian và tâm trạng:
Chốn Hàm Dương chàng còn ngoảnh lại Bến Tiêu Tương thiếp hãy trông sang Khói Tiêu Tương cách Hàm Dương
Cây Hàm Dương cách Tiêu Tương mấy trùng.
Từ câu Chàng thì đi cõi xa - Thiếp thì về buồng cũ đến Chốn Hàm Dương - Bến Tiêu Tương rồi lại Khói Tiêu Tương - Cây Hàm Dương, thì sự ngăn cách đã lên đến mấy trùng, như mấy trùng nỗi nhớ thương sầu muộn trong lòng người chinh phụ.
Đối với bất kì ai, khi người thân của mình phải đi vào chốn cõi xa mưa gió (chốn binh đao khói lửa, nơi chiến trận thảm khốc), cũng đều có tâm trạng buồn đau thương nhớ. Ở người chinh phụ, nỗi buồn đau sầu muộn ấy còn thêm bội phần bởi cái tình chồng vợ đương độ đằm thắm gắn bó thiết tha (còn ngoảnh lại - hãy trông sang). Gắn bó mà không được gắn bó, gắn bó mà phải chia li. Thực là oái oăm và nghịch chướng. Thực là thương tâm và đau xót bởi cái cảnh người thì tận chốn Hàm Dương, kẻ thì mãi Bến Tiêu Tương.
Cái tên Hàm Dương - Tiêu Tương (dù là được dùng theo bút pháp ước lệ của văn chương cổ điển) vẫn còn là những địa danh để người vợ có ý niệm về độ xa cách, nhưng đến bốn câu thơ tiếp theo thì cả ý niệm ấy cũng không còn, sự xa cách đã đến cực độ:
Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy
Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu
Ngàn dâu xanh ngắt một màu
Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai?
Trong cảnh trời cao đất rộng, thăm thẳm mênh mông đến khôn cùng, nỗi sầu chia li của người vợ đã trở thành khối sầu, núi sầu chất chồng, đè nặng cả trái tim và tâm hồn nàng, để rồi sau đó sẽ theo nàng về chốn buồng cũ, đè nặng lên cuộc sống mòn mỏi ngóng trông đến hóa đá của nàng.
Tình cảm vợ chồng và nỗi khát khao hạnh phúc lứa đôi của người vợ trẻ thật mãnh liệt, nó làm lay động tâm thức bao thế hệ bạn đọc. Chỉ có tấm lòng đầy ắp tình yêu thương của nhà thơ mới có thể chia sẻ và diễn tả một cách xúc động đến thế.
Bài làm
Trong văn chương từ khúc Việt Nam, Chinh phụ ngâm khúc nổi lên như một viên kim cương óng ánh sắc màu. Cả bản nguyên tác chữ Hán của Đặng Trần Côn và bản diễn nôm của Đoàn Thị Điểm đều là những kiệt tác nghệ thuật bất hủ.
Chinh phụ ngâm khúc ra đời vào đầu thế kỉ XVIII, cái thời mà chiến tranh loạn lạc kéo dài dẫn đến bao cảnh chia li bi thương sâu thiết:
Chàng thì đi cõi xa mưa gió
Thiếp thì về buồng cũ chiếu chăn
Đoái trông theo đã cách ngăn
Tuôn màu mây biếc, trải ngàn núi xanh.
..........
Ngàn dâu xanh ngắt một màu
Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai?
(Sau phút chia li - Trích Chinh phụ ngâm khúc)
Mười hai câu song thất lục bát với giọng điệu lâm li, vừa bùi ngùi xót xa cho chính mình, vừa vời vợi nỗi sầu nhớ thương, đọc xong rồi cứ ám ảnh mãi. Người chinh phu và người chinh phụ còn trẻ tuổi, đang trong tình vợ chồng gắn bó yêu thương bỗng vì đâu mà ra nông nỗi:
Chàng thì đi cõi xa mưa gió
Thiếp thì về buồng cũ chiếu chăn.
Chàng thì đi - Thiếp thì về, hai hình ảnh tương phản nhau như hình sự ngăn cách nghiệt ngã. Dường như người vợ cũng cảm nhận thấm thía điều đó. Và nỗi sầu đã nhuốm cả không gian:
Tuôn màu mây biếc, trải ngàn núi xanh
Ngàn núi xanh đã chia cách họ mà tâm lòng nhớ thương vẫn cứ đau đáu dõi về nhau:
Chốn Hàm Dương chàng còn ngoảnh lại
Bến Tiêu Tương thiếp hãy trông sang
Từ Chốn Hàm Dương- Bến Tiêu Tương đến khói Tiêu Tương- Cây Hàm Dương thì sự xa cách đã lên đến mấy trùng, cũng như nỗi sầu đã dâng lên trùng trùng lớp lớp trong lòng người chinh phụ:
Khói Tiêu Tương cách Hàm Dương
Cây Hàm Dương cách Tiêu Tương mấy trùng
Càng dõi trông theo chồng, ước mong gặp mặt càng trở nên vô vọng. Còn đâu bóng dáng của người chồng thân yêu? Chỉ còn những ngàn dâu xanh xanh trải dài tít tắp đến tận chân trời như nỗi bi thương vô vọng không biết đến tận bao giờ:
Cùng trông mà lại cùng chẳng thấy
Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu
Ngàn dâu xanh ngắt một màu
Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai?
Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai? Câu nghi vấn như một nốt nhấn làm hằn sâu nỗi sầu chất chứa trong lòng người chinh phụ một khối sầu càng lắc càng đầy. Cả một khối sầu nặng trĩu trong lòng người vợ trẻ tội nghiệp và đè nặng tâm can người đọc. Trong câu thơ dường như có cả tiếng nấc nghẹn ngào uất ức của người vợ. Vì đâu mà dẫn đến nỗi sầu nghịch chướng, oái oăm này? Vì đâu mà người chinh phụ phải đi vào cõi xa mưa gió, còn người chinh phụ trở về buồng cũ chiếu chăn vò võ một mình? Chiến tranh thật là tàn nhẫn.
Nhà thơ không chỉ nhận thấy, mà còn nghe thấy cả tiếng lòng sâu thẳm của người vợ trẻ và thể hiện nó một cách chân thực qua những sáng tạo nghệ thuật tài hoa và điêu luyện. Chưa bao giờ có trong văn học Việt Nam, nỗi sầu chia li và tiếng lòng của người phụ nữ lại được thể hiện một cách sâu đậm đến thế.
Mười hai câu song thất lục bát trở thành tiếng nói chung cho cảnh biệt li của tất cả những cặp vợ chồng (Hoàng Xuân Hãn) và in dấu ấn trong tiềm thức của tất cả những ai yêu văn chương cổ điển Việt Nam.