[toc:ul]
Bài tập 1: Trang 116 SGK Ngữ văn 10 tập 1
Chỉ ra điểm khác nhau giữa câu thơ đầu trong nguyên tác chữ Hán (qua phần dịch nghĩa) với câu thơ dịch. Có gì đáng lưu ý về không gian, thời gian trong đó con người xuất hiện? Con người ở đây mang tư thế, dáng vóc như thế nào?
Bài tập 2: Trang 116 SGK Ngữ văn 10 tập 1
Anh chị cảm nhận như thế nào về sức mạnh của quân dân nhà Trần qua câu thơ “Ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu"?
Bài tập 3: Trang 116 SGK Ngữ văn 10 tập 1
“Nợ” công danh mà tác giả nói tới trong bài thơ có thể hiểu theo nghĩa nào dưới đây:
Bài tập 4: Trang 116 SGK Ngữ văn 10 tập 1
Ý nghĩa của “nỗi thẹn” trong câu thơ cuối “Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ hầu”
Bài tập 5: Trang 116 SGK Ngữ văn 10 tập 1
Qua những lời thơ tỏ lòng anh (chị) thấy hình ảnh trang nam nhi đời Trần mang vẻ đẹp như thế nào? Điều đó có ý nghĩa như thế nào đối với tuổi trẻ hôm nay và ngày mai?
Phân tích bài thơ Tỏ lòng của Phạm Ngũ Lão
Giá trị nội dung và nghệ thuật trong Tỏ lòng (Thuật hoài) của Phạm Ngũ Lão
Bài tập 1: So với cách sử dụng của từ" hoành sóc", từ "múa giáo" chưa thể hiện được âm hưởng hào hùng trong nguyên tác. Từ "hoành sóc" là tư thế hiên ngang cầm ngang ngọn giáo đối mặt với kẻ thù bảo vệ đất nước.
Con người ở đây bao được bao trùm trong không gian rộng lớn của non sông, giang sơn, đất nước, mang tầm vóc vũ trụ. Chính không gian ấy mở ra khoảng thời gian trải dài vô tận "kháp kỉ thu".
Hình ảnh con người trở lên kì vĩ đến lạ thường, toát hết lên được tư thế hào hùng, mạnh mẽ ở con người.
Bài tập 2: Cảm nhận sức mạnh của quân dân nhà Trần
Hình ảnh " Ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu" có rất nhiều cách hiểu., " ba quân" là quân đội ngày xưa ,chia lính thành ba đội gồm tiền quân, trung quân, hậu quân. Ngoài ra chúng ta ở đây có thể hiểu hình ảnh " ba quân" chỉ quân đội hùng mạnh nhà Trần, tượng trưng cho sức mạnh của cả một dân tộc một đất nước. Hình ảnh vừa so sánh vừa cụ thể hóa sức mạnh quân đội nhà Trần bấy giờ tựa như hổ nuốt trôi trâu, mạnh mẽ , mang âm hưởng '' hào khí Đông A". Chính khí thế đó đã đem lại thắng lợi trước kẻ thù bảo vệ gìn giữ đất nước, giang sơn.
Bài tập 3: “Nợ” công danh mà tác giả nói tới trong bài thơ có thể hiểu theo cả hai nghĩa. " Nợ công danh" là món nợ mà người nam nhi luôn muốn trả hết cho đời Đã là nam nhi ai cũng muốn gắng sức mình thành đạt, cô gắng lập công để lại sự nghiệp, lập danh để lại tiếng thơm muôn đời để bản thân mình không phí hoài, không nuối tiếc, để cuộc đời mình thêm ý nghĩa cống hiến hết mình vì dân vì nước.
Bài tập 4: Ý nghĩa của “nỗi thẹn” trong câu thơ cuối “Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ hầu”
Từ " thẹn" có thể hiểu là vì chưa bằng Vũ Hầu ,chưa trả xong nợ nước, lại thêm khát vọng phụng sự nhà cho nhà Trần đến hết đời. Chính vì thế tác giả thấy hổ thẹn xấu hổ với bản thân mình.Từ đó ta thấy được vẻ đẹp tâm hồn, nhân cách, lí tưởng, khát vọng của tác giả - con người thời Trần.
Bài tập 5: Ý nghĩa đối với tuổi trẻ hôm nay và ngày mai:
- Bài thơ ca ngợi vẻ đẹp của con người thời đại nhà Trần, đặt trong tầm vóc lớn lao kỳ vĩ mang tầm vóc của vũ trụ rộng lớn. Ở họ mang một hoài bão lớn lao được cống hiến hết mình cho đất nước. Mỗi cá nhân họ đều mang cho mình ý thức tinh thần trách nhiệm cá nhân trong một tập thể chính vì thế họ đã tạo nên một nhà Trần hùng mạnh đánh đuổi tất cả giặc ngoại xâm có ý lam le xâm lước ta, tạo nên bài ca mang âm hưởng hào hùng, khí phách của cả một dân tộc, mang hào khí Đông A lưu danh sử sách.
- Ý nghĩa: thêm tự hào về lịch sử vẻ vang dân tộc,biết ơn cha ông đã cố gắng hết mình bảo vệ và xây dựng tổ quốc, thêm cho mình ý thức tinh thần trách nhiệm, ý thức cá nhân vần công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc, bảo vệ những gì mà cha ông ta đã gây dựng.
Phân tích bài thơ Tỏ lòng của Phạm Ngũ Lão
Nhận xét về Phạm Ngũ Lão, sách Đại việt sử ký toàn thư viết: “Ngũ Lão xuất thân trong hàng quân ngũ nhưng rất thích đọc sách, là người phóng khoáng, có chí lớn, thích ngâm thơ, tựa như không để ý đến việc võ binh. Nhưng quân ông chỉ huy, thực là đội quân phụ tử, hễ đánh là thắng”. Dường như trong những vần thơ của ông cũng mang theo lý tưởng, khát vọng được lập công danh với đời, điều đó đã được thể hiện thông qua tác phẩm “Tỏ lòng”.
Bài thơ Tỏ lòng khắc họa vẻ đẹp của con người có sức mạnh, có lí tưởng, khát vọng, nhân cách cao cả cùng khí thế hào hùng trong hào khí Đông A. Câu một đã mở ra cho chúng ta hình ảnh một vị tướng, một vị chỉ huy quân đội trấn giữ biên cương, sẵn sàng chiến đấu bảo vệ tổ quốc:
“Hoành sóc giang sơn kháp kỷ thu,
Tam quân tì hổ khí thôn ngưu.”
Dịch nghĩa:
Cầm ngang ngọn giáo gìn giữ non sông đã mấy thu,
Ba quân như hổ báo, khí thế hùng dũng làm lu mờ cả sao Ngưu
Trước hết độc giả thấy được hình ảnh của nhân vật trữ tình trong tư cách một trang nam nhi dày dạn trận mạc. Tư thế là tư thế của chiến binh: hoành sóc (cầm ngang ngọn giáo): tư thế ung dung đĩnh đạc, chủ động, hùng dũng, hiên ngang sẵn sàng chiến đấu bảo vệ tổ quốc. Đó là tư thế của con người sôi sục ý chí chiến đấu chống kẻ thù xâm lược. Hình ảnh vị tướng hùng dũng, tư thế hiên ngang với sứ mệnh cao cả là trấn giữ giang sơn, giữ yên bờ cõi. Đây là hình ảnh biểu trưng của tinh thần xông pha, của tư thế làm chủ chiến trường, của phong độ lẫm liệt hiên ngang giữa trời đất. Tầm vóc của chủ thể trữ tình này hiện lên là con người vũ trụ trong không gian vô cùng, thời gian vô tận. Từ ngưu trong câu thơ có hai nghĩa: con trâu và sao Ngưu. Nhưng có vẻ hình ảnh “ba quân khí thế át cả sao Ngưu” giàu chất thơ hơn. Người võ tướng với tư thế cầm ngang ngọn giáo, mà ngọn giáo ấy đựơc đo bằng chiều kích của giang sơn thì ắt hẳn khí thế của ba quân phải xung thiên làm mờ cả sao Ngưu chứ không nên hiểu một cách quá cụ thể: ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu sẽ làm giảm đi vẻ đẹp của câu thơ. Hai câu thơ hô ứng, quyện hòa, tôn cao nhau lên. Thủ pháp cường điệu, phóng đại đã thật sự dựng dậy được không khí đặc trưng của một thời kỳ lịch sử mà khi đó nhân vật trung tâm của đời sống đất nước là những con người phi thường với quyết tâm“Sát Thát”. Hai câu thơ đầu có giọng điệu khẳng định đanh thép ngợi ca chủ nghĩa anh hùng của quân đội nhà Trần và của dân tộc trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Mông - Nguyên. Có thể khẳng định, hai câu thơ đầu chính là niềm tự hào của tác giả về vị thế bản thân và sức mạnh quân đội.
Bài thơ không dừng lại ở việc phác dựng những đường nét lớn của bối cảnh cũng như dáng dấp của những chiến binh mà điều quan trọng hơn là nó cho ta thấy được hoài bão, hùng tâm tráng khí của nhân vật trữ tình.
“ Nam nhi vị liễu công danh trái”
Vào thời trung đại, trả nợ công danh là khát vọng, hoài bão, lẽ sống của hầu hết trang nam tử. Có hai con đường trả nợ công danh: dùi mài kinh sử để đỗ đạt làm quan hoặc xông pha trận mạc chiến đấu, lập công báo quốc. Điều này là do chịu sự ảnh hưởng của tư tưởng Nho gia. Với Phạm Ngũ Lão, ý thức được thời buổi loạn lạc, ông chọn cho mình con đường xông pha nơi chiến trường. Ông xem công danh là cái nợ mình còn vương. Chưa trả không có nghĩa là bất lực, bất tài không lập được chiến công mà chỉ là thời cơ chưa tới. Cái “nợ công danh” ấy, chỉ cần cơ hội đến, ông sẽ sẵn sàng chặt đứt. Thông qua ý thức trả nợ công danh hiện lên khát vọng cháy bỏng, mãnh liệt của đáng nam nhi một lòng muốn báo đền nợ nước.
“Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu”
“Vũ hầu” ở đây ý chỉ Khổng Minh Gia Cát Lượng, người giúp Lưu Bị lập nên nhà Thục Hán. Đây là con người tận trung đã cống hiến cả cuộc đời cho nhà Thục và là một biểu tượng về chí làm trai. Phạm Ngũ Lão xấu hổ khi nghe chuyện Vũ hầu vì trước hết, ông thấy mình chưa lập được công danh, chưa trả xong nợ cho quê hương, đất nước. Mặt khác, ông thấy “thẹn” khi đứng trước tấm gương sáng cả về nhân cách lẫn tài năng của Gia Cát Lượng. Cái “thẹn” ấy là sự kính trọng đối với Vũ hầu đồng thời cũng là khát vọng của trang nam tử muốn noi bước người xưa tận trung báo quốc, trả nợ công danh. Nếu chưa lập được công danh thì nói thẹn là điều dễ hiểu. Nhưng khi đã dốc hết lòng cho giang sơn gấm vóc mà vẫn nói thẹn thì phải thấy khát vọng của nhân vật trữ tình lớn đến độ nào. Hai câu thơ sau đã cho ta thấy được khát vọng, hoài bão của bậc anh hùng và nỗi “thẹn” của người quân tử. Cách hành xử đầy tinh thần nhân văn ta còn bắt gặp trong thơ Cao Bá Quát:
“Nhất sinh đê thủ bái mai hoa”
(Cả đời chỉ biết cúi đầu bái lạy hoa mai).
Hay trong thơ Nguyễn Khuyến:
“Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào”
hay:
“Ơn vua chưa chút đáp đền
Cúi trông thẹn đất, ngửa trông thẹn trời”
Về nghệ thuật, bài thơ có sử dụng những hình ảnh mang vẻ đẹp vũ trụ kì vĩ, tráng lệ, có tính chất thẩm mỹ; ngôn từ ngắn gọn, hàm súc, bộc lộ sự trang trọng và nhân cách cao đẹp của Phạm Ngũ Lão.
Thuật lòng là một bài thơ xuất sắc trong sự nghiệp của Phạm Ngũ Lão, bài thơ cho ta hiểu thêm về hào khí Đông A của cả 1 thời đại thông qua hình ảnh người anh hùng về quốc, đồng thời kêu gọi ý thức trách nhiệm của mỗi người trong việc bảo vệ, xây dựng đất nước.
Giá trị nội dung và nghệ thuật trong Tỏ lòng (Thuật hoài) của Phạm Ngũ Lão
1. Giá trị nội dung
2. Giá trị nghệ thuật
=> Tất cả đã khắc họa thành công vẻ đẹp của những con người có sức mạnh, lí tưởng nhân cách cao cả cùng khí thế hào hùng của thời đại
Bài tập 1:
- " hoành sóc", từ "múa giáo" chưa thể hiện được âm hưởng hào hùng, "hoành sóc" => tư thế hiên ngang cầm ngang ngọn giáo đối mặt với kẻ thù bảo vệ đất nước.
- Không gian rộng lớn của non sông, giang sơn, đất nước, mang tầm vóc vũ trụ => mở ra khoảng thời gian trải dài vô tận "kháp kỉ thu".
- Hình ảnh con người trở lên kì vĩ đến lạ thường => tư thế hào hùng, mạnh mẽ ở con người.
Bài tập 2: Cảm nhận sức mạnh của quân dân nhà Trần
" Ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu" là quân đội ngày xưa ,chia lính thành ba đội gồm tiền quân, trung quân, hậu quân. Ngoài ra, có thể hiểu " ba quân" chỉ quân đội hùng mạnh nhà Trần, tượng trưng cho sức mạnh dân tộc một đất nước, sức mạnh quân đội nhà Trần tựa như hổ nuốt trôi trâu, mạnh mẽ , mang âm hưởng '' hào khí Đông A", đem lại thắng lợi trước kẻ thù bảo vệ gìn giữ đất nước, giang sơn.
Bài tập 3: “Nợ” công danh có thể hiểu theo cả 2 nghĩa.
=> Là món nợ mà người nam nhi luôn muốn trả hết cho đời, đã là nam nhi ai cũng muốn gắng sức mình thành đạt, lập danh để lại tiếng thơm muôn đời để bản thân mình, để cuộc đời mình thêm ý nghĩa cống hiến hết mình vì dân vì nước.
Bài tập 4: Ý nghĩa của “nỗi thẹn”: " thẹn" có thể hiểu là vì chưa bằng Vũ Hầu ,chưa trả xong nợ nước, lại thêm khát vọng phụng sự nhà cho nhà Trần đến hết đời nên hổ thẹn xấu hổ với bản thân thấy được vẻ đẹp tâm hồn, nhân cách, lí tưởng, khát vọng của tác giả, con người thời Trần.
Bài tập 5: Ý nghĩa:
- Nam nhi thời Trần có vẻ đép: lớn lao kỳ vĩ mang tầm vóc của vũ trụ rộng lớn, mang một hoài bão lớn lao được cống hiến hết mình cho đất nước. Mỗi cá nhân đều mang ý thức trách nhiệm tạo nên một nhà Trần hùng mạnh, mang hào khí Đông A lưu danh sử sách.
=> Tự hào về lịch sử vẻ vang dân tộc,biết ơn cha ông đã cố gắng hết mình bảo vệ và xây dựng tổ quốc, ý thức tinh thần trách nhiệm, ý thức cá nhân về công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc, bảo vệ những gì mà cha ông ta đã gây dựng.
Phân tích bài thơ Tỏ lòng của Phạm Ngũ Lão
Nhận xét về Phạm Ngũ Lão, sách Đại việt sử ký toàn thư viết: “Ngũ Lão xuất thân trong hàng quân ngũ nhưng rất thích đọc sách, là người phóng khoáng, có chí lớn, thích ngâm thơ, tựa như không để ý đến việc võ binh. Nhưng quân ông chỉ huy, thực là đội quân phụ tử, hễ đánh là thắng”. Dường như trong những vần thơ của ông cũng mang theo lý tưởng, khát vọng được lập công danh với đời, điều đó đã được thể hiện thông qua tác phẩm “Tỏ lòng”.
Bài thơ Tỏ lòng khắc họa vẻ đẹp của con người có sức mạnh, có lí tưởng, khát vọng, nhân cách cao cả cùng khí thế hào hùng trong hào khí Đông A. Câu một đã mở ra cho chúng ta hình ảnh một vị tướng, một vị chỉ huy quân đội trấn giữ biên cương, sẵn sàng chiến đấu bảo vệ tổ quốc:
“Hoành sóc giang sơn kháp kỷ thu,
Tam quân tì hổ khí thôn ngưu.”
Dịch nghĩa:
Cầm ngang ngọn giáo gìn giữ non sông đã mấy thu,
Ba quân như hổ báo, khí thế hùng dũng làm lu mờ cả sao Ngưu
Trước hết độc giả thấy được hình ảnh của nhân vật trữ tình trong tư cách một trang nam nhi dày dạn trận mạc. Tư thế là tư thế của chiến binh: hoành sóc (cầm ngang ngọn giáo): tư thế ung dung đĩnh đạc, chủ động, hùng dũng, hiên ngang sẵn sàng chiến đấu bảo vệ tổ quốc. Đó là tư thế của con người sôi sục ý chí chiến đấu chống kẻ thù xâm lược. Hình ảnh vị tướng hùng dũng, tư thế hiên ngang với sứ mệnh cao cả là trấn giữ giang sơn, giữ yên bờ cõi. Đây là hình ảnh biểu trưng của tinh thần xông pha, của tư thế làm chủ chiến trường, của phong độ lẫm liệt hiên ngang giữa trời đất. Tầm vóc của chủ thể trữ tình này hiện lên là con người vũ trụ trong không gian vô cùng, thời gian vô tận. Từ ngưu trong câu thơ có hai nghĩa: con trâu và sao Ngưu. Nhưng có vẻ hình ảnh “ba quân khí thế át cả sao Ngưu” giàu chất thơ hơn. Người võ tướng với tư thế cầm ngang ngọn giáo, mà ngọn giáo ấy đựơc đo bằng chiều kích của giang sơn thì ắt hẳn khí thế của ba quân phải xung thiên làm mờ cả sao Ngưu chứ không nên hiểu một cách quá cụ thể: ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu sẽ làm giảm đi vẻ đẹp của câu thơ. Hai câu thơ hô ứng, quyện hòa, tôn cao nhau lên. Thủ pháp cường điệu, phóng đại đã thật sự dựng dậy được không khí đặc trưng của một thời kỳ lịch sử mà khi đó nhân vật trung tâm của đời sống đất nước là những con người phi thường với quyết tâm“Sát Thát”. Hai câu thơ đầu có giọng điệu khẳng định đanh thép ngợi ca chủ nghĩa anh hùng của quân đội nhà Trần và của dân tộc trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Mông - Nguyên. Có thể khẳng định, hai câu thơ đầu chính là niềm tự hào của tác giả về vị thế bản thân và sức mạnh quân đội.
Bài thơ không dừng lại ở việc phác dựng những đường nét lớn của bối cảnh cũng như dáng dấp của những chiến binh mà điều quan trọng hơn là nó cho ta thấy được hoài bão, hùng tâm tráng khí của nhân vật trữ tình.
“ Nam nhi vị liễu công danh trái”
Vào thời trung đại, trả nợ công danh là khát vọng, hoài bão, lẽ sống của hầu hết trang nam tử. Có hai con đường trả nợ công danh: dùi mài kinh sử để đỗ đạt làm quan hoặc xông pha trận mạc chiến đấu, lập công báo quốc. Điều này là do chịu sự ảnh hưởng của tư tưởng Nho gia. Với Phạm Ngũ Lão, ý thức được thời buổi loạn lạc, ông chọn cho mình con đường xông pha nơi chiến trường. Ông xem công danh là cái nợ mình còn vương. Chưa trả không có nghĩa là bất lực, bất tài không lập được chiến công mà chỉ là thời cơ chưa tới. Cái “nợ công danh” ấy, chỉ cần cơ hội đến, ông sẽ sẵn sàng chặt đứt. Thông qua ý thức trả nợ công danh hiện lên khát vọng cháy bỏng, mãnh liệt của đáng nam nhi một lòng muốn báo đền nợ nước.
“Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu”
“Vũ hầu” ở đây ý chỉ Khổng Minh Gia Cát Lượng, người giúp Lưu Bị lập nên nhà Thục Hán. Đây là con người tận trung đã cống hiến cả cuộc đời cho nhà Thục và là một biểu tượng về chí làm trai. Phạm Ngũ Lão xấu hổ khi nghe chuyện Vũ hầu vì trước hết, ông thấy mình chưa lập được công danh, chưa trả xong nợ cho quê hương, đất nước. Mặt khác, ông thấy “thẹn” khi đứng trước tấm gương sáng cả về nhân cách lẫn tài năng của Gia Cát Lượng. Cái “thẹn” ấy là sự kính trọng đối với Vũ hầu đồng thời cũng là khát vọng của trang nam tử muốn noi bước người xưa tận trung báo quốc, trả nợ công danh. Nếu chưa lập được công danh thì nói thẹn là điều dễ hiểu. Nhưng khi đã dốc hết lòng cho giang sơn gấm vóc mà vẫn nói thẹn thì phải thấy khát vọng của nhân vật trữ tình lớn đến độ nào. Hai câu thơ sau đã cho ta thấy được khát vọng, hoài bão của bậc anh hùng và nỗi “thẹn” của người quân tử. Cách hành xử đầy tinh thần nhân văn ta còn bắt gặp trong thơ Cao Bá Quát:
“Nhất sinh đê thủ bái mai hoa”
(Cả đời chỉ biết cúi đầu bái lạy hoa mai).
Hay trong thơ Nguyễn Khuyến:
“Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào”
hay:
“Ơn vua chưa chút đáp đền
Cúi trông thẹn đất, ngửa trông thẹn trời”
Về nghệ thuật, bài thơ có sử dụng những hình ảnh mang vẻ đẹp vũ trụ kì vĩ, tráng lệ, có tính chất thẩm mỹ; ngôn từ ngắn gọn, hàm súc, bộc lộ sự trang trọng và nhân cách cao đẹp của Phạm Ngũ Lão.
Thuật lòng là một bài thơ xuất sắc trong sự nghiệp của Phạm Ngũ Lão, bài thơ cho ta hiểu thêm về hào khí Đông A của cả 1 thời đại thông qua hình ảnh người anh hùng về quốc, đồng thời kêu gọi ý thức trách nhiệm của mỗi người trong việc bảo vệ, xây dựng đất nước.
*Giá trị nội dung và nghệ thuật:
1.Nội dung
Hình ảnh người lính nhà Trần hiên ngang, kì vĩ, lớn lao sánh ngang tầm vũ trụ, hiện lên với khí khái, tráng trí của người nam nhi trong xã hội đương thời.
Quân đội nhà Trần với sức mạnh lớn lao, mạnh mẽ có thể nuốt trôi sao ngưu, toát lên hào khí Đông Á.
Nỗi lòng của tác giả về công danh, sự nghiệp, về chí làm trai, khát vọng, hoài bão lớn lao và nhân cách cao đẹp của một con người.
2. Nghệ thuật
Thể thơ Thất ngôn tứ tuyệt
Ngôn ngữ hàm súc.
Bài tập 1:
1. " hoành sóc", "múa giáo" => chưa thể hiện được âm hưởng hào hùng, "hoành sóc" tư thế hiên ngang cầm ngang ngọn giáo đối mặt với kẻ thù bảo vệ đất nước.
2. Không gian rộng lớn của non sông, giang sơn, đất nước, mang tầm vóc vũ trụ
=> mở ra khoảng thời gian trải dài vô tận "kháp kỉ thu".
3. Con người trở lên kì vĩ đến lạ thường
=> tư thế hào hùng, mạnh mẽ
Bài tập 2: Sức mạnh của quân dân nhà Trần: " Ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu" là quân đội ngày xưa gồm tiền quân, trung quân, hậu quân. Có thể hiểu " ba quân" chỉ quân đội hùng mạnh nhà Trần, sức mạnh dân tộc, sức mạnh quân đội nhà Trần tựa như hổ nuốt trôi trâu, mạnh mẽ , mang âm hưởng '' hào khí Đông A".
Bài tập 3: “Nợ” công danh có thể hiểu theo cả 2 nghĩa => đã là nam nhi ai cũng muốn gắng sức mình thành đạt, lập danh để lại tiếng thơm muôn đời để bản thân mình, để cuộc đời mình thêm ý nghĩa.
Bài tập 4: “nỗi thẹn” => " thẹn" vì chưa bằng Vũ Hầu ,chưa trả xong nợ nước, lại thêm khát vọng phụng sự nhà cho nhà Trần đến hết đời nên hổ thẹn xấu hổ với bản thân.
=> vẻ đẹp tâm hồn, nhân cách, lí tưởng, khát vọng của tác giả, con người thời Trần.
Bài tập 5: Ý nghĩa: Nam nhi thời Trần có vẻ đẹp lớn lao kỳ vĩ mang tầm vóc của vũ trụ rộng lớn, mang một hoài bão lớn lao được cống hiến cho đất nước. => Tự hào về lịch sử vẻ vang dân tộc,biết ơn cha ông đã cố gắng hết mình bảo vệ và xây dựng tổ quốc, tinh thần trách nhiệm, ý thức cá nhân về công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Phân tích bài thơ Tỏ lòng của Phạm Ngũ Lão
Nhận xét về Phạm Ngũ Lão, sách Đại việt sử ký toàn thư viết: “Ngũ Lão xuất thân trong hàng quân ngũ nhưng rất thích đọc sách, là người phóng khoáng, có chí lớn, thích ngâm thơ, tựa như không để ý đến việc võ binh. Nhưng quân ông chỉ huy, thực là đội quân phụ tử, hễ đánh là thắng”. Dường như trong những vần thơ của ông cũng mang theo lý tưởng, khát vọng được lập công danh với đời, điều đó đã được thể hiện thông qua tác phẩm “Tỏ lòng”.
Bài thơ Tỏ lòng khắc họa vẻ đẹp của con người có sức mạnh, có lí tưởng, khát vọng, nhân cách cao cả cùng khí thế hào hùng trong hào khí Đông A. Câu một đã mở ra cho chúng ta hình ảnh một vị tướng, một vị chỉ huy quân đội trấn giữ biên cương, sẵn sàng chiến đấu bảo vệ tổ quốc:
“Hoành sóc giang sơn kháp kỷ thu,
Tam quân tì hổ khí thôn ngưu.”
Dịch nghĩa:
Cầm ngang ngọn giáo gìn giữ non sông đã mấy thu,
Ba quân như hổ báo, khí thế hùng dũng làm lu mờ cả sao Ngưu
Trước hết độc giả thấy được hình ảnh của nhân vật trữ tình trong tư cách một trang nam nhi dày dạn trận mạc. Tư thế là tư thế của chiến binh: hoành sóc (cầm ngang ngọn giáo): tư thế ung dung đĩnh đạc, chủ động, hùng dũng, hiên ngang sẵn sàng chiến đấu bảo vệ tổ quốc. Đó là tư thế của con người sôi sục ý chí chiến đấu chống kẻ thù xâm lược. Hình ảnh vị tướng hùng dũng, tư thế hiên ngang với sứ mệnh cao cả là trấn giữ giang sơn, giữ yên bờ cõi. Đây là hình ảnh biểu trưng của tinh thần xông pha, của tư thế làm chủ chiến trường, của phong độ lẫm liệt hiên ngang giữa trời đất. Tầm vóc của chủ thể trữ tình này hiện lên là con người vũ trụ trong không gian vô cùng, thời gian vô tận. Từ ngưu trong câu thơ có hai nghĩa: con trâu và sao Ngưu. Nhưng có vẻ hình ảnh “ba quân khí thế át cả sao Ngưu” giàu chất thơ hơn. Người võ tướng với tư thế cầm ngang ngọn giáo, mà ngọn giáo ấy đựơc đo bằng chiều kích của giang sơn thì ắt hẳn khí thế của ba quân phải xung thiên làm mờ cả sao Ngưu chứ không nên hiểu một cách quá cụ thể: ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu sẽ làm giảm đi vẻ đẹp của câu thơ. Hai câu thơ hô ứng, quyện hòa, tôn cao nhau lên. Thủ pháp cường điệu, phóng đại đã thật sự dựng dậy được không khí đặc trưng của một thời kỳ lịch sử mà khi đó nhân vật trung tâm của đời sống đất nước là những con người phi thường với quyết tâm“Sát Thát”. Hai câu thơ đầu có giọng điệu khẳng định đanh thép ngợi ca chủ nghĩa anh hùng của quân đội nhà Trần và của dân tộc trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Mông - Nguyên. Có thể khẳng định, hai câu thơ đầu chính là niềm tự hào của tác giả về vị thế bản thân và sức mạnh quân đội.
Bài thơ không dừng lại ở việc phác dựng những đường nét lớn của bối cảnh cũng như dáng dấp của những chiến binh mà điều quan trọng hơn là nó cho ta thấy được hoài bão, hùng tâm tráng khí của nhân vật trữ tình.
“ Nam nhi vị liễu công danh trái”
Vào thời trung đại, trả nợ công danh là khát vọng, hoài bão, lẽ sống của hầu hết trang nam tử. Có hai con đường trả nợ công danh: dùi mài kinh sử để đỗ đạt làm quan hoặc xông pha trận mạc chiến đấu, lập công báo quốc. Điều này là do chịu sự ảnh hưởng của tư tưởng Nho gia. Với Phạm Ngũ Lão, ý thức được thời buổi loạn lạc, ông chọn cho mình con đường xông pha nơi chiến trường. Ông xem công danh là cái nợ mình còn vương. Chưa trả không có nghĩa là bất lực, bất tài không lập được chiến công mà chỉ là thời cơ chưa tới. Cái “nợ công danh” ấy, chỉ cần cơ hội đến, ông sẽ sẵn sàng chặt đứt. Thông qua ý thức trả nợ công danh hiện lên khát vọng cháy bỏng, mãnh liệt của đáng nam nhi một lòng muốn báo đền nợ nước.
“Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu”
“Vũ hầu” ở đây ý chỉ Khổng Minh Gia Cát Lượng, người giúp Lưu Bị lập nên nhà Thục Hán. Đây là con người tận trung đã cống hiến cả cuộc đời cho nhà Thục và là một biểu tượng về chí làm trai. Phạm Ngũ Lão xấu hổ khi nghe chuyện Vũ hầu vì trước hết, ông thấy mình chưa lập được công danh, chưa trả xong nợ cho quê hương, đất nước. Mặt khác, ông thấy “thẹn” khi đứng trước tấm gương sáng cả về nhân cách lẫn tài năng của Gia Cát Lượng. Cái “thẹn” ấy là sự kính trọng đối với Vũ hầu đồng thời cũng là khát vọng của trang nam tử muốn noi bước người xưa tận trung báo quốc, trả nợ công danh. Nếu chưa lập được công danh thì nói thẹn là điều dễ hiểu. Nhưng khi đã dốc hết lòng cho giang sơn gấm vóc mà vẫn nói thẹn thì phải thấy khát vọng của nhân vật trữ tình lớn đến độ nào. Hai câu thơ sau đã cho ta thấy được khát vọng, hoài bão của bậc anh hùng và nỗi “thẹn” của người quân tử. Cách hành xử đầy tinh thần nhân văn ta còn bắt gặp trong thơ Cao Bá Quát:
“Nhất sinh đê thủ bái mai hoa”
(Cả đời chỉ biết cúi đầu bái lạy hoa mai).
Hay trong thơ Nguyễn Khuyến:
“Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào”
hay:
“Ơn vua chưa chút đáp đền
Cúi trông thẹn đất, ngửa trông thẹn trời”
Về nghệ thuật, bài thơ có sử dụng những hình ảnh mang vẻ đẹp vũ trụ kì vĩ, tráng lệ, có tính chất thẩm mỹ; ngôn từ ngắn gọn, hàm súc, bộc lộ sự trang trọng và nhân cách cao đẹp của Phạm Ngũ Lão.
Thuật lòng là một bài thơ xuất sắc trong sự nghiệp của Phạm Ngũ Lão, bài thơ cho ta hiểu thêm về hào khí Đông A của cả 1 thời đại thông qua hình ảnh người anh hùng về quốc, đồng thời kêu gọi ý thức trách nhiệm của mỗi người trong việc bảo vệ, xây dựng đất nước.
*Giá trị
1.Nội dung: Hình ảnh người lính nhà Trần hiên ngang, kì vĩ, lớn lao sánh ngang tầm vũ trụ, khí khái, tráng trí của người nam nhi trong xã hội đương thời. Quân đội nhà Trần với sức mạnh lớn lao, mạnh mẽ có thể nuốt trôi sao ngưu, toát lên hào khí Đông Á. Nỗi lòng của tác giả về công danh, sự nghiệp, về chí làm trai, khát vọng, hoài bão lớn lao, nhân cách cao đẹp của một con người.
2. Nghệ thuật: Thể thơ Thất ngôn tứ tuyệt, Ngôn ngữ hàm súc.