[toc:ul]
Dàn ý
1. Mở bài
2. Thân bài
=> Lời thông báo, tổng kết về chiến thắng cô đọng, hàm súc, đó cũng chính là bài ca của lòng yêu nước được thử thách trong khói lửa chiến tranh
=> Ý thơ hào hùng, biểu hiện của lòng yêu quê hương đất nước, khát vọng cao cả, trí tuệ, sự sáng suốt của vị tướng tài ba
=> Bộc lộ niềm tin mãnh liệt vào ngày mai tươi sáng
3. Kết bài
Bài làm
Ra đời trong máu lửa của cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại, thơ văn thời Trần thấm đẫm tinh thần yêu nước và tự hào dân tộc. Bài thơ Phò giá về kinh (Tụng giá hoàn kinh sư) của Trần Quang Khải là một hồn thơ như thế.
Chủ nghĩa yêu nước thời Trần được kết tinh từ ý chí quyết chiến, quyết thắng giặc thù, từ bản lĩnh và khí phách hiên ngang lẫm liệt trong cuộc đọ sức với quân thù. Cuộc đụng đầu lịch sử quyết liệt giữa , một bên là một dân tộc đại diện cho chính nghĩa với một bên là một đạo quân xâm lược hung hãn mà vó ngựa của chúng đi tới đâu là gieo rắc kinh hoàng đến đó, diễn ra vô cùng quyết liệt. Từ thế yếu, với tài trí thao lược, dân tộc ta đã chuyển sang thế thắng:
Chương Dương cướp giáo giặc
Hàm Tử bắt quân thù
Còn nhớ mới ngày nào ta còn tạm nhường kinh thành Thăng Long cho giặc, mà nay đã ở vào tư thế của người chiến thắng, đạp trên đầu thù mà xốc tới (cướp giáo giặc, bắt quân thù). Thật là những tinh thần quả cảm vô song. Song, nhìn từ góc độ câu thơ nguyên tác, ta mới thấy hết được dũng khí của tướng sĩ nhà Trần. Mặt đối mặt với một kẻ thù hung dữ và thiện chiến mà cứ bình thản, bình tĩnh như không (đoạt sáo, cầm Hồ). Thật đáng cảm phục. Chưa bao giờ mà chủ nghĩa anh hùng Đại Việt lại ngời sáng đến thế.
Từ câu thơ của Trần Tuấn Khải, ta còn nhìn thấy hình ảnh cả một đạo quân xâm lược mất hết ý chí chiến đấu, để cho tướng sĩ nhà Trần tước vũ khí và bắt trói dễ dàng như bắt lợn, bắt dê. Thật là thảm bại và nhục nhã.
Nhắc lại hai chiến công chói lọi mà bản thân mình đã góp phần trong đó, trong lòng vị thượng tướng của chúng ta vừa hả hê, vừa tự hào. Niềm tự hào chân chính của một dân tộc vì chính nghĩa mà chiến thắng.
Nếu như ở hai câu thơ đầu, chủ nghĩa yêu nước Đại Việt được thể hiện ở việc phát huy chủ nghĩa anh hùng trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù, bảo vệ Tổ quốc, thì ở hai câu thơ cuối, chủ nghĩa yêu nước lại mang một nội dung mới đầy tính nhân văn. Đó chính là niềm mong mỏi, khát khao mãnh liệt về một nền thái bình thịnh trị muôn thuở cho đất nước, cho nhân dân:
Thái bình nên gắng sức
Non nước ấy nghìn thu
Với những công lao lớn, lại là một vương thân hoàng thích dòng dõi Tôn thất nhà Trần, Trần Quang Khải có quyền được nghỉ ngơi để an hưởng vinh hoa phú quý sau những ngày gian lao xông pha nơi trận mạc. Nhưng, ngay trên đường về lại kinh đô, giáp binh còn vương khói lửa chiến tranh, vị tướng ấy đã có tấm lòng hướng tới trăm dân muôn họ. Ở đây yêu nước đã gắn với yêu dân, mong cho dân được an hưởng thái bình hạnh phúc, tránh xa được vòng binh đao loạn lạc. Tình cảm yêu nước của Trần Quang Khải mang đậm dấu ấn thời đại và còn đi xa hơn thế.
Sau này, gần hai thế kỉ sau, Nguyễn Trãi lại một lần nữa nhấn mạnh thêm và nâng nó lên một tầm cao lí tưởng:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo
(Bình Ngô đại cáo)
Chao ôi, tấm lòng của người xưa đến hôm nay ta vẫn thấy rưng rưng.
Bài làm
Trần Quang Khải là một vị tướng tài hoa, được người đời sau ngợi ca là "văn võ song toàn". Ông không chỉ có công lớn trong công cuộc đánh đuổi quân Mông Nguyên khi chúng xâm lược Đại Việt, mà còn là một nhà thơ với những bài thơ đặc sắc. Nhà nghiên cứu Phan Huy Chú nhận xét rằng thơ của Trần Quang Khải rất "thanh thoát, nhàn nhã, sâu xa, lý thú". Bài thơ Phò giá về kinh (Tụng giá hoàn kinh sư) được ông viết vào khoảng năm 1285, sau khi kinh độ được giải phóng. Nội dung bài thơ đã bộc lộ một tinh thần yêu nước vô cùng cháy bỏng và chí khí lớn lao của một vị tướng tài:
Chương Dương cướp giáo giặc
Hàm Tử bắt quân thù.
Thái bình nên gắng sức
Non nước ấy nghìn thu
Tinh thần yêu nước vốn là một tình cảm đã trở thành truyền thống của con người Việt Nam, trải qua các thời đại, tinh thần yêu nước ấy ngày được bồi đắp và rèn giũa thêm thắm thiết. Thơ ca trung đại cũng ngợi ca truyền thống yêu nước với nhiều biểu hiện. Còn đối với tác giả Trần Quang Khải thì lòng yêu nước của ông thể hiện theo một cách rất riêng, và rất nồng cháy. Đó là niềm vui, niềm tự hào ngây ngất khi ông cất lên bài ca chiến thắng ở hai câu thơ đầu (theo nguyên tác):
Đoạt sáo Chương Dương độ
Cầm Hồ Hàm Tử quan
Trong suốt chiều dài của cuộc kháng chiến chống quân Mông Nguyên, Thượng tướng Trần Quang Khải đã nằm gai, nếm mật cùng tướng sĩ, đem xương máu mà giành lại độc lập cho non sông, bảo vệ giang sơn khỏi nanh vuốt của quân thù hùng mạnh. Tinh thần yêu nước trên chiến trường là tình cảm chân thành và mãnh liệt nhất. Để rồi, sức mạnh của lòng yêu nước và trí tuệ kiệt xuất đã được kết tụ thành chiến thắng "đoạt sáo" và "cầm Hồ". Hai cụm động từ mạnh mẽ, dứt khoát đã thể hiện rất rõ hào khí thời đại nhà Trần và thế chiến thắng như chẻ tre của quân ta. Nhạc điệu của thơ nhanh, dồn dập như mệnh lệnh trong quân đội, khiến ta thấy rõ được đặc trưng trong sáng tác và trong chiến đấu của tướng quân Trần Quang Khải, đánh giặc nhanh, chiến thắng nhanh, và lời thông báo chiến thắng cũng thật cô đọng và hàm súc. Tác giả còn liệt kê tên hai trận thắng, hai địa danh vinh quang đã in dấu ấn không phai trong lịch sử dân tộc. Lời thơ của Trần Quang Khải chính là lời tổng kết ngắn gọn về giai đoạn chiến thắng huy hoàng của quân dân ta. Đó cũng là bài ca của lòng yêu đất nước được thử thách trong khói lửa chiến tranh, nay rộn ràng cất lên để ngợi ca chiến thắng, báo công với toàn dân tộc.
Một nét đẹp khác của tinh thần yêu nước trong bài thơ Phò giá về kinh của Trần Quang Khải, ấy là khát vọng và cái nhìn hướng tới tương lại:
Thái bình nên gắng sức
Non nước ấy nghìn thu
Nếu như "đoạt" và "cầm" trong hai câu thơ đầu mang đậm hơi hướng của chiến tranh khốc liệt, một mất một còn với kẻ thù xâm lăng, thì hai câu thơ sau lại trở nên điềm đạm, với nhịp điệu khoan thai, như một lời nhắn nhủ với bản thân và với mọi người rằng: Sau khi chiến thắng giặc thù, chúng ta lại bắt tay ngay vào dựng xây cơ đồ, bồi đắp non sông để làm sao giang sơn gấp vóc vững bền mãi đến nghìn thu. Nhà thơ dùng từ "thái bình" thật đẹp, đó là mơ ước của bao người, khi kẻ thù xâm lược chiếm đoạt đất đai quê nhà. Nay mơ ước thái bình đã thành hiện thực, thì phải "tu trí lực" để làm cho "Vạn cổ thử giang san". Ý thơ hào hùng, không chỉ là biểu hiện của lòng yêu quê hương đất nước, mà còn hàm chứa trong đó khát vọng cao cả và trí thông minh, sự sáng suốt của một vị tướng được coi như tể tướng triều nhà Trần. Hai câu thơ sau cũng bộc lộ một niềm tin mãnh liệt vào ngày mai tươi sáng. Nó chuyển tải nhiệt huyết trong trái tim của Trần Quang Khải đến với những người đọc và cảm nhận ý thơ.
Bài thơ Phò giá về kinh chia làm hai phần khá rõ, vừa khác biệt, lại vừa thống nhất với nhau trong một mạch thơ hay: Hai dòng đầu là niềm vui chiến thắng, hai dòng sau là khát vọng dựng xây. Tất cả đều bắt nguồn từ tinh thần yêu nước vĩ đại của Trần Quang Khải và của tất cả tướng sĩ, nhân dân của thời đại nhà Trần.
Tóm lại, Phò giá về kinh là bài thơ vô cùng xuất sắc trong thơ cổ Việt Nam, qua đó, tác giả Trần Quang Khải đã gửi gắm lòng mình đến ngàn sau. Xây dựng để non sông bền vững ngàn năm là trách nhiệm và ước mơ của từng thế hệ. Thế hệ trẻ hôm nay càng thấm thía về ước mơ, khát vọng đó, để tiếp nối hào khí Đông A trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hôm nay.
Bài làm
Trong văn học trung đại Việt Nam, yêu nước là một đề tài lớn thu hút đông đảo các nhà văn, nhà thơ chắp bút. Dân tộc Việt Nam trải qua hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, trong quá trình đó dân tộc ta liên tiếp phải đối phó với những vó ngựa của kẻ xâm lược. Tuy nhiên, bằng sức mạnh của lòng đoàn kết, của tinh thần đấu tranh, lòng tự tôn dân tộc, thì nước ta đã vượt qua bao thăng trầm, khẳng định được nền độc lập như ngày nay. Cũng viết về tình yêu tha thiết đối với đất nước cùng sự tự hào đối với sức mạnh của dân tộc, Trần Quang Khải đã sáng tác bài thơ “Phò giá về kinh”. Đọc bài thơ ta sẽ cảm nhận được thấm thía, tình yêu cũng như sự tự hào to lớn này.
Bài thơ “Phò giá về kinh sư” được Trần Quang Khải sáng tác khi quân ta thu lại được kinh thành Thăng Long trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông lần thứ hai, lúc này tác giả đang nhận nhiệm vụ về Thiên Trường để bảo vệ, phò giá hai vị vua trở về kinh đô. Bài thơ này đã thể hiện được niềm tự hào to lớn về truyền thống chống giặc ngoại xâm của dân tộc ta cũng như sức mạnh chống xâm lược của toàn quân, đồng thời qua đó cũng thể hiện được niềm tin mãnh liệt vào vận mệnh vững bền của quốc gia, dân tộc.
“Đoạt sóc Chương Dương độ
Cầm Hồ Hàm Tử quan”
Dịch:
(Chương Dương cướp giáo giặc
Hàm Tử bắt quân thù)
Trong hai câu thơ đầu tiên, Trần Quang Khải đã gợi lại những chiến thắng hiển hách của dân tộc trong niềm tự hào. Đó chính là những chiến thắng ở Chương Dương và Hàm Tử, tuy đây không phải những chiến thắng lớn nhất, lừng lẫy nhất của quân ta nhưng đây lại là những chiến thắng cuối cùng, quyết định sự thắng lợi của quân ta. Nhà thơ nhớ lại những giây phút hân hoan, đầy tự hào đó “Chương Dương cướp giáo giặc”, nhà thơ dùng những động từ chỉ hành động để nói về những chiến thắng của quân ta. Tuy nhiên, ta có thể thấy, ở phần phiên âm, nhà thơ dùng từ “đoạt” mang nhiều ý nghĩa hơn ở phần dịch thơ “cướp”. Vì về sắc thái, từ “cướp” chỉ hành động không chính nghĩa, dùng sức mạnh để chiếm đoạt, như vậy sẽ làm mất đi sự hào hùng vốn có của câu thơ.
Từ “đoạt” vừa thể hiện được sự thắng lợi của quân ta với giặc khi đoạt được vũ khí – thứ mà chúng dùng để gây chiến tranh, gây ra đau khổ cho dân ta, mà còn thể hiện được tư thế, thái độ của người chiến thắng, quân ta đứng trên thế chủ động, dùng chính nghĩa mà đoạt đi giấc mộng bạo tàn, phi nghĩa của quân giặc. Hiểu như thế ta không chỉ thấy tính chính nghĩa của hành động mà còn thể hiện được tư thế của một dân tộc anh hùng, chính nghĩa. Ở của Hàm Tử cũng ghi dấu một trận chiến oai hùng, một chiến thắng thật đáng tự hào, đó là khi ta giành được thắng lợi cuối cùng, cái gian ác đã bị diệt trừ, nền độc lập được bảo vệ “bắt quân thù”.
“Thái bình tu trí lực
Vạn cổ cựu giang san”
Dịch:
(Thái bình nên gắng sức
Non nước ấy nghìn thu)
Nếu ở hai câu thơ đầu, Trần Quang Khải đã dẫn ra những chiến thắng để thể hiện lòng tự hào về truyền thống đấu tranh chống giặc ngoại xâm của dân tộc ta, thì ở hai câu thơ cuối này, nhà thơ lại hướng đến khẳng định sự vững bền của nền độc lập, của không khí thái bình cũng như tin tưởng tuyệt đối vào vận mệnh trường tồn của đất nước. “Thái bình nên gắng sức”, thái bình là không khí hòa bình, yên ả của đất nước sau khi đã giành được độc lập, đã đánh đuổi được lũ giặc ngoại xâm. Ở câu thơ này, tác giả thể hiện niềm tự hào song cũng là lời nhắc nhở đầy chân tình “nên gắng sức”. Bởi Việt Nam luôn là đối tượng xâm chiếm của những kẻ thù, tuy ta có sức mạnh có tinh thần đấu tranh mạnh mẽ chống giặc nhưng cũng không nên chủ quan, phải luôn gắng sức để duy trì không khí thái bình và đề cao sự cảnh giác đối với các thế lực bên ngoài. Nhà thơ còn thể hiện một niềm tin bất diệt đối với vận mệnh của đất nước, nhà thơ tin chắc rằng, khi toàn dân ta gắng sức cho nền độc lập, cho không khí thái bình ấy thì dân tộc ta sẽ không còn bị cản trở bởi bất cứ thế lực nào nữa, vận mệnh đất nước sẽ cứ vậy đi lên, cứ mãi vững bền “Non nước ấy nghìn thu”.
Như vậy, bài thơ “Phò giá về kinh” của Trần Quang Khải là một bài thơ đề cao sức mạnh của dân tộc Việt Nam trong công cuộc đấu tranh chống giặc ngoại xâm, tự hào về truyền thống anh hùng, truyền thống chính nghĩa ấy. Đồng thời, bài thơ cũng thể hiện được ý thức của bản thân nhà thơ đối với vận mệnh cũng như sự trường tồn của đất nước, không chỉ là ý thức cho mình, Trần Quang Khải còn đưa ra những lời khuyên chân thành đến với toàn thể nhân dân, những con người anh hùng của một dân tộc giàu truyền thống.