Đề văn 7: Phát biểu cảm nghĩ về đoạn trích Nỗi oan hại chồng

Đề văn 7: Phát biểu cảm nghĩ về đoạn trích Nỗi oan hại chồng. Theo đó, Baivan gửi đến các bạn 3 dàn bài + bài văn mẫu để các bạn có thể tham khảo. Từ đó, giúp các bạn có những bài văn hay nhất cho riêng mình.

[toc:ul]

Bài mẫu 1: Phát biểu cảm nghĩ về đoạn trích Nỗi oan hại chồng

Đề văn 7: Phát biểu cảm nghĩ về đoạn trích Nỗi oan hại chồng

Dàn ý

1. Mở bài

  • Giới thiệu đoạn trích "Nỗi oan hại chồng" và khái quát nội dung

2. Thân bài

  • Khái quát về đoạn trích "Nỗi oan hại chồng"
  • Cảnh mở đầu đoạn trích
  • Khởi nguồn xung đột
    • Thái độ của Sùng bà
    • Thái độ của Thị Kính
    • Quyết định của Thị Kính
    • Thị Kính đi tu, nương nhờ cửa Phật, tuy không buông xuôi nhưng cam chịu, chưa dám đứng lên đấu tranh

3. Kết bài

  • Khái quát lại giá trị nội dung và nghệ thuật

Bài làm

Chèo là loại hình nghệ thuật tiêu biểu cho văn hóa nghệ thuật Việt Nam. Nhắc đến chèo, không thể không nhắc tới vở chèo "Quan âm Thị Kính". Đoạn trích "Nỗi oan hại chồng" có lẽ chính là phần đặc sắc nhất trong tác phẩm. "Nỗi oan hại chồng" đã diễn tả sinh động, cụ thể tình cảnh bi thảm bế tắc của Thị Kính, đồng thời cũng là của người phụ nữ trong xã hội phong kiến đương thời.

"Nỗi oan hại chồng" nằm ở phần mở đầu của "Quan âm Thị Kính". Đó là bi kịch đầu tiên trong cuộc đời Thị Kính - một nàng dâu ngoan hiền, nết na, thùy mị. Trong đoạn trích có 5 nhân vật, Thị Kính, Thiện Sĩ - chồng nàng, Sùng ông, Sùng bà là cha mẹ chồng nàng và Mãng ông - cha ruột của Thị Kính.

Mở đầu đoạn trích, tác giả tái hiện khung cảnh sinh hoạt đầm ấm của gia đình Thị Kính. Vốn là người vợ tần tảo, yêu thương chồng. Sau khi xong xuôi việc nhà, thấy chồng học bài thiếp đi, nàng ngồi quạt cho chồng ngủ. Bất ngờ thấy chiếc râu mọc ngược dưới cằm chồng, nàng lo lắng điềm chẳng lành nên lấy dao định cắt đi. Đúng lúc ấy, Thiện Sĩ tỉnh dậy. Thấy con dao trên tay vợ thì tâm chí rối bời, gọi mẹ ầm ĩ. Hành động đầy yêu thương săn sóc bỗng trở thành khởi nguồn của những bi kịch trong cuộc đời Thị Kính.

Sùng ông, Sùng bà nghe tiếng chạy lên. Chẳng cần hiểu rõ ngọn nguồn, Sùng bà đã ầm ĩ kêu to, sừng sộ khép cho Thị Kính tội giết chồng "Cái con mặt sứa gan lim này! Mày định giết con bà à?" Bao nhiêu lời lẽ đay nghiến chửi rủa liên tiếp hướng vào Thị Kính. Bà ta trắng trợn vu cho nàng những tội tày đình " Mày trót say hoa đắm nguyệt", "Gái say trai lập chí giết chồng", gieo rắc nỗi oan lên người Thị Kính.

Mặc cho Thị Kính kêu oan, bà ta vẫn hành động hết sức tàn nhẫn, thô bạo "dúi đầu Thị Kính xuống" rồi "bắt Thị Kính ngửa đầu lên".

Thị Kính càng kêu thì oan càng lớn, mụ không cho Thị Kính cơ hội thanh minh, giải thích. Mụ nhẫn tâm đuổi thẳng con dâu ra khỏi nhà. Không chỉ bởi sự vu oan Thị Kính giết chồng mà còn đay nghiến Thị Kính là người đàn bà hư đốn, xấu xa, không xứng với con trai mụ:

"Giống nhà bà đây giống phượng giống công
Còn tuồng bay mèo mả gà đồng lẳng lơ
Nhà bà đây cao môn lệnh tộc
Mày là con nhà cua ốc
Trứng rồng lại nở ra rồng
Liu điu lại nở ra dòng liu điu
Đồng nát thì về Cầu Nôm
Con gái nỏ mồm về ở với cha..."

Trong lời nói của Sùng bà, các tác giả dân gian đã khéo léo sử dụng nghệ thuật ẩn dụ đầy sinh động, tạo dựng một loạt hình ảnh sự vật trái ngược nhau. Từ đó nhấn mạnh sự tương phản, mâu thuẫn xung đột của câu chuyện. Sùng bà chửi rất nhiều song đều hướng tới tư tưởng phân chia giai cấp, phân biệt "cao - thấp", "giàu - nghèo". Lời nói của Sùng bà không chỉ thể hiện sự lạnh lùng, vô tình mà còn có sự khắc nghiệt, kiêu căng của tầng lớp địa chủ, vừa là sự căng thẳng không thể hóa giải trong quan hệ mẹ chồng và nàng dâu. Thị Kính tuy đầy đủ đức hạnh mà lễ giáo phong kiến quy định nhưng vì là con nhà nghèo, nên không được Sùng bà chấp nhận.

Mâu thuẫn giữa Sùng bà với Thị Kính, hay giữa gia đình Sùng bà với Thị Kính và cha nàng không chỉ là mâu thuẫn hôn nhân, gia đình. Nó còn phản ánh mâu thuẫn giai cấp gay gắt trong xã hội phong kiến đương thời. Sùng bà chính là đại diện cho giai cấp địa chủ tàn ác, khoe khoang, hợm của, độc đoán và tàn nhẫn. Không dừng lại ở đó, mụ là kẻ tạo ra "luật lệ" gia đình, thậm chí bắt cả chồng cả con phải nghe theo, phải nể sợ mình. Hình tượng Sùng bà hiện lên trong đoạn trích vô cùng sống động, gây nên nỗi ghê sợ, căm ghét sâu sắc cho người đọc, người xem

Đối lập hoàn toàn với nhân vật Sùng bà là nhân vật Thị Kính. Nàng là nhân vật chính vở chèo, cũng là đại diện cho người phụ nữ nông dân, bình thường, lương thiện. Dẫu có đức có hạnh nhưng số phận lại thảm thương, bất hạnh.

Trước nỗi oan mẹ chồng vu hãm, Thị Kính kêu oan năm lần. Bốn lần, nàng hướng về mẹ chồng và chồng để kêu oan: "Giời ơi ! Mẹ ơi, oan con lắm mẹ ơi", "Oan cho con lắm mẹ ơi"... "Oan thiếp lắm chàng ơi"... "Mẹ xét tình cho con, oan con lắm mẹ ơi!". Nhưng tất cả đều vô ích. Mỗi lần kêu oan là một lần thêm tội. Với Sùng bà, những lời ấy chỉ càng làm tăng thêm sự khinh ghét. Còn Thiện Sĩ chỉ là một người chồng đớn hèn, bạc nhược. Hắn bỏ mặc người vợ yêu thương, gắn bó, mặc kệ mẹ mình buông lời đay nghiến, mặc kệ mẹ mình vu cho nàng những nỗi oan vô lí. Khi Thị Kính cầu cứu "Oan thiếp lắm chàng ơi", Thiện Sĩ im lặng, giống như không chút tình cảm. Đến đây, có lẽ không ai ngăn nổi sự tức giận và xót thương Thị Kính. Một người vợ hiền dâu thảo, tần tảo, yêu thương chồng như thế chỉ vì vài câu không đầu không đuôi mà bị hàm oan, bị đuổi khỏi nhà.

Mãi đến lần thứ năm kêu oan với Mãng ông, cha của mình, người phụ nữ đáng thương ấy mới nhận được sự cảm thông. Dù chỉ là sự cảm thông trong khổ đau và bất lực. Càng về sau, cảnh ngộ của Thị Kính càng thê thảm. Hạnh phúc tan vỡ. Thị Kính vừa than vừa hờn trách:

"Trách lòng ai nỡ phụ lòng
Đang tay nỡ bẻ phím đồng làm đôi..."

Và rồi, trước cảnh ngộ ấy, nàng quyết định từ biệt gia đình, xuống tóc giả trai đi tu, đến nương nhờ nơi cửa Phật. Không buông xuôi, Thị Kính mong muốn sống nơi trong sạch linh thiêng để chứng minh sự trong sạch. Tuy vậy, chúng ta cũng thấy được trong đó sự cam chịu, nhẫn nhục của nàng trước số phận. Không từ bỏ nhưng cũng không đấu tranh. Thị Kính chưa đủ dũng cảm và bản lĩnh chống lại những oan trái bất công mà mình phải chịu đựng.

Có thể nói, qua đoạn trích "Nỗi oan hại chồng" và cả vở chèo "Quan âm Thị Kính", người đọc, người xem đã thấy được cuộc đời Thị Kính. Thấy được phẩm chất tốt đẹp và nỗi oan bi kịch của người phụ nữ trong xã hội phong kiến nói riêng, người lao động nói chung. Đồng thời lên án tầng lớp địa chủ phong kiến độc ác nhẫn tâm và nét nghệ thuật chèo nổi tiếng của dân tộc.

Bài mẫu 2: Phát biểu cảm nghĩ về đoạn trích Nỗi oan hại chồng

Đề văn 7: Phát biểu cảm nghĩ về đoạn trích Nỗi oan hại chồng

Bài làm

Trong những tác phẩm chèo cổ, thì vở “Quan âm Thị Kính” có sức sống khá lớn trong lòng người xem, bởi những nhân vật trong tác phẩm có tính cách vô cùng độc đáo. Trong đó, nhân vật Thị Kính khiến cho người xem cảm thấy xót xa, ám ảnh bởi những nỗi oan quá lớn mà người phụ nữ này phải gánh chịu trong cuộc sống của mình.

Trích đoạn “Nỗi oan hại chồng” kể về sự oan ức của Tiểu Kính Tâm khi cô là người phụ nữ yêu chồng, hiếu thuận với gia đình chồng nhưng lại bị nghi oan là có âm mưu giết hại chồng, khiến cô đau đớn như muốn chết đi.

Thị Kính là người phúc hậu, đoan trang. Cô hết sức chăm sóc cho gia đình chồng, một lòng chung thủy trước sau như một làm tròn bổn phận của người vợ, người dâu hiền trong gia đình quán xuyến công việc. Nhưng rồi một hôm khi chồng đang ngủ say, Thị Kinh thì ngồi thêu thùa đan áo cho chồng, nàng ngồi ngắm khuôn mặt chồng mình và giật mình có một sợi râu mọc ngược trông không mấy thẩm mỹ.

Nghĩ vậy Thị Kính liền lấy kéo để cắt giúp chồng nhưng không may đúng lúc đó chồng của Thị Kính tỉnh giấc nhìn thấy vợ cầm kéo định tiến về phía mình cho rằng vợ mình toan giết chồng . Nên anh chồng vô cùng giận dữ. Mọi hiểu lầm bắt đầu nỗi oan ức của Thị Kính cũng xuất phát từ đây. Nghe thấy con trai kêu thất thần thì bố mẹ chồng Thị Kính cũng chạy vào, nhìn thấy nàng cầm kéo, rồi lại nghe con trai nói là Thị Kính định giết mình thì lập tức tin lời không cần đối chất.

Mẹ chồng Thị Kính là người phụ nữ đanh đá, mồm miệng khá hoạt ngôn, bà ta thấy tình hình như vậy liền hô hoán cho người dân xung quanh, hàng xóm láng giềng nghe thấy rồi vu oan cho con dâu tội giết chồng. Nỗi oan của Thị Kính chồng chất lên nhau, khiến nàng sống cảnh tủi hổ, bị hắt hủi ghẻ lạnh. Bố mẹ chồng không tin nàng thì đành chịu, bởi ông bà không hiểu chuyện, hơn nữa mẹ chồng nàng dâu thường có bất hòa trong cuộc sống, hai người phụ nữ khi cùng làm hoàng hậu một gia đình thì thường xảy ra mâu thuẫn. Mối quan hệ mẹ chồng nàng dâu xưa nay vẫn thế. Nhưng người chồng đầu ấp má kề, người ngày ngày cùng chung chăn gối với Thị Kính mà cũng không hiểu bản chất, tâm địa nàng tốt hay xấu, thương chồng thật lòng hay không thì thật là khó hiểu. Một người chồng sống cùng vợ mỗi ngày mà không tin tưởng vợ, không bảo vệ vợ mà lại vu oan cho vợ có âm mưu giết mình rồi hô hoán bố mẹ khiến mọi chuyện trở nên bi kịch khó giải quyết hơn rất nhiều khi chỉ có hai người mà thôi.

Xã hội phong kiến là một xã hội trọng nam khinh nữ nên quyền lên tiếng của người phụ nữ dường như chỉ là không mà thôi. Sự oan ức của Thị Kính thật sự là vô cùng bi ai, người xem cảm thấy nhân vật chồng Thị Kính (Thiện Sĩ) có chút tàn nhẫn, vô tâm. Anh ta là người có học, ngày đêm dùi mài kinh sử nhưng lại không có trái tim nhân hậu, không có sự rộng lượng bao dung thấu hiểu tâm sự của người con gái sống bên cạnh mình, thờ ơ với nỗi oan của vợ. Thật sự đáng trách. Những mâu thuẫn của Thị Kính khi bị mẹ chồng thường kiếm cớ la mắng, bắt nạt đáng ra làm chồng anh ta phải lên tiếng can ngăn mẹ mình, hoặc hòa giải hai người nhưng anh ta yên lặng để cho mẹ mình hành hạ Thị Kính điều này cho ta thấy anh ta không thương yêu Thị Kính mà chỉ coi cô là người giúp việc trong gia đình thì đúng hơn. Số phận của Thị Kính bi kịch không phải từ nỗi oan ghi giết chồng, mà bắt đầu từ ngày cô được gả cho Thiện Sĩ làm vợ, lấy nhầm chồng là nỗi oan lớn nhất đời cô chính vì lấy nhầm chồng mà bi kịch đời cô liên tiếp xảy ra.

Đoạn trích là một đoạn trích nhiều kịch tính thể hiện sự oan khuất của Thị Kính khi sống trong gia đình chồng, nỗi oan thấu trời khiến cho cô không thể nói gì mà chỉ biết câm lặng. Số phận của Thị Kính là số phận chung của người phụ nữ xưa.

Bài mẫu 3: Phát biểu cảm nghĩ về đoạn trích Nỗi oan hại chồng

Đề văn 7: Phát biểu cảm nghĩ về đoạn trích Nỗi oan hại chồng

Bài làm

Việt Nam nổi tiếng với nhiều các thể loại văn hóa dân gian độc đáo, đặc trưng cho mỗi vùng miền trên đất nước, ví như vùng Nam Bộ có đờn ca tài tử ngọt ngào, Huế có điệu Nam ai, Nam bằng say đắm lòng người, xứ Nghệ Tĩnh có câu hò ví dặm, đất Bắc Ninh có dân ca quan họ đậm tình truyền thống, thì cả vùng Bắc Bộ lại có những thể loại ca kịch đã lưu truyền biết bao đời này ấy là cải lương, chèo, tuồng,... Tuy nhiên do sự phát triển mạnh mẽ của nền âm nhạc hiện đại, đến ngày hôm nay các thể loại này dẫu đặc sắc mang nhiều dấu ấn truyền thống của dân tộc thế nhưng cũng dần bị mai một. Trong đó nhắc đến chèo có lẽ vở Quan Âm Thị Kính đã từng in sâu trong trí óc của không ít người dân Việt Nam, trở thành vở kịch kinh điển của chèo Việt Nam và từng được diễn đi diễn lại rất nhiều lần trên các sân khấu lớn nhỏ khác nhau, thu về sự tán thưởng của khán giả bởi nội dung sâu sắc và ý nghĩa nhân văn tốt đẹp mà nó gửi gắm.

Vở Quan Âm Thị Kính có nguồn gốc từ một mẩu chuyện cổ tích cùng tên, chủ yếu xoay quanh trục bĩ cực - thái lai của kiếp nhân sinh, tập trung ca ngợi những phẩm chất tốt đẹp, tài năng đức độ để mọi người trông đó mà noi theo. Cảm thông với số phận người lao động, đặc biệt là người phụ nữ trong xã hội cũ, đề cao phẩm chất và tài năng của họ. Đồng thời cũng lên án, tố cáo, đả kích một cách mạnh mẽ những oan trái, bất công và con người cường quyền xấu xa trong xã hội cũ. Quan Âm Thị Kính là câu chuyện kể về Thị Kính một người phụ nữ tài sắc vẹn toàn, nhưng lại có xuất thân bần hàn, được gả vào nhà phú ông giàu có, rồi bị vu tội giết chồng. Sau giả trai đi tu những tưởng đã thoát được nợ hồng trần thì lại vướng vào mối oan nghiệt với Thị Mầu, bị vu tội làm Thị Mầu chửa hoang, rồi bị đuổi khỏi chùa. Thị Kính lại tiếp tục nuôi con của Thị Mầu, cho đến khi chết thì được lên tòa sen trở thành Quan Thế m bởi tấm lòng đức độ, hy sinh, để tạo phúc cho muôn dân.

Đoạn trích Nỗi oan hại chồng, là phần đầu tiên của tác phẩm kể về việc Thị Kính bị đổ oan giết chồng, rồi bị nhục mạ, xúc phạm và đuổi về nhà mẹ đẻ trong nỗi đớn đau tủi nhục, có oan khuất mà kêu trời trời không thấu, kêu đất đất không nghe. Trước hết nói về nhân vật Thị Kính, nhân vật chính của tác phẩm, trước hết chưa nói đến ngoại hình thế nhưng ta đã thấy hiện lên Thị Kính là một người phụ nữ tỉ mỉ, săn sóc và hết mực yêu thương chồng con. Sự tỉ mỉ ta có thể thấy ở việc nàng cẩn thận ngắm dung nhan chồng, rồi chợt phát hiện ra một sợi râu nhỏ mọc ngược, lòng săn sóc, yêu thương chồng là ở cách Thị Kính suy nghĩ cầm quạt quạt cho chồng an giấc, lại cẩn thận suy nghĩ đến thể diện của chồng với chiếc râu mọc ngược (vốn cái gì ngược ngạo cũng dễ cản trở cuộc sống). Và đặc biệt tình yêu thương ấy được thể hiện rất rõ nét trong câu hát của nàng rằng "Dạ thương chồng lòng thiếp sao an". Tuy nhiên tình yêu, sự một lòng ấy của nàng lại trở thành tai vạ, đôi lúc thiết nghĩ Thị Kính vì quá thương chồng thành ra nghĩ chẳng chu toàn, lại mất đi cái cẩn thận. Phải chăng nàng đợi chồng dậy rồi nói về chiếc râu, rồi với cắt thì có lẽ tình cảm vợ chồng lại càng trở nên khăng khít chứ chẳng đến nỗi. u cũng phải nói rằng sự chịu đựng, hy sinh âm thầm của người phụ nữ xưa đôi lúc đã trở thành cái cớ khiến họ khổ sở cả một đời. Đến khi bị vu tội giết chồng, thì Thị Kính lại tỏ rõ là một người phụ nữ yếu đuối, tội nghiệp, nàng cũng từng nhiều lần mở miệng thanh minh với cha mẹ chồng và với chồng, thế nhưng đáng thương cho kiếp đàn bà, lại còn là kiếp nghèo khó thế nên người ta cứ mặc nhiên là nàng âm mưu giết chồng vì trót có lang chạ với ai. Như vậy, ngay trong trích đoạn này ta đã thấy được thông qua lời buộc tội của Sùng bà, thì Thị Kính đã phải gánh trên lưng hai nỗi oan khuất, thứ nhất là giết chồng, thứ hai ấy là tội bất trung, bất trinh, lén lút tư tình với kẻ khác. Mà đối với người phụ nữ ngày xưa, vướng phải hai tội ấy thì coi như thanh danh cả đời đem bỏ, phải chịu bị người đời phỉ nhổ, cuộc đời về sau coi như hết. Đến cao trào của phần Nỗi oan hại chồng ấy là cảnh Sùng ông gọi Mãng ông đến, nói kháy và đuổi trả Thị Kính về nhà mẹ đẻ. Lúc này đây Thị Kính đứng trước viễn cảnh vô cùng đớn đau, bị nhà chồng ruồng bỏ lại phải gánh trên lưng hai nỗi oan khó lòng hóa giải, khiến nàng vô cùng đau khổ. Trước là đau xót nối duyên vợ chồng mới bén chưa lâu đã đứt gánh giữa đường, sau là nhìn đến tương lai cuộc đời nếu có trở về nhà thì cũng phải gánh điều tiếng xấu xa cả đời. Thị Kính với tấm lòng hiếu thảo, thương xót cha mẹ, không muốn để cha mẹ trở thành nơi cho người ta bàn ra tán vào, tuổi già lại còn phải chịu uất ức, một phần là nàng muốn lánh đi để quên hết sự đời. Thế nên ngay lúc trên đường trở về nhà cùng Mãng ông nàng đã giãi bày với cha xin được giả thân trai lên chùa đi tu, chấm dứt hết mọi đau khổ. Điều đó thể hiện sự tuyệt vọng và chán chường của Thị Kính với cuộc đời, với người chồng mình hết lòng thương yêu, thế nhưng trong suốt buổi chàng ta đã chẳng hề lên một tiếng thanh minh cho mình. Bên cạnh đó cách xử sự của Thị Kính cũng là biểu hiện của sự bất lực, đớn đau của người phụ nữ dưới chế độ phong kiến quá hà khắc, nơi mà người quyền thế giàu sang trở thành kẻ định đoạt số phận cuộc đời của những kẻ nghèo hèn bằng những lý do, những suy luận trái khuấy oan nghiệt.

Nhân vật thứ hai có đóng góp vô cùng quan trọng, đóng vai trò đẩy vở kịch lên cao trào đó chính là Sùng bà, nhân vật mụ ác tiêu biểu trong thể loại chèo. Trong Nỗi oan hại chồng, Sùng bà chính là nhân vật có nhiều thoại nhiều cảnh hát và nói lệch nhất, có thể nói đây chính là nhân vật tiêu biểu cho giai cấp thống trị trong xã hội cũ. Sùng bà hiện lên với dáng vẻ độc ác, cay nghiệt vô cùng, lời thoại nhiều và dài, thậm chí liên tục cắt lời minh oan của nhân vật Thị Kính. Khi mới nghe con trai là Thiện sĩ tố Thị Kính toan giết mình, Sùng bà đã lập tức tin ngay và mặc định đó là sự thật không thể chối cãi, sự ghê gớm độc ác thể hiện qua việc bà ta quay sang gắt và trách móc chồng việc chọn dâu con, thứ hai nữa là hành động đẩy ngã Thị Kính đang đứng ở một bên rồi liên tục dùng lời lẽ nhiếc móc. Trong lời lẽ cay nghiệt của nhân vật này ta có thể nhận ra rất rõ sự phân biệt tầng lớp, giàu nghèo sâu sắc, đem về nhà mình là giống phượng, giống công, trái lại ví Thị Kính là dòng mèo mả gà đồng không ra gì. Không chỉ vậy sự độc ác của Sùng bà còn thể hiện ở những lời lẽ đay nghiến, bịa chuyện vu oan cho Thị Kính tằng tịu với trai, cho rằng nàng giết chồng để thuận việc chăng hoa mặc dầu điều đó là không hề có. Bên cạnh đó ta thấy rằng lời lẽ của nhân vật này không tầm thường, chuyên lấy chuyện ví von so sánh để làm câu chữ cho mình ra sức nhiếc móc Thị Kính, khiến Thị Kính không thể minh oan, cũng không thể nào giải thích. Và cuối cùng Sùng bà đã đưa vở kịch lên cao trào bằng việc lệnh cho chồng gọi Mãng ông để trả Thị Kính trở về nhà mẹ với hai tội giết chồng và lăng loàn.

Những nhân vật phụ khác góp phần làm cho vở chèo thêm sống động và nhiều màu sắc bao gồm Thiện Sĩ, nhân vật thư sinh điển hình, là chồng của Thị Kính, chỉ có thoại trong phần mở đầu. Thông qua đó ta có nhận xét rằng đây là một nhân vật có tính cách nhu nhược, thiếu sáng suốt, không có tiếng nói trong gia đình, rõ ràng đã chung sống với Thị Kính lau thế nhưng vẫn không rõ tính cách của vợ, lại đi cho rằng vợ giết mình. Không chỉ vậy khi thấy vợ kêu oan cũng không nảy lòng ngờ mà xem xét lại sự tình, chỉ một mực im lặng, để cho Sùng bà tự biên tự diễn, cuối cùng mặc cho vợ mình bị đuổi ra khỏi nhà. Nhân vật thứ hai chính là Sùng ông, đây là một người cũng có tính cách giống Thiện Sĩ, nhu nhược, sợ vợ, không có quyền quyết định, lại tối ngày lơ mơ trong rượu chè cờ bạc, chẳng được tích sự gì, và cũng dễ dàng bị Sùng bà dắt mũi. Cuối cùng là nhân vật Mãng ông, cha của Thị Kính là một người nông dân tội nghiệp, chân chất, thật thà và nghèo khổ. Tuy nghe Thị Kính bị vu tội giết người, lăng loàn và bị đuổi ra khỏi nhà, thế nhưng nghe con gái kêu oan ông đã tin tưởng và có ý dẫn con về nhà, từ đó có thể thấy đây là một nhân vật có tấm lòng thương con vô hạn, dẫu có xảy ra chuyện gì cũng vẫn muốn bảo bọc cho con gái mình.

Như vậy kết lại, Quan Âm Thị Kính nói chung cũng trích đoạn Nỗi oan hại chồng nói riêng là vở diễn và trích đoạn chèo rất tiêu biểu trong sân khấu chèo truyền thống, trở thành dấu ấn đặc sắc trong nền văn hóa nghệ thuật dân gian của Việt Nam ta. Nó không chỉ thể hiện được vẻ đẹp phẩm chất của người phụ nữ, mà còn là nỗi đau đớn về số phận éo le và bế tắc của họ trong cuộc sống gia đình, trong hôn nhân và trong xã hội phong kiến quá đỗi hà khắc. Đồng thời cũng lên án, phê phán sâu sắc những cái ác, cái oan nghiệt trong xã hội cũ dẫn tới bi kịch của người phụ nữ.

Tìm kiếm google:

Xem thêm các môn học

Bài văn mẫu 7


Đia chỉ: Tòa nhà TH Office, 90 Khuất Duy Tiến, Thanh Xuân, Hà Nội
Điện thoại hỗ trợ: Fidutech - click vào đây
Chúng tôi trên Yotube
Cùng hệ thống: baivan.net - Kenhgiaovien.com - tech12h.com